Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 02
Chương 2
Đường phố trống trơn,
cơn gió giật đi kèm với mưa tuyết đã lùa mọi người vào nhà ga hay các cửa hiệu
chung quanh. Lưu thông trên đường Euston dừng lại hết, chỉ còn mấy cái cần gạt
nước ở kính chắn gió xe hơi là đập vỗ điên cuồng. Những tiếng còi hụ inh ỏi, và
thiết bị báo động trong một chiếc xe hơi gần đó chợt gào rú lên.
“Bám sát chú”, Nicholas ra lệnh, rồi quay người lao thẳng qua bên kia
đường, len lỏi xuyên qua hàng xe cộ đang đứng cứng ngắc. Sophie theo sát đằng
sau ông. Josh ngừng lại một chút trước khi bước khỏi lề đường, nhìn ngược lại
phía nhà ga. Ba hình dáng kia đã tụ lại với nhau nơi lối vào, đầu và mặt chúng
giấu trong mũ trùm của mấy chiếc áo khoác. Khi làn nước mưa nhuộm những chiếc
parka của chúng thành màu xanh lá tối sẫm, Josh ắt hẳn đã có thể khẳng định
rằng bọn chúng vừa khoác lên người những chiếc áo choàng không tay. Cậu run lẩy
bẩy, và lần này cơn lạnh cóng không chỉ đến từ cơn mưa tê buốt đang xối xả ầm
ào tuôn xuống như trút. Cậu quay người lao vọt sang bên kia đường.
Chúi đầu xuống tránh nước mưa tạt, Nicholas dẫn hai đứa trẻ song sinh đi
giữa làn xe cộ. “Nhanh lên. Nếu tạo được một khoảng cách vừa đủ giữa ta với
chúng thì mùi của xe cộ và nước mưa có thể sẽ gột sạch được mùi hương của chúng
ta đó”.
Sophie liếc nhìn ra đằng sau. Ba tên trùm mũ đã rời khỏi chỗ trú mưa nơi
nhà ga và đang tiến đến gần khá nhanh. “ Bọn chúng đang ở sau mình kìa”, cô bé
nói hổn hển, giọng hốt hoảng.
“Mình làm cái gì bây giờ chú?”, Josh hỏi.
“Không biết nữa”, Flamel nói gọn ơ. Ông nhìn chăm chăm xuống con đường dài
thẳng tắp. “Nhưng nếu ở lại đây, chúng ta sẽ chết mất. Hoặc ít nhất thì cũng là
chú”. Hàm răng ông lóe sáng khi ông nhoẻn cười không chút đùa cợt. “Dee sẽ vẫn
để cả hai đứa tụi cháu sống, chú bảo đảm”. Flamel liếc nhìn quanh, rồi chợt
thấy một con hẻm phía bên trái và ra hiệu cho hai đứa sinh đôi đi theo ông.
“Đường này. Chúng ta sẽ cố cắt đuôi chúng”.
“Cháu ước gì có Scatty ở đây”, Josh lầm bầm, thật sự nhận ra tầm quan trọng
trong nỗi mất mát của họ. “Thế nào chị ấy cũng trị được bọn chúng”.
Trời tạnh ráo trong con hẻm hẹp có tường cao ngút hai bên. Những thùng rác
nhựa màu xanh lơ, xanh lá, và nâu xếp thành hàng sát vào một bên tường, còn
những mảnh gỗ thừa thẹo còn lại của mấy tấm nâng hàng và những túi nhựa đen
thui nhét rác căng cứng chất thành đống dựa vào bên bờ tường còn lại. Mùi hôi
thối xông lên, và một con mèo lông bù xù đang ngồi trên miệng một túi rác cẩn
thận lấy móng vuốt xé nhỏ túi rác ra. Thậm chí con mèo còn không thèm ngẩng lên
nhìn khi Flamel và cặp song sinh chạy ngang qua. Tuy vậy, chỉ một tích tắc sau,
khi cả ba dáng người đội mũ trùm đầu bước vào con hẻm, con mèo ấy liền gò cái
lưng cong vòng, lông dựng đứng, và biến mất dạng vào vùng tối.
“Chú có biết con hẻm này dẫn đi đâu không ạ?”, Josh hỏi khi họ phóng vụt
qua một dãy cửa ra vào bên tay trái, rõ ràng đó là lối sau dẫn vào những cửa
hiệu buôn bán trên con đường chính.
“Không biết gì hết trơn”, Flamel thú nhận. “Nhưng miễn là nó mang chúng ta
xa khỏi Bọn Trùm Đầu, còn thì mọi chuyện đều không quan trọng”.
Sophie nhìn lui. “Cháu không thấy chúng nữa”, cô bé loan báo. “Có lẽ chúng
ta cắt đuôi được chúng rồi”. Cô bé bám theo Nicholas vòng quanh một góc phố sát
đến nỗi chỉ chực đâm thẳng vào ông khi ông đột ngột dừng lại.
Rồi đến lượt Josh vòng quanh góc phố ấy, suýt chút nữa mất dấu hai người
kia. “Cứ đi thôi”, cậu vừa thở hổn hển, vừa chạy lắt léo vượt qua hai người và
dẫn đầu. Nhưng rồi cậu chợt hiểu ra tại sao hai người kia dừng lại: con hẻm tận
cùng bằng một bức tường gạch đỏ quạch sừng sững, mút trên đầu bờ tường là mớ
dây kẽm gai quấn lòng vòng.
Nhà Giả kim xoay người lại và đặt ngón tay lên môi. “Đừng nói gì cả. Biết
đâu có thể là bọn chúng đã xúm nhau băng qua con hẻm này mất rồi...”. Một cơn
gió mạnh cuốn những giọt mưa lạnh lẽo rơi lộp độp xuống đất mang theo một thứ
mùi ôi thiu thum thủm khác thường: mùi hôi thối của thịt ươn. “Mà cũng có thể
là không”, ông nói thêm khi cả ba tên Genii Cucullati nhún nhảy nhè nhẹ vòng
quanh góc phố ấy. Nicholas kéo hai đứa sinh đôi ra phía sau ông, nhưng ngay lập
tức hai đứa bung ra chọn lấy hai vị trí bên cạnh ông. Theo bản năng, Sophie di
chuyển sang bên phải và Josh bên trái. “Đứng vào sau lưng ấy chứ”, Flamel nói.
“Không”, Josh nói.
“Tụi cháu sẽ không để chú một mình đương đầu với ba tên này đâu”, Sophie
nói thêm.
Bọn Trùm Đầu đi chậm lại, rồi dàn ra chốt lấy con hẻm và dừng hẳn lại.
Chúng đứng yên một cách khác thường, mặt giấu trong mấy cái mũ trùm rộng rinh.
“Chúng chờ đợi cái gì vậy cà?”, Josh lẩm bẩm, giọng cậu chỉ vừa vặn lớn hơn
tiếng thì thầm một chút. Có cái gì đó trong cách chúng đứng, cách chúng giữ
thẳng người: cái gì đó gợi cho người ta nghĩ đến một loài thú. Cậu đã từng xem
một bộ phim tài liệu trong chương trình truyền hình National Geographic, trong
đó, một chú cá sấu châu Mỹ đang nằm trên một con sông chờ hươu nai băng qua.
Hoàn toàn trong trạng thái lặng im phăng phắc - mãi cho đến khi có cơ hội nổ
bùng ra thành hành động chớp nhoáng.
Đột nhiên, một âm thanh nghe như tiếng gỗ lách tách bật tiếng kêu răng rắc
cực kỳ lớn vang khắp con hẻm yên ắng, theo sau là những âm thanh như thể tiếng
quần áo bị xé toạc ra.
“Chúng đang biến hình”, Sophie thở dồn dập.
Bên dưới lớp áo khoác màu xanh lục, cơ bắp của chúng dợn sóng cuồn cuộn và
co thắt từng cơn, uốn cong cột xương sống của những sinh vật ấy thành hình vòng
cung, đẩy đầu chúng nhô hẳn tới phía trước. Những cánh tay vụt dài ra thấy rõ,
đẩy bàn tay thò khỏi ống tay áo vốn đã dài quá khổ, những bàn tay bây giờ mọc
đầy lông lá và mút cuối là những móng vuốt đen đủi quăn chĩa lung tung.
“Sói à?”, Josh hỏi giọng run run.
“Giống gấu hơn là sói”, Nicholas
vừa trả lời nhè nhẹ, vừa nhìn quanh con hẻm khắp lượt, đôi mắt ông nheo lại.
“Và nhiều chất sói hơn gấu”, ông nói thêm khi nghe thoảng trong không khí mùi
hương vanilla.
“Và không gì đe dọa được chúng ta”,
Sophie tuyên bố, đồng thời vụt đứng thẳng người hơn. Giơ bàn tay phải lên cao,
cô bé ấn ngón cái tay trái vào vòng tròn màu vàng ánh kim ăn sâu vào da thịt nơi
cổ tay mình.
“Không”, Nicholas vừa gắt lên, vừa
đưa tay đẩy bàn tay cô gái nhỏ xuống. “Chú đã nói với cháu rồi, cháu không thể
dùng năng lượng của mình trong thành phố này kia mà. Luồng điện của cháu quá
đặc biệt đi”.
Sophie lắc đầu phẫn nộ: “Cháu biết
mấy thứ này là gì mà”, cô bé nói chắc nịch. Rồi một cơn rùng mình len vào giọng
nói cô bé. “Cháu biết chúng làm gì nữa kìa. Chú không thể mong đợi tụi cháu chỉ
đứng yên đây trong khi mấy thứ đó ăn thịt chú được. Hãy để cháu xử lý bọn chúng
- cháu có thể nướng bọn chúng thành lát khoai tây giòn rụm cho xem”. Cơn giận
dữ của cô bé nhanh chóng biến thành nỗi phấn khích trước viễn cảnh đó, và cô
mím môi cười. Trong thoáng chốc đôi mắt sáng màu xanh lơ của cô bé lấp lánh bạc
còn khuôn mặt lại hóa nên cứng cỏi và góc cạnh, khiến cô bé trông già hơn rất
nhiều so với tuổi mười lăm của mình.
Nụ cười của Nhà Giả kim thật tàn
nhẫn: “Cháu có thể làm điều đó. Và đến lúc ấy, chú ngờ rằng chúng ta chỉ kịp
chạy xuống đường chừng hơn một cây số rưỡi thì đã có thứ gì đó còn chết người
hơn những sinh vật này bắt được chúng ta. Cháu không ý thức nổi những gì đang
dạo qua dạo lại trên những đường phố này đâu, Sophie. Chú xử lý chuyện này được
mà”, ông cứ nằng nặc. “Chú không đến nỗi hoàn toàn không có khả năng tự vệ
đâu”.
“Bọn chúng sắp tấn công kìa”, Josh
nói gấp gáp, diễn dịch lại ngôn ngữ thân thể của đám sinh vật, quan sát xem
chúng di chuyển thành một kiểu mẫu đột kích như thế nào. Đâu đó sâu tận trong
tâm thức, cậu bắt gặp mình đang băn khoăn tự hỏi không biết làm thế nào mà cậu
lại biết được điều này. “Nếu bạn sắp sửa làm một việc, bạn cần phải làm việc đó
ngay bây giờ”.
Bọn Genii Cucullati đã dàn quân ra,
mỗi con đóng giữ một vị trí trước Flamel và cặp song sinh. Các sinh vật này gập
người tới trước, lưng chúng uốn cong vòng, mấy chiếc áo parka căng cứng bó qua
những bộ ngực rộng, vai u phồng và những cánh tay đầy cơ bắp. Trong vùng tối
của mấy cái mũ trùm, những cặp mắt đen ngả xanh lơ chiếu sáng rực phía trên hàm
răng lởm chởm. Chúng nói chuyện với nhau bằng một thứ âm thanh hệt như những tiếng
ăng ẳng the thé và gầm gừ cằn nhằn.
Nicholas vén ống tay áo khoác da
lên, để lộ ra quanh cổ tay phải của ông chiếc vòng mắt xích bằng bạc và hai
chiếc vòng tay tình bạn đơn giản làm bằng chỉ sợi nhiều màu đã cũ sờn. Vặn tháo
một trong hai chiếc vòng kết bằng sợi đơn giản ấy, ông lăn tròn nó giữa lòng
bàn tay mình, đưa lên môi và thổi phù vào đó.
Sophie và Josh chăm chú nhìn ông
quăng chiếc vòng bằng chỉ cuộn lại như trái banh nhỏ xuống đất ngay trước mặt
Bọn Trùm Đầu. Hai đứa trông thấy những sợi dây đủ màu sắc ấy rơi vào vũng bùn
ngay trước mặt sinh vật lớn nhất trong đám và dốc hết tâm trí đón chờ một cú
nổ. Thậm chí cả những sinh vật kinh khiếp kia cũng bò lùi khỏi vũng nước nhỏ
ấy, móng vuốt trượt trên vỉa hè.
Ấy vậy mà chẳng có chuyện gì xảy ra
cả.
Con vật to lớn nhất kia phát ra một
thứ âm thanh có lẽ là tiếng cười.
“Cháu đã nói tụi cháu phái ra tay
kia mà”, Josh nói đầy thách thức, dù trước thất bại của Nhà Giả kim, cậu thấy
mình cũng hơi bị run. Cậu đã từng trông thấy Flamel ném ra những ngọn giáo năng
lượng thuần khiết, đã từng chăm chú nhìn ông tạo ra một khu rừng từ một lớp gỗ
lót sàn - bây giờ cậu đang kỳ vọng được chiêm ngưỡng một pha ngoạn mục. Josh
liếc nhìn cô chị gái và biết rằng cô bé cũng nghĩ đúng như cậu. Cùng với thể
trạng ngày càng già yếu của Flamel, năng lượng ông cũng đang mất dần. Josh gật
đầu rất nhẹ và thấy đầu Sophie cũng nghiêng nghiêng đáp trả, rồi cô bé cong gập
mấy ngón tay mình lại. “Chú Nicholas, chú đã trông thấy tụi cháu làm gì với bọn
đầu máng xối gargoyle rồi đó”, Josh nói tiếp, tin chắc về năng lượng của cô chị
gái và của chính mình. “Cùng nhau, cháu và Sophie có thể chống cự bất kỳ ai...
và bất kỳ thứ gì”.
“Ranh giới giữa lòng tự tin và tính
kiêu căng ngạo mạn rất mỏng manh, Josh”, Flamel nói khẽ. “Và ranh giới giữa
tính cao ngạo với sự ngu dại ngớ ngẩn thậm chí còn tinh vi hơn, Sophie ạ”, ông
nói thêm mà không hề nhìn vào cô bé. “Nếu tụi cháu sử dụng năng lượng của mình,
tức là tụi cháu đã buộc tất cả chúng ta vào bản án tử hình”.
Josh lắc đầu. Cậu rất phẫn nộ trước
sự yếu đuối quá lộ liễu của Flamel. Bước tách khỏi người đàn ông luống tuổi,
cậu gỡ ba lô của mình xuống và giật mạnh cho nó mở bung ra. Ló lên khỏi một bên
ba lô là cái ống làm bằng giấy bồi, thường dùng để đựng tranh poster và bản đồ
cuộn lại. Bóc toạc cái nắp nhựa màu trắng ra, cậu thò tay vào, túm lấy một vật
ở bên trong được gói bằng giấy bao ép bong bóng và kéo nó ra.
“Chú Nicholas...”, Sophie cất tiếng.
“Kiên nhẫn”, Flamel thì thầm “Kiên nhẫn nào...”
Con vật to lớn nhất trong Bọn Trùm Đầu thả xuống cả bốn chân và bước tới,
những cái vuốt có móng dài bẩn thỉu gõ lách cách trên vỉa hè. “Ông đã được tặng
cho tôi”, con thú dữ nói bằng một giọng cao éo the thé đến mức đáng kinh ngạc -
gần như giọng trẻ con.
“Dee thật là hào phóng”, Flamel điềm tĩnh nói. “Tuy tôi có hơi ngạc nhiên
không hiểu sao giống loài Genii Cucullati lại đi hạ cố làm tay sai cho một nòi
giống người vậy nhỉ”.
Sinh vật ấy dấn thêm một bước lách cách tiến đến gần hơn. “Dee đâu phải là
con người thường tình. Tay Pháp sư Bất tử này rất nguy hiểm, mà ông ta lại được
bao che bảo vệ bởi một chủ nhân có rất nhiều quyền sinh sát trong tay hay còn
hơn thế nữa”.
“Có lẽ anh nên sợ tôi mới phải”, Flamel gợi ý cùng với một nụ cười rất nhẹ.
“Tôi còn già hơn cả Dee, và tôi không hề có chủ nhân nào bảo vệ - mà tôi cũng
chưa từng cần đến một người nào bảo vệ cả!”
Sinh vật phá ra cười và rồi, không hề có một động tác báo trước, nhảy xổ
thẳng vào cổ họng Flamel.
Một thanh kiếm đá rít lên xuyên màn không khí, lạng cái mũ trùm của chiếc
áo parka một nhát gọn lỏn, ngọt xớt cắt đứt lìa một miếng vải màu xanh lá. Sinh
vật ấy hét lên thất thanh và uốn éo toàn thân giữa không trung, cuộn người
tránh khỏi lưỡi kiếm đang vung trở lại, lưỡi kiếm chém thẳng ra đằng trước
chiếc áo khoác, phạt ngang mấy hột nút và bứt banh luôn dây khóa kéo.
Josh Newman bước thẳng tới phía trước Nicholas. Bằng cả hai tay, cậu đang
cầm thanh kiếm đá vừa rút ra khỏi cái ống làm từ giấy bồi. “Tôi không biết mấy
người là ai, hoặc là cái gì”, cậu nói qua hàm răng khít rịt, tiếng nói rung
rung do hormon adrenaline tiết ra cùng với nỗ lực giữ chắc món vũ khí. “Nhưng
tôi cho rằng chắc mấy người đều biết đây là gì rồi chứ?”
Con thú dữ quay người trở lại, đôi mắt màu đen ngả xanh lơ dán chặt vào
lưỡi kiếm xám xịt như đất sét. Cái mũ trùm thường dùng để giấu mặt biến đâu
mất, do đã bị cắt ra thành từng mảng rách tả tơi, những mảnh còn lại treo lủng
lẳng quanh vai nó, để lộ nguyên phần đầu. Không có gì là của con người nơi
những chỗ bằng phẳng và góc cạnh của bộ mặt ấy, thậm chí một chút cũng không.
Josh lưu ý thấy vậy, nhưng khuôn mặt lại xinh đẹp một cách lạ lùng. Cậu tưởng
mình sẽ phải nhìn thấy một con quỷ, nhưng cái đầu này nhỏ đến ngạc nhiên, với
cặp mắt thật lớn màu tối sẫm chìm sâu trong một gợn chân mày hẹp, xương gò má
nhô cao và nhọn. Chiếc mũi thẳng, cánh mũi loe ra. Phần miệng là một đường xẻ
nằm ngang bây giờ hơi mở hé để lộ hàm răng vàng vàng đen đen méo mó chẳng ra
hình thù gì.
Ánh mắt Josh đảo sang trái rồi sang phải nhìn vào hai sinh vật kia. Bọn
chúng cũng tập trung hết sức vào thanh kiếm đá. “Đây là thanh Clarent”, cậu nói
nhỏ. “Tôi đã chiến đấu với Nidhogg ở Paris bằng chính vũ khí này đây”, cậu nói
tiếp. “Và tôi từng trông thấy những gì nó đã làm cho giống loài của các người”.
Cậu di chuyển thanh kiếm nhè nhẹ và có cảm giác như nó kêu ù ù, chuôi kiếm bỗng
nghe thật ấm trong đôi tay cậu.
“Dee chưa hề nói với chúng tôi chuyện này”, sinh vật kia nói bằng một giọng
hệt như tiếng trẻ con. Qua vai Josh, nó nhìn đến Nhà Giả kim. “Thật vậy chứ?”
“Thật”, Flamel nói.
“Nidhogg”, sinh vật này hầu như lập bập ra từng lời. “Và chuyện gì đã xảy
ra cho Kẻ Nuốt chửng Tử thi huyền thoại ấy?”
“Nidhogg chết rồi”, Flamel nói ngắn gọn. “Bị thanh Clarent tiêu
diệt”. Ông bước ra phía trước và đặt bàn tay trái lên vai Josh. “Josh đã giết
chết thứ đó”.
“Bị giết chết dưới tay một giống
người ư?” nó nói đầy vẻ ngờ vực.
“Dee
đã lợi dụng anh, lừa dối phản bội anh. Hắn không nói với các anh rằng chúng tôi
có thanh kiếm này. Hắn còn chưa nói với các anh những điều gì khác nữa chứ: hắn
có nhắc đến số phận của bọn Disir ở Paris
không? Hắn có kể qua cho các anh nghe về vị Thần Ngủ chưa nào?”
Cả ba sinh vật trượt lùi trở lại
cùng với thứ ngôn ngữ riêng của chúng, kêu ăng ẳng the thé và gầm gừ càu nhàu
gì đó giữa chúng với nhau; rồi con to lớn nhất quay ra chăm chú nhìn Josh một
lần nữa. Cái lưỡi đen thui nhảy múa trong không khí. “Những thứ này chỉ mang
lại chút kết quả chẳng đáng là bao. Ta thấy đứng trước ta là một đứa con trai
thuộc giống người đang rất sợ hãi. Ta có thể nghe được những cơ bắp của cậu bé
con căng ra khi cố gắng hết sức mình giữ cho thanh kiếm được vững chắc. Ta có
thể cảm nếm nỗi sợ hãi lan tỏa trong không khí”.
“Vậy đó, nhưng dù anh có thể ngửi
thấy được nỗi sợ hãi đó, thì cậu ấy vẫn tấn công anh kìa”, Flamel nói nhỏ nhẹ.
“Điều đó có gợi ra được chút gì không?”
Đôi vai của sinh vật đó chuyển động
theo một kiểu rùng mình rất kỳ quặc. “Gợi cho người ta thấy rằng cậu bé ấy hoặc
là một tên ngu ngốc dại dột hoặc là một anh hùng”.
“Và anh cùng với giống loài của anh
luôn luôn bị tổn thương bởi cả hai loại người đó”, Flamel nói.
“Đúng, nhưng thế giới này không còn
anh hùng nữa rồi. Không còn ai để tấn công chúng tôi. Loài người không còn lòng
tin dành cho giống loài của chúng tôi. Điều đó khiến chúng tôi trở thành vô
hình và không thể bị tổn thương được”.
Josh và làu bàu vừa dựng mũi kiếm
lên trời. “Đối với Clarent thì không”.
Sinh vật đó nghiêng nghiêng đầu rồi
gật gù. “Đối với Lưỡi kiếm Hèn nhát thì không, đúng vậy. Nhưng chúng ta có ba
người và chúng ta nhanh nhẹn, rất nhanh nhẹn”, nó nói thêm cùng với một nụ cười
rộng đến mang tai phơi bày ra hàm răng nhọn hoắt lởm chởm. “Ta nghĩ chúng ta có
thể bắt được cậu, cậu bé trai ạ; tước lấy thanh kiếm khỏi tay cậu thậm chí còn
trước cả khi cậu biết là...”
Bản năng Josh đang sở hữu mà cậu
không hề biết đã mách bảo với cậu rằng sinh vật đó sắp sửa tấn công đúng ngay
vào lúc nó vừa nói xong. Rồi tất cả sẽ chấm dứt. Không suy nghĩ gì cả, cậu thọc
mạnh thanh kiếm ra theo cú đâm Joan Arc đã dạy cậu. Lưỡi kiếm kêu o o khi đầu
mũi đâm thẳng vào cổ họng đang giương ra của con quái thú. Josh biết rằng tất
cả những gì cậu cần phải làm là xóa tan nỗi sợ hãi bằng chính thanh kiếm này:
chỉ một cú duy nhất đã hầu như tiêu diệt được Nidhogg.
Cười phá lên, sinh vật ấy nhảy lùi
xa khỏi tầm kiếm đâm chĩa tới. “Quá chậm mất rồi, giống người ơi, chậm quá đi
thôi. Mắt ta đã bắt chộp được mấy khớp đốt ngón tay của cậu căng ra và trắng
bệch ngay trước khi cậu đâm đấy”.
Và đúng giây phút đó Josh biết phe
của cậu sẽ thua. Bọn Genii Cucullati quả thật là cực kỳ nhanh nhẹn.
Nhưng ở phía trên vai trái mình,
cậu nghe rõ tiếng Flamel khúc khích cười.
Josh trừng trừng nhìn thẳng vào
sinh vật ấy. Cậu biết rằng điều cuối cùng cậu có thể làm là xoay người, nhưng
cậu băn khoăn tự hỏi không biết chuyện gì lại làm cho Nhà Giả kim vui vẻ như vậy
chứ. Cậu nhìn sát vào Kẻ Trùm Đầu kia. Nhưng đâu có gì thay đổi... ngoại trừ
một việc là khi con quái vật ấy nhảy lùi khỏi tầm kiếm, đã dẫm chân vào vũng
nước bẩn khi nãy.
“Nỗi sợ hãi làm ông phát điên rồi
hả, Nhà Giả kim?”, sinh vật ấy hỏi gằn.
“Hẳn nhiên là anh biết Elder Iris
chứ, con gái của Electra ấy?”, Flamel vừa hỏi như thể đang chuyện trò, vừa bước
quành qua người Josh. Khuôn mặt hẹp của Nhà Giả kim bỗng đanh lại, không hề
biểu cảm, môi ông mỏng dính như một đường kẻ, đôi mắt nhàn nhạt khép ti hí chỉ
nhỉnh hơn hai đường rãnh một chút.
Đôi mắt màu đen ngả sang xanh lơ
của sinh vật kia trợn trừng đầy vẻ khiếp đảm. Nó cúi nhìn xuống.
Nước bẩn đang cuộn xoáy quanh bàn
chân nó thình lình nở bung ra như một khoảnh cầu vồng đầy màu sắc tràn cả ra
ngoài những tao dây tả tơi của chiếc vòng tay đan kết bằng chỉ của Flamel. Tên
Genii Cucullati cố nhảy lùi lại, nhưng hai chân trước của nó đã nhanh chóng
dính chặt vào vũng nước. “Thả tôi ra, giống người kia”, nó thét lên thất thanh,
cung giọng cao ré như trẻ con của nó chứa đầy nỗi khiếp đảm. Sinh vật ấy điên
cuồng cố giật người thoát khỏi đó. Ấn sâu những móng vuốt xuống, nó cố vận dụng
lực kéo, nhưng mút đầu một cái cẳng chân sau của nó chạm phải rìa vũng nước và
một lần nữa nó lại gào rú tru tréo lên. Nó giật mạnh cái chân trở lại và một
cái móng quăn tớn bị bóc toạc ra, dính cứng vào rìa vũng nước kia. Con vật sủa
ran và hai tên đồng hành cùng lao mình tới trước túm đỡ giữ nó lại, cố sức kéo
nó ra khỏi thứ chất lỏng đầy màu sắc đang uốn éo xoáy vặn.
“Nhiều thập kỷ trước đây”, Flamel
nói tiếp, “tôi và Penerelle đã giải cứu Iris khỏi mấy người chị của bà ấy và để
đáp lại, bà ấy đã tặng tôi những chiếc vòng này. Tôi chăm chú quan sát trong
lúc bà ấy đan kết chúng từ luồng điện có màu sắc cầu vồng của bà. Bà bảo tôi
rằng một ngày nào đó chúng sẽ mang lại một chút sắc màu cho cuộc sống của tôi”.
Những luồng nước xoáy đủ màu đang
xoắn vặn bắt đầu bò trườn lên cẳng chân tên Genii Cucullati. Những móng chân
màu đen bỗng hóa thành màu xanh lá, rồi đỏ, rồi lớp lông màu tím rịm bẩn thỉu
biến đổi thành màu tim tím phớt xanh mờ mờ lung linh.
“Ông sẽ chết vì chuyện này”, sinh
vật ấy gầm gừ cằn nhằn, thậm chí còn cất giọng eo éo với cung giọng cao hơn
trước nữa, đôi mắt xanh lơ sáng quắc mở lớn vì khiếp sợ.
“Một ngày nào đó tôi sẽ chết”,
Flamel đồng ý, “nhưng không phải hôm nay, và càng không phải chết bởi tay anh”.
“Ông cứ chờ đó đi cho tới khi tôi
méc với Mẹ!”
“Anh cứ việc”.
Một tiếng nổ bốp vang lên, nghe như
tiếng bong bóng vỡ, và đột nhiên những dải màu sắc cầu vồng vọt thẳng lên thân
hình con quái thú, đẫm mình nó trong ánh sáng. Ngay chỗ hai tên kia nắm giữ nó,
màu sắc loang ra đến tận mấy cái móng vuốt và thấm lên khắp lớp da chúng, biến
những chiếc áo parka màu xanh lá thành những chiếc áo khoác đầy màu sắc thật
đẹp mắt. Như thể vết dầu loang trên mặt nước, màu sắc kia biến chuyển thành
nhiều kiểu mẫu hoa văn đầy mê hoặc, hình thành nên những sắc thái mới và những
nền màu sáng rực trông thật kỳ quái. Cả ba sinh vật kia chỉ thốt lên được duy
nhất một tiếng hú kinh hãi, nhưng tiếng kêu của chúng cũng bị tắt lịm và chúng
ngã nhào một đống bên vệ đường. Khi chúng nằm bất động trên mặt đất, mớ màu sắc
lộn xộn nhanh chóng tan chảy trên da thịt chúng, trả những chiếc áo khoác của
chúng về với màu xanh lá buồn tẻ trước đây, và sau đó thân mình chúng bắt đầu
biến đổi, xương nứt gãy, cơ bắp và gân cốt định hình trở lại. Lúc này màu sắc
đã thấm ngược vào vũng nước, các sinh vật hồi phục lại vẻ bề ngoài của hình
người.
Mưa tạt xuống dọc theo chiều dài
con hẻm, bề mặt vũng nước nhiều màu sắc ấy nhảy múa và vỡ tan theo những giọt
nước mưa. Trong chỉ duy một giây ấy, chiếc cầu vồng thu nhỏ hoàn hảo xuất hiện
bên trên rồi thoắt nhạt nhòa tan biến mất, để lại trong vũng nước một màu nâu
như bùn giống hệt lúc ban đầu.
Flamel cúi người giật phắt phần còn
lại của chiếc vòng tay tình bạn đang nằm trên mặt đường. Những sợi chỉ được bện
tết vào nhau giờ biến thành màu trắng nhạt, đã bị lọc hết mọi màu sắc. Ông kéo
thẳng sợi dây ra và nhìn ngoái lại hai đứa nhỏ sinh đôi. Flamel mỉm cười: “Chú
không đến nỗi bất lực như vẻ ngoài của chú nhỉ. Tụi cháu không bao giờ được
phép đánh giá thấp đối thủ của mình nhé”, ông dặn dò. “Nhưng chiến thắng này là
của cháu, Josh ạ. Cháu đã cứu chúng ta. Một lần nữa. Thật đã trở thành một thói
quen ra trò: Ojai, Paris, và giờ thì ở đây nữa”.
“Cháu không nghĩ...”, Josh cất
tiếng.
“Em chẳng bao giờ nghĩ”, Sophie vừa
chen ngang, vừa siết chặt cánh tay cậu.
“Cháu đã hành động”, Flamel nói.
“Vậy là đủ rồi. Đi thôi, hãy ra khỏi đây trước khi người ta phát hiện ra
chúng”.
“Bọn chúng không chết chứ ạ?”,
Sophie vừa hỏi, vừa rảo quanh đám sinh vật kia.
Josh nhanh nhẹn gói thanh Clarent
trong tấm giấy ép bong bóng và nhét nó trở lại vào ống giấy bồi. Rồi cậu đẩy
cái ống giấy vào ba lô và nhấc túi lên vai. “Đã xảy ra chuyện gì vậy chú?”, cậu
hỏi. “Cái thứ nước nhiều màu sắc ấy. Đó là cái gì vậy ạ?”
“Món quà của một Elder”, Flamel
giải thích trong khi vội vã lao xuống con hẻm. “Iris được mệnh danh là nữ thần
cầu vồng bởi vì luồng điện đủ màu sắc của bà. Bà ấy cũng có quyền thâm nhập vào
những vùng sông nước thuộc Vương quốc Bóng tối trên dòng sông Styx”,
ông kết thúc với vẻ đắc thắng.
“Mà điều đó có ý nghĩa gì ạ?”, Josh
hỏi.
Nụ cười rộng hoác của Flamel sao mà
độc địa. “Sinh vật sống không thể chạm vào nước sông Styx
được. Cú sốc làm quá tải toàn bộ phủ tạng và đánh chúng bất tỉnh”.
“Trong bao lâu lận chú?”, Sophie
vừa hỏi, vừa liếc trở lại những thứ trông như thể một đống quần áo vải vóc nằm
chình ình giữa con hẻm.
“Theo truyền thuyết bảo thì - một
năm và một ngày”.

