Charlie Bone (Tập 4) - Chương 02

CON NGỰA MA

Vào ngày đầu tiên của học kì
mùa thu, Charlie Bone phóng ào xuống ăn sáng với một chiếc lược thòi ra từ đám
tóc.

“Mày nghĩ mày giống cái gì
hả?” Từ chỗ ngồi của mình kế lò sưởi, nội Bone nói vọng ra.

“Chắc giống khủng long ạ?”
Charlie gợi ý. “Con đã kéo, kéo mãi rồi mà cái lược không chịu ra.”

“Tóc thì như hàng rào,” bà
nội xương xẩu của nó càu nhàu. “Chỉnh tề lên coi, cái thằng. Ở Học viện Bloor
người ta không ưa thứ bê bối đâu.”

“Lại đây, cún cưng,” một
người bà khác của Charlie, hiền hậu hơn, đặt tách trà xuống và giật mạnh cái
lược ra. Cái lược bứt ra cùng với một túm tóc của Charlie.

“Ngoại Maisie! Ui da!” Charlie thét lên.

“Xin lỗi, cún cưng,” ngoại Maisie nói. “Nhưng phải làm thế thôi.”

“Dạ.” Charlie xoa xoa cái đầu đau của mình. Nó ngồi xuống bên bàn bếp và tự
trút ra cho mình một tô cốm bắp.

“Trễ rồi. Mày lỡ xe buýt trường cho coi,” nội Bone làu bàu. “Giáo sư Bloor
là người cực khắt khe về vụ đúng giờ.”

Charlie ấn muỗng cốm bắp vô miệng, nói, “Vậy thì sao ạ?”

“Đầy một miệng như thế thì đừng có nói,” nội Bone rầy.

“Cứ mặc nó, Grizelda,” ngoại Maisie nói. “Nó cần phải được ăn sáng ngon
lành. Chắc chắn nó sẽ không có được một bữa nào ra hồn trong năm ngày tới.”

Nội Bone khịt mũi và đớp phập vô trái chuối. Đã ba tháng nay bà chưa hề
cười; kể từ khi căn nhà của bà em Venetia của bà bị cháy rụi.

Charlie uống gấp ca trà, lẹ làng tròng cái áo khoác và phóng ù lên lầu để
vơ mấy cái túi đi học của nó.

“Áo chùng!” Nó tự nói một mình, nhớ ra áo vẫn còn treo trong tủ. Nó kéo cái
áo ra và một tấm hình nhỏ bay xuống sàn nhà.

“Benjamin,” nó mỉm cười nhặt tấm hình lên. “Bồ đang ở đâu?”

Trong hình là một cậu bé tóc vàng nhạt đang quỳ bên cạnh một con chó vàng
thiệt bự. Chính Charlie đã chụp tấm hình này, ngay trước sinh nhật thứ mười của
Benjamin. Lúc này Charlie dùng tài phép để đi vô tấm hình hoàn toàn không phải
để thăm thú cảnh trí ở đó. Cảnh trí cũng chẳng nói lên được điều gì cả.

Những lúc nôn nóng sử dụng tài phép lạ lùng của mình, Charlie thường quên
khuấy rằng những người mà nó thăm đấy cũng có thể trông thấy nó. Cho dù họ đang
ở nơi nào, khi Charlie nhìn vào tấm hình chụp họ, họ cũng có thể thấy gương mặt
nó trôi lềnh bềnh ở đâu đó gần đấy. Chính vì vậy mà Benjamin, đang uống nước ở
Hồng Kông, đã nhìn thấy gương mặt mỉm cười của Charlie trong ly nước cam của
mình.

Benjamin đón nhận những cú xuất hiện ma thuật của Charlie một cách dễ dàng,
nhưng Hạt Đậu, con chó của Benjamin, xem ra không bao giờ có thể quen được với
những cú xuất hiện ấy.

Con chó bự đang tính xơi bữa sáng trong quán Cà Phê Thú Kiểng, thì khuôn
mặt Charlie bỗng ngó lên từ tô Chappimix.

Hạt Đậu hoảng hốt nhảy vọt lên, tru dài một tiếng; vụ việc khiến một con
rắn xanh da trời trườn vội xuống dưới tủ đựng chén dĩa, và một phụ nữ rất cao
tên là Onoria Onimous đánh rớt mẻ bánh mới nướng. Nhưng ba con mèo rực rỡ nằm
trên nóc tủ lạnh thì chỉ ngáp và nhắm mắt lại.

Charlie đút tấm hình vào túi quần, nhét chiếc áo chùng xanh da trời vào
giỏ, rồi chạy xuống lầu.

“Đừng quên...” ngoại Maisie la lớn, nhưng Charlie đã nhào ra khỏi cửa trước
và chạy tới đầu đường Filbert.

Chiếc xe buýt đưa đón học sinh màu xanh da trời sắp khởi hành thì cửa xe
thình lình bật mở, và một cậu bé có chỏm tóc quăn màu hạt dẻ thò đầu ra ngoài.
“Anh thấy em chạy tới,” cậu bé nói. “Bác tài nói không thể đợi được nhưng anh
bắt bác ấy phải đợi.”

“Cảm ơn anh Fido,” Charlie đưa một trong mấy cái túi xách của nó cho anh
bạn Fidelio, và leo lên những bậc xe buýt.

“Có mang áo chùng không?” Fidelio hỏi.

Charlie lôi tấm áo nhàu nhì ra khỏi giỏ.

“Em ghét mặc áo lúc đi bộ ngoài đường Filbert lắm. Bị mọi người cười. Có
một thằng ở nhà số 20 cứ gào lên: ‘Nó kìa, Thằng Xanh Da Trời kìa, tới Học viện
Bloor, giống con két mào bảnh chọe!’ Nhưng em đâu có xin ai cho đến Học viện
Bloor, đúng không?”

“Em không phải là con két mào bảnh chọe,” Fidelio bật cười. “Anh cá là sáng
nay em lại quên chải đầu.”

“Em chải rồi.”

Xe buýt dừng lại và hai đứa nhập vào đám đông đang nhảy xuống quảng trường
rải sỏi. Chúng đi ngang một vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá và tiến
đến những bậc cấp dẫn vào Học viện Bloor.

Khi Charlie bước chân dưới bóng râm của tháp nhạc, nó thấy mình chợt ngước
lên nhìn đỉnh chóp dốc đứng của tòa tháp. Điều này vốn đã trở thành thói quen
và nó tuyệt nhiên không biết tại sao mình lại làm vậy. Có lần, mẹ nó bảo với
nó, là cô cảm thấy ai đó đang nhìn mình từ ô cửa sổ nhỏ dưới mái hiên nhô ra...
Charlie bất giác rùng mình và theo Fidelio băng qua cổng vòm rộng.

Chìm giữa đám con nít áo chùng xanh da trời, tím và xanh lá cây, Charlie
nhóng tìm Emma Tolly và Olivia Vertigo. Nó trông thấy Emma mặc áo chùng xanh lá
cây, mái tóc dài vàng óng thắt thành hai bím gọn gàng, nhưng nó thoáng ngỡ
ngàng về đứa con gái đi cạnh Emma. Nó rành gương mặt ấy nhưng... phải đó là
Olivia không? Cô nàng mặc áo chùng tím, như mọi đứa khác của khoa Kịch, nhưng
mặt Olivia thường ngày vốn hay tô vẽ, và tóc tai luôn luôn nhuộm màu sặc sỡ.
Còn cô bé này lại có vẻ ngoài láng lẩy: má hồng, mắt xám và tóc nâu cắt ngắn.

“Đừng nhìn chằm chằm vậy chớ, Charlie,” con bé tóc nâu vừa nói vừa bước đến
chỗ Charlie.

“Olivia hả?” Charlie thốt
lên. “Chuyện gì vậy?”

“Tớ sắp thử vai cho một bộ
phim,” Olivia nói với nó. “Trông phải nhỏ hơn tớ.”

Chúng leo lên một dãy bậc
thang đá nữa, và rồi bước qua cánh cửa đôi khổng lồ chạm trổ những hình thù
bằng đồng. Ngay khi tất cả bọn trẻ đã vào trong trót lọt, thì Weedon, gã gác
cổng và lo việc lặt vặt, liền đóng ập cổng và khóa lại. Cổng sẽ khóa chặt như
vậy cho đến tận chiều thứ Sáu, khi lũ trẻ được phép về nhà nghỉ cuối tuần.

Charlie bước vô tiền sảnh
rộng mênh mông, lát đá phiến của Học viện Bloor. “Phim gì vậy?” Nó hỏi Olivia.

“Sssh!” Có tiếng suỵt đâu đó
bên tai Charlie.

Charlie ngước lên, thấy một
đôi mắt đen như than đá và giật bắn cả người. Nó tưởng Manfred Bloor đã ra
trường rồi chứ.

“Anh hy vọng mày chưa quên
luật, Charlie Bone!” Manfred gừ.

“Kh... không, anh Manfred,”
Charlie coi bộ không quả quyết lắm.

“Vậy thì...” Manfred bật ngón
tay một cái tách và ngó Charlie trừng trừng, còn Charlie thì đang ngó xuống bàn
chân mình. Mới sáng sớm thế này, nó không hề muốn phải chống trả lại tia thôi
miên của Manfred chút nào.

“Coi, luật như thế nào hả?”
Manfred tra hỏi.

“Ờm...

Im lặng trong hành lang

Không được nói lan man

Không được khóc hay la

Ngay cả khi bị ngã.

“Ờm...” Charlie không thể nhớ
ra câu cuối cùng.

“Viết câu đó ra một trăm lần
và mang đến văn phòng của anh sau giờ uống trà!” Manfred nhe răng cười nham
hiểm.

Charlie không biết là Manfred
có văn phòng riêng, nhưng nó không định kéo dài cuộc đối đáp.

“Thưa vâng, anh Manfred,” nó
làu bàu.

“Mày phải tự biết xấu hổ về
bản thân mày. Bây giờ mày lên năm thứ hai rồi. Chẳng nêu gương tốt cho học sinh
năm nhất gì cả, đúng không, Charlie Bone?”

“Dạ,” Charlie bất chợt nhìn
thấy Olivia, đang tròn mắt dòm nó, và nó cố nén để đừng phì cười. Hên là
Manfred vừa phát hiện ra có đứa nào đó không mặc áo chùng và đã tất tưởi vọt
đi.

Olivia đã biến mất vào biển
áo chùng tím. Đám chủ nhân của những chiếc áo đó đang chen lấn nhau đi qua cánh
cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ bằng đồng. Bên trong cánh cửa đang mở ấy, Charlie
loáng thấy một đám nhốn nháo đủ màu, đang đông dần lên trong phòng để áo chùng
tím. Nó vội vã đi tiếp đến tấm biển có hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau.

Fidelio đang chờ nó ngay cửa,
bên trong phòng để áo khoác xanh da trời. “Chu cha! Thiệt động trời!” Fidelio
thở hì hụi. “Anh tưởng Manfred rời trường rồi chứ.”

“Em cũng tưởng thế,” Charlie
nói. “Được vậy thì quay lại Học viện Bloor là ngon rồi. Tưởng đâu ít ra cũng
thoát được Manfred ở đây chớ.”

Vậy vai trò mới của Manfred là gì? Liệu hắn có vĩnh viễn bám đuôi, theo
dõi, nghe ngóng và thôi miên bọn nhóc không?

Hai đứa bàn tán về vấn đề Manfred trên đường đến Hội trường. Vào ngày đầu tiên
của mỗi năm học, buổi tập trung đầu năm được tổ chức trong nhà hát, không gian
duy nhất đủ rộng cho toàn thể ba trăm học sinh. Mãi đến giữa học kỳ mùa thu vừa
qua, Charlie mới nhập học ở Học viện Bloor; cho nên đây là một trải nghiệm mới
mẻ đối với nó.

“Thôi chết! Anh phải lẹ lên mới được,” Fidelio nói, nhìn đồng hồ đeo tay.
“Đáng lẽ giờ này anh phải chơi nhạc rồi.”

Giáo sư Saltweather, trưởng khoa Nhạc, gật đầu một cách nghiêm khắc với
Fidelio khi nó leo lên sân khấu và ngồi vào chỗ trong dàn nhạc giao hưởng.
Charlie chui vào cuối hàng ghế thứ hai và nhận ra mình đang đứng ngay sau lưng
Billy Raven. Thằng nhóc bạch tạng quay lại với cái nhăn mày lo lắng.

“Em phải ở lại năm thứ nhất thêm mười hai tháng nữa,” nó thì thầm với
Charlie, “nhưng em đã phải ở lại hai lần rồi.”

“Xui vậy! Nhưng em mới có tám tuổi mà.”

Charlie quét một lượt hàng học trò mới trước mặt. Tất cả bọn chúng trông
đều khá bình thường, nhưng ai mà biết chắc được. Một số trong bọn chúng có thể
cũng được ban phép thuật giống như nó và Billy – những hậu duệ của Vua Đỏ.

Suốt thời gian còn lại của buổi sáng, Charlie loay hoay đi khắp tòa nhà
rộng lớn đầy gió lùa để kiếm phòng học mới của nó, lấy sách vở và tìm thầy
Paltry (người được phân công dạy kèn trumpet cho nó.)

Đến khi tiếng tù và đi săn rúc lên báo hiệu giờ ăn trưa thì Charlie đã hoàn
toàn kiệt sức. Nó khật khừ đi xuống khu căn-tin, cố lái mắt khỏi những bức chân
dung treo trong hành lang sáng lờ mờ – đề phòng một người trong số họ muốn nói
chuyện – và đến căn-tin xanh da trời.

Charlie bước vào hàng, đợi lấy phần ăn. Một phụ nữ thấp người, hơi đẫy đà
sau quầy thức ăn nháy mắt với nó.

“Mọi việc tốt cả chứ, Charlie?” Bà hỏi.

“Dạ, cám ơn bà bếp trưởng,” Charlie đáp. “Nhưng chắc phải một thời gian con
mới quen được với năm thứ hai.”

“Tất nhiên,” bà bếp trưởng nói. “Nhưng con biết ta ở đâu rồi đấy, nếu con
cần đến ta. Ăn đậu nhé, Charlie?”

Charlie nhận lấy một dĩa mì macaroni phó mát với đậu và thơ thẩn dạo quanh
các bàn ăn cho đến khi nó tìm thấy Fidelio, đang ngồi với Billy Raven và
Gabriel Silk. Mái tóc nâu rũ rượi của Gabriel che gần hết khuôn mặt, và miệng
nó hơi bễu ra, có vẻ buồn ủ ê.

“Vụ gì vậy, anh Gabe?”
Charlie hỏi. “Lũ chuột kiểng của anh vẫn ngon chớ?”

Gabriel rầu rĩ ngước lên:

“Học kỳ này tôi không học
piano được nữa rồi. Thầy Pilgrim đi rồi.”

“Đi rồi?” Charlie tự dưng hốt
hoảng. “Sao?
Đi đâu?”

Gabriel nhún vai.

“Tôi biết thầy Pilgrim lập dị, nhưng, ừm, thầy thiệt... tài giỏi.”

Hẳn là không ai phủ nhận điều này. Ai cũng từng nghe tiếng đàn dương cầm
của thầy vọng xuống từ Tháp Nhạc. Charlie chợt nhận ra là nó sẽ nhớ tiếng đàn
ấy lắm. Và nó sẽ nhớ những khi thầy Pilgrim nhìn đăm đăm vào khoảng không, mái
tóc đen của thầy luôn rủ xuống mắt.

Fidelio quay sang Billy.

“Vậy kỳ nghỉ của em thế nào,
Billy?” Nó thận trọng hỏi. Bởi lẽ làm thế nào mà không phát điên lên được khi
phải trải qua cả kỳ nghỉ trong Học viện Bloor cơ chứ?

“Tốt hơn mọi khi,” Billy vui
vẻ nói. “Bà bếp trưởng chăm sóc con Rembrandt đúng như đã hứa, và em gặp nó
hàng ngày. Và anh Manfred đi vắng một thời gian nên ở đây khá yên ổn, thiệt
vậy, chỉ trừ... chỉ trừ...”

Một mảng tối thoáng hiện trên
mặt Billy...

“Có chuyện xảy ra hồi tối
qua. Một chuyện thiệt quái lạ.”

“Chuyện gì?” Cả ba đứa kia
cùng hỏi.

“Em trông thấy một con ngựa
trên trời.”

“Ngựa?” Fidelio nhướn cặp
chân mày. “Ý em là một đám mây trông giống hình con ngựa?”

“Không. Một con ngựa đàng
hoàng.” Billy gỡ mắt kiếng ra và chùi vô tay áo. Đôi mắt đỏ đậm của nó dán chặt
vào Charlie. “Kiểu như nó lơ lửng trên trời, bên ngoài cửa sổ, và sau đó tan
đi.”

“Mấy ngôi sao cũng làm vậy
được mà,” Gabriel nói, giờ đã tươi tỉnh hơn một chút. “Chúng có thể tạo ra ảo
ảnh hình thú hay đồ vật.”

Billy lắc đầu.

“Không! Nó là một con ngựa.”

Nó đeo kiếng trở lại và nhăn
nhó với dĩa đồ ăn của mình.

“Không xa em đâu. Ngay ngoài
cửa sổ. Con ngựa rướn người lên và đá đá không khí, làm như nó đang chống trả
để được tự do vậy, xong rồi nó... tan đi.”

“Giống như nó đang lùi vào
một thế giới khác,” Charlie vuột miệng nói.

“Đúng rồi,” Billy hồ hởi nói.
“Anh tin em, phải không anh Charlie?”

Charlie thủng thỉnh gật đầu.

“Anh thắc mắc giờ nó đang ở
đâu?”

“Lang thang quanh lâu đài
hoang với lũ ma khác chắc?” Fidelio nhận xét một cách bông phèng. “Thôi nào,
tụi mình ra hít thở chút không khí thoáng đãng đi. Không chừng cả đám sẽ thấy
một con ngựa đang phi nước đại quanh vườn đó.”

Tất nhiên là nó chỉ giỡn
thôi, nhưng ngay khi bốn thằng bé bước qua cổng vườn, Fidelio chợt nhận ra lời
nói của mình hóa ra lại thực một cách ma quái. Nó là đứa duy nhất trong bốn đứa
không có phép thuật. Fidelio có thể là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng tài năng
của nó không thuộc dạng được xếp vào hàng phép thuật.

Charlie chính là đứa chú ý
đến vật ấy trước tiên: một tiếng thịch yếu ớt trên bãi cỏ khô ráo.

“Anh có nghe thấy không?” Nó
nhìn Gabriel.

Gabriel lắc đầu. Nó chả nghe
thấy gì, nhưng có cái gì đó hiện diện trong không khí mà nó không thể xác định
được.

Billy bị tác động mạnh nhất.
Cu cậu đột ngột lùi phắt lại, nhúm tóc trắng dựng lên theo một làn gió phớt qua
mà ngoài nó ra, không đứa nào cảm nhận được. Thằng bé giơ một bàn tay lên tựa
như đỡ một cú đấm.

“Nó vừa sượt qua,” Billy thì
thào.

“Tụi em tính đánh lừa anh đó
hả?” Fidelio nói.

“Không lừa đâu,” Charlie nói.
“Giờ nó đi rồi. Có lẽ nó chỉ muốn cho tụi mình biết là nó đang ở đây.”

Chúng bắt đầu băng qua thảm
cỏ rộng mà giáo sư Bloor thích gọi là khu vườn của ông ta. Thực ra nó không
khác gì một cánh đồng, bao quanh là có rừng cây rậm rạp, gần như không thể chui
vô được. Ở cuối sân, những phiến đá đỏ của tòa lâu đài cổ thấp thoáng giữa
những hàng cây: lâu đài của Vua Đỏ. Bốn thằng bé đi về phía những bức tường đỏ
cao vọi ấy, hầu như theo bản năng.

Ông cậu Paton của Charlie đã
kể cho nó nghe chuyện năm người con của Vua Đỏ đã bị ép buộc phải rời vương
quốc của vua cha mãi mãi như thế nào khi hoàng hậu Berenice qua đời. Tan nát cõi
lòng, nhà vua biến mất vào những khu rừng phương bắc, và Borlath, con trai cả
của nhà vua, chiếm giữ lâu đài. Hắn ta trị vì vương quốc bằng sự bạo tàn, man
rợ đến nỗi hầu hết các cư dân hoặc là chết hoặc là bỏ trốn trong kinh hoàng.

“Hử?” Fidelio nói. “Mấy người
nghĩ là con ngựa ma đó ở đây sao?”

Charlie ngước nhìn lên những
bức tường lừng lững.

“Em không biết,” nó ngó
Billy.

“Phải,” thằng bé thì thầm.
“Nó ở đây.”

Mấy đứa kia lắng nghe thiệt
chăm chú. Trên mảnh sân phía xa xa, tiếng đám học trò hò hét và nói cười huyên
náo, tiếng một trái banh chạm đất, tiếng chim bồ câu rừng gù, nhưng ngoài ra
không nghe được tiếng gì khác.

“Em chắc chứ, Billy?” Charlie
hỏi.

Billy co rúm người lại. Nó
đang run lẩy bẩy.

“Em nghĩ nó muốn nói chuyện,
nhưng nó bị kẹt ở phe kia.”

“Phe kia là phe nào?” Fidelio hỏi

Billy nhăn nhó. “Em không thể
giải thích được.”

Charlie chợt cảm giác có ai
đó đang đứng đằng sau chúng. Nó quay lại, đúng lúc thấy một bóng người nhỏ
choắt vụt đi và lẫn vào đám nam sinh mới đang chơi banh với nhau.

“Ai vậy?” Gabriel hỏi.

“Nhóc mới,” Charlie nói.

Không thể nói được thằng nhóc
kia ở khoa Hội họa, khoa Kịch hay khoa Nhạc vì nó không mặc áo chùng. Hôm nay
trời ấm áp và nắng đẹp. Mùa hè vẫn chưa hết.

Tiếng tù và rúc vang khắp sân
và bốn thằng bé chạy trở vô trường.

Với Charlie, buổi chiều hôm
ấy cũng chẳng khá gì hơn buổi sáng. Cuối cùng nó cũng tìm thấy thầy Paltry,
nhưng quá trễ cho buổi học.

“Đi học mà không đem theo kèn
trumpet thì nói làm gì hả?” Ông thầy già cấm cẳn. “Trò chỉ tổ làm mất thời
gian, Charlie Bone. Được ban phép thuật, hừ, vớ vẩn. Sao trò không sử dụng cái
gọi là phép thuật của trò để xác định coi cây kèn trumpet của trò ở đâu? Giờ,
ra khỏi lớp và đừng có trở lại cho đến chừng nào trò tìm thấy kèn.”

Charlie hấp tấp ra đi. Nó
không biết ở đâu mà tìm.

“Tháp Nhạc có không?” Charlie
tự hỏi. Dám một trong những người lao công đã tìm thấy kèn của nó và đem cất vô
phòng thầy Pilgrim trên đỉnh tháp.

Đường đến Tháp Nhạc phải
xuyên qua một cánh cửa nhỏ, trông cổ xưa, gần lối ra vườn. Charlie gồng mình,
mở cửa ra và bắt đầu bước vào một hành lang dài, ẩm ướt. Trời tối đến nỗi
Charlie gần như chẳng thấy bàn chân mình đâu. Nó cứ dán mắt vô một khung cửa sổ
đằng xa trong căn phòng nhỏ hình tròn ở cuối hành lang.

Khi đến gần căn phòng hơn, nó
bỗng nghe thấy những tiếng nói, những giọng nói giận dữ – những người đàn ông
đang cãi nhau.

Có tiếng bước chân khua.
Charlie đứng im thin thít cho đến lúc có ai đó xuống đến chân dãy cầu thang
xoắn ốc, dài. Một bóng hình xuất hiện ở cuối hành lang. Cái bóng đó lừng lững
tiến về phía Charlie và nâng đôi cánh màu tím lên, che khuất hết ánh sáng.

Bị ngập chìm trong bóng tối,
Charlie thét lên thất thanh.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3