Charlie Bone (Tập 4) - Chương 01

CÁI HẮT HƠI CHẾT NGƯỜI

{Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách}

Nằm ở ngoại vi thành phố, Học
viện Bloor đứng sừng sững và im lìm dưới bầu trời đầy sao. Ngày mai, ba trăm
đứa trẻ sẽ leo lên những bậc thang giữa hai toà tháp, băng qua mảnh sân gạch,
và chen nhau đi qua cánh cửa đôi to lớn bằng gỗ sồi. Nhưng vào lúc này, toà nhà
cổ ấy đang hoang vắng tựa như sa mạc.

Nhưng cũng không hẳn thế, nếu
quý vị đứng ở trong khu vườn, nơi đầu đằng kia của học viện, thì quý vị sẽ
không thể không nhận thấy những đốm sáng lạ lùng, thỉnh thoảng lập loè từ những
cửa sổ nhỏ trên mái nhà. Và nếu quý vị có thể nhìn qua được một trong những cửa
sổ ấy, hẳn quý vị sẽ trông thấy Ezekiel Bloor, một lão già khú khụ, đang thành
thục đẩy chiếc xe lăn xửa xưa của lão vào một căn phàng quái dị.

Phòng thí nghiệm, như lão
Ezekiel thích gọi như thế, là một căn phòng áp mái dài, với những miếng ván lót
sàn rộng, bám đầy bụi, và một mái trần lòi hết cả rui nhà. Những chiếc bàn đủ
kiểu - chất đầy chai lọ, sách vở, thảo mộc, xương và vũ khí - dựng tựa vào các
bức tường; trong khi ở dưới những gầm bàn, một đống ngăn kéo bẩn thỉu thòi ra,
xộc xệch, đe doạ sẽ ngáng ngã bất cứ ai đi ngang.

Những nhánh cây thân thảo khô
và phai màu thòng xuống từ rui nhà, và những mảnh áo giáp, treo lơ lửng trên
những thanh xà ngang to bự, khua xủng xoảng thật ghê rợn mỗi khi có một làn gió
quét qua. Lúc này, chúng đang kêu xủng xoảng khi lão Ezekiel Bloor di chuyển
qua sàn nhà.

Thằng chắt đích tôn của lão
già, Manfred, đang đứng bên cạnh một chiếc bộ ngựa kê ở ngay chính giữa căn
phòng. Qua một kì hè, Manfred đã lớn bộn, và lão Ezekiel cảm thấy tự hào rằng
thằng chắt của lão đã chọn làm việc chung với lão, chứ không học lên tiếp đại
học như những cựu học sinh năm thứ sáu khác. Nên nhớ là, tuy cao đấy, nhưng
Manfred lại có một bộ vó gầy guộc, da vàng ệch, nổi đốm, và một gương mặt lồi
hết cả xương và hóp tọp.

Vào khoảnh khắc này, mặt
Manfred nhăn xoắn lại, tập trung cao độ khi hắn bày một đống xương ra bàn, ngay
trước mặt. Phía trên đầu hắn, treo đung đưa bảy ngọn đèn khí được gá vô một
vòng sắt, ánh sáng xanh lét của chúng phụt ra tiếng rù rù yếu ớt. Khi trông
thấy ông cố, Manfred buông một tiếng thở dài tức tối và rồ lên, “Quá sức tôi
rồi. Tôi ghét mấy trò đố mẹo.”

“Đó không phải là đố mẹo,”
lão Ezekiel quặc lại. “Mà là xương của Hamaran, một con ngựa chiến có sức mạnh
và lòng can đảm phi thường.

“Thế thì sao? Làm sao mà dăm
ba cục xương vô tích sự này có thể làm sống lại tổ tiên của ông cố chớ?”
Manfred phóng thẳng một tia nhìn khinh miệt vào lão Ezekiel, lão già vội cụp
mắt xuống ngay lập tức. Lão không muốn bị chính thằng chắt của mình thôi miên.

Dán chặt mắt vô đống xương,
lão già đẩy xe lăn đến gần bàn hơn. Lão Ezekiel Bloor đã một trăm lẻ một tuổi,
nhưng những người khác ở vào độ tuổi ấy có lẽ trông vẫn còn da thịt hơn lão
nhiều. Đằng này, mặt của lão Ezekiel chỉ khá hơn cái đầu lâu một chút. Mớ răng
còn sót lại của lão đều mẻ sứt và đen xỉn cả, và một vài nhúm tóc trắng, thưa
rỉnh ló ra dưới chiếc mũ trùm đầu bằng vải nhung đen. Tuy nhiên, đôi mắt lão
vẫn phừng phực sức sống – đen và trợn quắc lên, phóng ra những tia dữ tợn cực
độ.

“Chúng ta có đủ rồi,” lão già
vừa nói vừa chỉ những món đồ khác trên bàn: bộ áo giáp có xích sắt, chiếc mũ
giáp, cái áo chùng lông thú màu đen, và chiếc ghim kẹp áo thụng bằng
vàng.”Chúng là của ngài Borlath đấy. Ông nội của ta đã tìm thấy chúng trong lâu
đài này, tất cả được bọc bằng da, bên trong ngôi mộ. Khung xương không còn nữa,
thật đáng tiếc. Chắc chắn là tại lũ chuột,” lão ta vuốt vuốt chiếc áo lông thú
đen với vẻ gần như là âu yếm.

Borlath là thần tượng của lão
Ezekiel ngay từ khi lão còn là một cậu bé. Những câu chuyện về bậc tổ tiên hiếu
chiến ấy đã dần hun đúc trí tưởng tượng của lão, cho đến mức lão tin rằng ngài
Borlath có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề cho mình.Dạo gần đây, lão hay
mơ thấy ngài Borlath xốc lão ra khỏi xe lăn và cả hai cùng nhau khủng bố thành
phố. Rồi đây Charlie Bone và Ông cậu đáng ghét của nó phải coi chừng.

“Thế còn nguồn điện, ông cố
biết đấy, cho lúc sống lại thì tính sao đây? Ở đây chẳng có tí điện nào,”
Manfred ngước nhìn lên mớ đèn khí.

“Ô, cái đó!” Ezekiel phẩy tay
ra điều không có gì quan trọng. Lão tự xoay bánh xe tới một chiếc bàn khác và
lấy một hộp thiếc nhỏ có hai cái ngạnh chĩa từ nắp chĩa ra. Lão vặn cái núm ở
bên hông hộp và một tia lửa xanh da trời xẹt ra giữa hai cái ngạnh.

“Ối chà! Điện!” Lão sung
sướng thông báo. “Nào, tiếp tục đi. Ngày mai tụi nhóc sẽ trở lại đây, và chúng
ta không muốn bất kỳ đứa nào xộc vô cuộc thí nghiệm nho nhỏ này của chúng ta
đâu.”

“Đặc biệt là thằng Charlie
Bone,” Manfred gầm gừ.

“Hừ! Charlie Bone!” Lão
Ezekiel thiếu điều là khạc ra cái tên đó. “Bà nội nó nói nó sẽ là đứa có ích,
nhưng ngược lại thì có. Ta tưởng ta sắp dụ được nó về phe mình hồi học kỳ vừa
qua rồi chứ, vậy mà rồi nó lại nhai nhải về thằng cha biệt dạng của nó và đổ
lỗi cho ta.”

“Nó nói cũng đâu có sai,”
Manfred nói, gần như chỉ với riêng mình.

“Nghĩ coi bọn ta có thể làm
gì với tài phép của nó,” lão Ezekiel tiếp tục. “Nó ngó vô một bức tranh và đùng
một cái, nó đã ở trong đó, nói chuyện với người chết từ tám hoánh. Đừng hòng mà
tao cho phép...” Lão Ezekiel lắc lắc đầu. “Nó mang dòng máu của cái gã phù thủy
xứ Gan cô hồn thất đảng đó. Và cây gậy phép nữa.”

“Tôi có kế hoạch cho vụ đó
rồi,” Manfred nói khẽ.”Chẳng bao lâu nữa nó sẽ thuộc về tôi cho coi, ông cố cứ
chờ xem.”

“Thật hả?” Lão Ezekiel cười
khùng khục. Lão bắt đầu lăn xe đi trong khi thằng chắt tập trung vô công việc
gắn xương tỉ mỉ.

Khi lão Ezekiel dịch tới mảng
tối mù ở cuối căn phòng, ý nghĩ của lão bỗng chuyển sang Billy Raven, thằng bé
mồ côi tóc trắng, bị lợi dụng làm gián điệp theo dõi Charlie Bone. Billy gần
đây đã trở nên nổi loạn, bất trị. Nó không chịu hé cho lão Ezekiel biết Charlie
và lũ bạn đang mưu tính gì. Hậu quả, lão Ezekiel và gia đình Bloor có nguy cơ
không kiểm soát được những đứa trẻ có phép thuật trong trường. Cần phải làm
điều gì đó ngay.

“Ba mẹ,” lão Ezekiel bật nói
một mình. “Cần phải làm sao cho Billy được nhận làm con nuôi. Ta đã hứa tìm ba
mẹ cho thằng nhóc mồ côi đó mà chưa bao giờ thực hiện. Nó đã từ bỏ ta. Hừ,
Billy sẽ có ba mẹ tử tế, tốt bụng.”

“Đừng quá tử tế,” Manfred
nói, nãy giờ hắn đã nghe lỏm.

“Sợ gì. Ta biết một cặp rồi.
Ta không hiểu tại sao trước đây lại không nghĩ đến chúng nhỉ,” lão Ezekiel quay
đầu lại, ngóng đợi. “A, bọn này sắp có tiếp viện kìa.”

Có tiếng những bước chân lộp
cộp từ xa; vài giây sau, cửa mở và ba phụ nữ ùa vô phòng. Người đầu tiên già
nhất. Mái tóc xám xịt của bà ta được búi chót vót trên đỉnh đầu như một củ hành
khổng lồ, quần áo của bà ta đen và mắt bà ta cũng đen như thế. Bà Lucretia
Yewbeam là giám thị trong trường và là bà cô của Charlie Bone.”Tôi đem mấy bà
em của tôi tới đây,” bà ta nói với lão Ezekiel. “Ngài nói là ngài cần sự trợ
giúp.”

“Thế người thứ tư đâu?” Lão Ezekiel
hỏi.”Bà Grizelda đâu?”

“Lúc này nên để bà ấy tránh
xa mọi chuyện là tốt nhất,” bà Eustacia, người em thứ hai nói. “Nói cho cùng,
bà ấy phải sống với thằng em thổ tả của chúng tôi... và thằng oắt đó. Bà ấy có
thể vô tình... làm lộ bí mật, tất nhiên rồi.”

Bà Eustacia, một nhà tiên
tri, bước lại gần cái bàn. Mái tóc xám của bà ta vẫn còn vài sợi đen, nhưng
phần lớn các đặc điểm còn lại thì bà ta giống hệt bà chị kế của mình. Đôi mắt
hí rị của bà ta lia khắp các đồ vật trên bàn và bà ta nhếch một nụ cười gian
xảo.” Ra là lão đang mưu tính với đống đồ này, đồ quỷ già. Người ấy là ai vậy?”

“Tổ tiên của ta, ngài
Borlath,” lão Ezekiel đáp. “Người vĩ đại nhất trong tất cả những người con của
Vua Đỏ. Oai phong nhất, mạnh mẽ nhất và thông thái nhất.”

“Ghê tởm nhất và khát máu
nhất thì chính xác hơn,” bà em thứ ba vừa nói vừa dộng một cái túi da to xụ lên
bàn. Mái tóc bết bệt của bà ta xõa xuống vai thành từng dải màu nhọ nồi và
những quầng thâm viền quanh đôi mắt đen như than. So với mấy bà chị thì bà ta
trông thật luộm thuộm. Áo khoác to quá khổ, và áo cánh xam xám bên trong trông
cấp thiết phải được giặt ngay. Chắc chắn không ai đoán được cái sinh vật ăn mặc
lôi thôi lếch thếch này đã từng là một quý bà kiêu hãnh và chưng diện không chê
vào đâu được.

 

“Venetia lâu nay vẫn mong chờ
có cái gì đó như thế này,” bà Eustacia nói.” Từ khi thằng Charlie Bone chết
tiệt đó thiêu trụi nhà cô ấy.”

“Tôi tưởng em trai của các bà
làm điều đó chứ,” Manfred chen vô.

“Phải,” bà Venetia rít lên,”
nhưng Charlie phải chịu trách nhiệm, đồ sâu bọ nhãi nhép. Ta muốn nó phải ú ớ
vì sợ hãi, phải bị dằn vặt, khổ sở... và chết.”

“Bình tĩnh, Venetia,” lão
Ezekiel lăn lẹ đến cạnh bà ta.” Bọn ta không muốn mất hẳn thằng bé mà.”

“Chi vậy? Nó thì được cái
tích sự gì? Ông có tưởng tượng được việc mất tất cả là gì không? Có biết đứng
ngó cơ nghiệp của ông – thành quả của đời ông – tan thành mây khói thì thế nào
không?”

Lão Ezekiel vụt mạnh cây ba
toong của lão vô bàn.

“Đừng xúc động thế, bà kia.
Thằng Charlie này có thể xài được. Tôi có thể ép nó phải đem tôi về lại quá
khứ. Tôi có thể thay đổi lịch sử. Nghĩ coi!”

“Ông không thể thay đổi lịch
sử, ông cố à,” Manfred nói huỵch toẹt.

“Sao mày biết?” Lão Ezekiel sửa.
“Chưa ai thử cả.”

Kéo theo sau là một sự im
lặng ngột ngạt. Không ai dám xa gần nói rằng việc đó đã có người thử biết bao
lần rồi, mà không thành công. Bà cô Venetia cắn môi, vẫn nung nấu chuyệ trả
thù. Bà ta có thể chờ, nhưng một ngày nào đó bà sẽ tìm ra cách trừ khử Charlie
Bone - trừ khử vĩnh viễn.

Bà Lucretia phá tan sự im
lặng bằng câu hỏi:

“Tại sao lại là ngựa?”

“Vì ta có xương,” lão Ezekiel dấm dẳn. “Con ngựa này, ngựa Hamaran,” lão
hất đầu về phía đống xương,” theo sử sách truyền lại, là một sinh vật oai phong
lẫm liệt. Và kỵ sĩ cưỡi trên mình nó cũng phải rất uy mãnh, mấy người không
đồng ý sao?”

Những người kia lầm rầm một tiếng tán thành.

“Thằng nhóc đó sẽ sợ chết khiếp,” lão Ezekiel hớn hở tiếp. “Nó sẽ làm bất
cứ điểu gì bọn ta yêu cầu.”

“Và lão định sẽ điều khiển sinh vật quái đản ấy như thế nào?” Bà Venetia
nói.

Lão Ezekiel vốn hy vọng đừng ai hỏi lão điều ấy, bởi vì lão chưa có câu trả
lời thoả đáng.

“Ngài là tổ tiên của ta,” lão nói với một nụ cười tự tin.”Hà cớ gì ngài lại
không giúp ta? Nhưng trước hết, bọn ta hãy đánh thức nó dậy, và phi, như nó
từng phi trước đây. Ha! Ha!”

Trong lúc đó bà Lucretia ngồi trên một chiếc ghế bành bị mối ăn, thì hai bà
em dỡ đồ trong chiếc túi da ra. Những lọ chất lỏng bắt đầu xuất hiện trên bàn;
rồi những muỗng bạc, vài túi thảo mộc, những mảnh thạch anh nhỏ xíu, óng ánh,
một cái chày và một cái cối bằng đá đen và năm cây nến. Lão Ezekiel dòm quy
trình diễn ra bằng đôi mắt hau háu.

Một tiếng đồng hồ sau, phần xương chân của một con ngựa đang phi nước đại
đã được xếp trên bàn. Bộ áo giáp được chà bóng loáng bằng một thứ chất lỏng bốc
mùi tanh hôi và chiếc áo choàng lông thú đã được kết đầy những hạt huyền nhỏ
xíu.

Năm cây nến hắt những chiếc bóng nhảy múa lên tường. Một cây đặt phía trên
chiếc mũ giáp, hai cây ở hai bên cổ tay cái áo giáp, hai cây cuối cùng đặt vô
chỗ móng guốc hai chân trước bị khuyết của con ngựa.

Bà Venetia mê mẩn với công việc, quên cả bản thân. Thật là hay, bà ta một
lần nữa lại được nhúng mũi vào một công việc có tính phá hoại. Lúc bà ta vuốt
nhẹ cái áo lông đen, những tia lửa nhỏ xía kêu lép bép ở các đầu ngón tay bà.

“Sẵn sàng rồi chứ?” Bà ta hỏi.

“Chưa đâu,” nhá một nụ cười xảo quyệt, lão Ezekiel thò tay xuống dưới đống
mền bùng nhùng trên đùi lão và rút ra một cái tráp nhỏ bằng vàng. Ở chính giữa
cái nắp nạm đá quý, một chùm đá hồng ngọc xếp thành hình trái tim, chiếu rực căn
phòng tối lờ mờ bằng thứ ánh sáng loá mắt.

“Trái tim,” lão Ezekiel nói, giọng ùng ục sâu trong họng. “Asa, thằng quái
thú, đã tìm thấy nó trong toà lâu đài đổ nát. Nó ra đó đào xới, theo thói quen
xấu xa của nó, và tìm thấy một bia mộ có khắc chữ B. Nó đào thêm nữa và tìm
thấy cái này,” lão ta vỗ nhẹ cái tráp, “bị chôn sâu dưới bia mộ.”

Từ cái ghế của mình trong bóng tối, bà Lucretia hỏi:

“Tại sao nó không nằm trong ngôi mộ?”

“Tại sao? Tại sao?” Lão Ezekiel buột ra một tràng ho vật vã nơi cuống phổi.
“Để giữ bí mật, chắc vậy. Nhưng đó là tim của ngài. Ta biết chắc. Ngài Borlath
là người con duy nhất của nhà vua có tên bắt đầu bằng chữ B.”

Lão mở cái tráp ra.

“Aaaah!” Bà cô Eustacia nhảy xa khỏi bàn, vì bên trong tráp là một túi da
nhỏ hình mà, quả thật, hình như có đựng... một thứ gì đó.

“Thấy chưa? Một trái tim,” lão Ezekiel đắc thắng nói. “Giờ, bọn ta hãy tiếp
tục nào!”

Xúc cái túi da ra khỏi tráp, lão đặt nó lên bộ áo giáp, chệch tâm trái một
chút, nơi lão phán quyết là trái tim hẳn phải nằm ở đó. Rồi lão gỡ một sợi dây
điện từ chiếc hộp điện của lão ra và quấn đầu dây một vòng, hai vòng, ba vòng
quanh cái túi da.

Một bầu không khí thinh lặng, thấp thỏm chờ đợi đổ ụp xuống căn phòng khi
lão già bắt đầu xoay cái núm của chiếc hộp bạc. Càng lúc càng nhanh dần. Bàn
tay cong queo của lão biến thành một vật mờ mờ, bay bay, đôi mắt đen của lão
rực cháy lên đầy kích động. Một tia lửa nhá lên giữa hai cái ngạnh thép và
chuyền qua sợi dây tới trái tim của Borlath. Lão Ezekiel phát ra một tiếng gừ
chiến thắng và bàn tay lão bất động.

Ba chị em chỉ chực biểu lộ ngay niềm hân hoan, nhưng họ biết im lặng là cần
thiết trong khoảnh khắc như thế này. Những khúc xương của ngựa Hamaran bắt đầu
chuyển động.

Lão Ezekiel và chị em nhà Yewbeam đang chăm chú nhìn vào bàn đến độ không
để ý Manfred rút ra một chiếc khăn tay và ấn chặt vào mũi. Mặt nó chuyển thành
đỏ rần khi nó đấu tranh để cố kìm một cái hắt hơi.

“HẮT XÌ!”

Lão Ezekiel bật nảy người như thể bị đấm một đấm. Lão bịt chặt hai tai và
ré lên “Không,” khi Manfred cố kìm một cái hắt hơi khác. Mấy chị em nhà Yewbeam
kinh hãi nhìn gã trai trẻ nhăn xoắn mặt lại, và...

“HẮT XÌ!”

Đống xương ngừng chuyển động. Hơi nước màu đen, gớm ghiếc bốc lên từ chiếc
áo lông thú và bộ áo giáp oằn oại bên dưới cái túi da đang cháy âm ỉ.

“HẮT XÌ!”

Một tiếng nổ như sấm và một màn khói nồng nặc mùi toả khắp căn phòng. Trong
lúc những kẻ chứng kiến nghẹt cả thở và líu cả lưỡi, thì một hình thù khổng lồ
nâng lên khỏi bàn và biến mất vào đám khói đen cuồn cuộn. Trốn dưới gầm một
chiếc bàn ở cuối phòng, một con chó mập thù lù, lùn tịt nhắm mắt lại và run lẩy
bẩy.

Một tiếng nổ dữ dội thứ hai làm rung chuyển toàn bộ căn phòng, và bà cô
Lucretia thét lên:

“Gì vậy?”

“Cái thằng ngu chết dẫm đó hắt xì,” lão Ezekiel rít chìn chịt.

“Xin lỗi, xin lỗi. Không thể nào nén được,” Manfred rên rỉ. “Bụi quá.”

“Bụi, bụi cái gì,” bà cô Venetia mắng nhiếc. “Đáng ra cậu phải vứt cái mũi
đáng nguyền rủa của cậu ở ngoài chớ. Hư hết việc rồi. Thiệt uổng công.”

“Có lẽ không uổng đâu,” bà Eustacia cắt ngang. “Nhìn cái bàn kìa. Xương
biến hết rồi.”

Đám khói đang tan đi nhanh chóng do một luồng khí lạnh thình lình thổi qua,
và tất cả bọn họ đều thấy rằng xương của ngựa Hamaran, quả thật, đã biến mất.
Nhưng áo giáp, mũ sắt, áo chùng và chiếc kim kẹp bằng vàng của Borlath vẫn nằm
nguyên chỗ cũ, trông thảm hại hơn vì thứ bùa mà chúng vừa phải chịu.

“Khốn kiếp!” Lão Ezekiel gầm gào. Lão dộng nắm đấm xuống bàn và đống trang
phục bị cháy xém kia rung lên.”Không được gì rồi.”

“Nhưng tôi lại được việc đấy,” Manfred nói. ”Con ngựa ra ngoài rồi kìa.”

Hắn chỉ vào một cái lỗ toang hoác ở trên tường.

“Chó thật!” Lão Ezekiel rít lên. “Phòng thí nghiệm của tao bị lủng, còn con
ngựa chiến thì sổng ra ngoài.”

“Con ngựa chiến với trái tim của bạo chúa,” bà Venetia nói.”Coi, nó biến
rồi!”

Chỗ trái tim nằm hồi nãy, giờ chỉ còn lại một cái lỗ cháy đen trong bộ áo
giáp đang âm ỉ.

“Vậy nghĩa là sao?” Manfred hỏi, giọng nghẹn lại.

Lão Ezekiel xoa cái mũi dài của lão.

“Nghĩa là không phải tất cả đã mất. Nhưng ta sẽ cần sự giúp đỡ. Ta nghĩ ta
sẽ phải cần đến một người bạn của ta, một người có món nợ cần giải quyết.”

Tất cả mọi người nhìn lão, chờ nghe một cái tên, nhưng lão già chưa sẵn
sàng làm thoả lòng cả đám.

“Ngựa chiến có thể rất có ích, “ Bà Venetia nói, đầy ưu tư,”miễn là có
người cưỡi được nó.”

Tất cả đều nhìn chằm chặp vào khoảng không do đống xương để lại, như thể
bắt nó phải lên tiếng, và rồi Manfred nói:

“Billy Raven giỏi nói chuyện
với thú vật.”

******

Trong phòng ngủ chung dài
hút, bên dưới gác mái của lão Ezekiel ba tầng, Billy Raven choàng tỉnh giấc,
đột nhiên thấy sợ hãi. Nó quay mặt ra cửa sổ, định tìm mặt trăng hầu tự trấn an
mình, thì thấy một con ngựa trắng bay lướt qua những đám mây rách nát – và biến
mất.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3