Charlie Bone (Tập 4) - Chương 03
Cậu bé dính vụn giấy trên tóc
“Im!” Một giọng rít lên.
Charlie co rúm người ép vào
vách tường khi người đó, hay vật đó, lướt qua và vút ngang cánh cửa ra tiền
sảnh.
Charlie không biết phải làm
gì. Nó nên quay lại quãng đường nó vừa đi qua, hay là tiếp tục lên tháp? Cái
người rít lên hồi nãy có thể đang ở trong tiền sảnh, chờ nó. Nó chọn cách đi
lên tháp.
Ngay khi chui vô căn phòng
hình tròn tràn đầy ánh mặt trời ở cuối hành lang, Charlie cảm thấy định thần
lại. Đôi cánh màu tím kia là đôi cánh tay của một chiếc áo chùng, nó suy luận.
Và cái người giận dữ nọ chắc hẳn là một giáo viên của trường, đang tranh cãi
với ai đó. Nó bắt đầu leo cái cầu thang dai, xoắn ốc lên đỉnh tháp. Học viện
Bloor có năm tầng lầu, tuy nhiên phòng dạy nhạc của thầy Pilrim lại ở trên một
dãy cầu thang khác.
Charlie lên đến chiếu nghỉ
nhỏ, chỗ có những quyển sách dạy nhạc được cất trên kệ, trong thùng và chất
thành đống bừa bộn dưới sàn nhà. ở giữa các dãy kệ, có một cánh cửa nhỏ bằng gỗ
sồi dẫn vô phòng nhạc. Một tờ tin nhắn được ghim ngay chính giữa cánh cửa. Thầy
Pilrim đi rồi.
Charlie lục lọi đám thùng và
họp, nhấc những chồng bản nhạc lên, rồi tìm kiếm đằng sau những cuốn sách nặng
nề trên kệ. Nó tìm được một cây sáo, một nắm dây đàn violin, một hộp bánh yến
mạch và một cây lược, nhưng không có kèn trumpet.
Thử tìm ở phòng kế bên liệu
có ích lợi gì không? Charlie nhớ là trong ấy chỉ có một cây đàn dương cầm lớn
và cái ghế đàn, không còn gì khác. Nó nhìn lại tờ tin nhắn. Thầy Pilrim đi rồi.
Trông như báo điềm chẳng lành, như thể có lời nhắn khác ẩn đằng sau bốn con chữ
in mỏng manh kia, rằng: Cấm vào, không ai cho các người vào đây.
Nhưng Charlie là một thằng bé
vốn thường không thể ngăn mình làm những điều mà tất cả các biển báo bảo nó
đừng làm.Tuy nhiên, lần này nó chú ý gõ cửa trước khi bước vào. Thiệt ngạc
nhiên, nó nhận được câu trả lời.
“Gì,” một giọng nói mệt mỏi
vang lên.
Charlie bước vào.
Giáo sư Saltewather đang ngồi
trên chiếc ghế đàn. Hai cánh tay thầy khoanh lại bên trong chiếc áo chùng xanh
da trời, mái tóc dày bạc trắng của thầy dựng đứng lên theo một phong cách rối
bời, hờ hững. Thầy mang một vẻ mặt mà trước giờ Charlie chưa tùng thấy ở thầy:
lo lắng và bơ phờ
“Con xin lỗi thầy,” Charlie
nói. “Con đang tìm cây kèn trumpet của con.”
“Ừ,” thầy Saltewather liếc
nhìn Charlie.
“Con nghĩ là nó không có ở
đây.”
“Ở đây chẳng có gì cả,” thầy
Saltewather nói.
“Con xin lỗi, thưa thầy.”
Charlie toan đi thì chợt có
điều gì đó xui khiến nó hỏi:
“Thưa thầy, thầy Pilrim hiện
ở đâu ạ?”
“Ở đâu?” Giáo sư Saltewather
nhìn Charlie như thể thầy vừa mới trông thấy nó tức thì. “À, Charlie Bone.”
“Dạ phải, thưa thầy.”
“Ta không biết thầy Pilrim đi
đâu. Đó là
điều bí ẩn.”
“Ồ,” Charlie định quay đi một lần nữa nhưng lần này nó lại nói tiếp:
“Lúc nãy con va phải ai đó ở ngoài hành lang, con nghĩ đó có thể là thầy
Pilrim.”
“Không phải, Charlie,” ông thầy dạy nhạc nói hơi gằn giọng. “Đó chắc chắn
là thầy Ebony, thầy chủ nhiệm mới của trò.”
“Thầy chủ nhiệm mới của con?”. Charlie
nuốt nước miếng khan. Nó nghĩ đến đôi cánh tím, giọng nói rít chìn chịt.
“Ừ. Nói không ngoa thì cũng
hơi đáng lo.”
Giáo sư Saltewather thảy cho
Charlie một cái nhìn soi mói, như thể thầy đang tự hỏi xem có nên nói gì nữa
không.
“Ông Ebony đến đây để dạy môn
lịch sử,” Nhưng ông ấy lại xuất hiện với một lá đơn xin từ nhiệm của thầy
Pilrim. Ta không biết ông ấy kiếm được tờ đơn đó bằng cách nào. Và bây giờ
người...người đàn ông này...muốn dạy piano.” Giáo sư Saltewather cao giọng.
“Ông ta mò lên đây, đính một tin báo lên cánh cửa, cố đuổi ta ra khỏi một phòng
học thuộc chính khoa của ta...Thật không thể chịu nổi!”
“Đúng đấy, thưa thầy,”
Charlie tán đồng. “Nhưng thầy ấy mặc áo chùng tím mà, thầy.”
“À, đúng, thế đấy!” Giáo sư
Salte wather đan một bàn tay vô mái tóc bạc của mình. “Hình như ông Tantalus
Ebony ở khoa nhạc Kịch, nên mới mặc áo choàng màu tím.”
“Ra là vậy,” Charlie nói, mặc
dù bây giờ nó rất hoang mang. Nó chưa bao giờ nghe nói tới một giáo viên dạy ba
khoa một lúc.
“Tất cả đều là sự sắp xếp của
giáo sư Bloor, nên ta có thể làm được gì nào?”Giáo sư Saltewather xòe rộng hai
bàn tay ra. “Giờ, tốt hơn trò nên đi đi, Charlie. Rất tiếc về cây kèn trumpet
của trò. Thử tìm ở một trong những phòng của khoa Hôi họa coi. Họ vẫn hay vẽ
các nhạc cụ của chúng ta mà.”
“Khoa Hội họa. Con cám ơn
thầy,’ Charlie nói đầy vẻ biết ơn.
Các phòng của khoa Hội họa
chỉ có thể đến được bằng lối cầu thang chính và Charlie mới vừa đặt bàn chân
lên bậc thang đầu tiên thì Manfred xồ ra từ một cánh cửa trong tiền sảnh.
“Mày chép phạt xong chưa?”
Manfred lạnh lùng hỏi.
“Ờm, chưa.”
Manfred tiến đến gần Charlie:
“Đừng quên đấy, không thì mày
sẽ phải chép thêm một trăm câu nữa.”
“Ừ, quên, Manfred. À... ý em
là không quên đâu.”
Manfred thở dài bực bội và
bước đi khỏi.
“Xin lỗi,” Charlie bất ngờ
nói, “nhưng anh vẫn còn là... ừm.. học sinh, phải không anh Manfred?”
“Không. Hết rồi!” Gã thanh
niên cáu kỉnh sửa. “Anh là trợ giảng. Và hãy gọi anh là thầy.”
“Dạ, thưa thầy.” Từ thầy nghe
thật tức cười khi áp dụng cho Manfred, nhưng Charlie mỉm cười, hy vọng là rốt
cuộc nó đã áp dụng đúng.
“Và đừng quên đấy.” Manfred
huỳnh huỵch bước trở lại phòng Huynh trưởng và đóng sầm cửa lại.
Charlie vẫn chưa tìm ra phòng
làm việc của Manfred. Bây giờ nó đang đắn đo giữa việc tìm kiếm cây kèn và việc
chép phạt một trăm dòng. Nhưng rồi nó sực nhớ ra là nó không thuộc câu cuối của
Luật Tiền Sảnh. “Emma sẽ cho mình biết,” nó tự nhủ và bắt đầu bước lên cầu
thang.
Emma thường có ở trong phòng
triển lãm của khoa Hội họa, một căn phòng dài, thoáng đãng, nhìn ra vườn.
Nhưng, hôm nay căn phòng có vẻ trống không. Charlie lục soát kho đựng màu vẽ và
xem kỹ các kệ ở cuối phong, sau đó no băng qua phòng triển lãm và đi xuống cầu
thang xoắn bằng sắt dẫn xuống xưởng điêu khắc.
“Chào, Charlie!” Có tiếng gọi
to.
“Ê, lại đây nè,” một giọng
khác nữa.
Charlie ngó quanh, thấy hai
cậu bé đeo tạp dề xanh lá cây đang cười toe toét với nó từ hai bên của một khối
đá lớn. Một cậu có gương mặt nâu và mặt cậu kia thì tái xanh. Hai người bạn của
Charlie hiện đang học năm thứ ba. Cả hai đều lớn phổng lên qua một kì nghỉ hè,
và cả tóc của chúng cũng vậy. Lysander, cậu bé người châu Phi, giờ có một mái
đầu xoăn dài, tươm tất, được tô điểm bằng những hột cườm đủ màu, trong khi
Tancred vuốt keo lên mái tóc cứng đơ, vàng nhạt của mình thành một rừng chông
tua tủa.
“Cái gì lôi em xuống đây vậy,
Charlie?” Tancred hỏi.
“Em đang kiếm kèn trumpet của
em. Chà, em gần như không nhận ra hai anh.”
“Em chẳng thay đổi gì,”
Lysander nói với nụ cười rộng ngoác. “Em thấy năm thứ hai thế nào?”
“Em không biết. Em hơi rối
một tí. Em đi lộn lớp hoài. Em bị mất kèn trumpet. Em gặp rầy rà với Manfred và
có một... à... ừm, một thứ ở trong vườn.”
“Một thứ, ý em là sao?” Mái
tóc vàng của Tancred nổ lép bép.
Charlie kể cho chúng nghe về
con ngựa mà Billy đã nhìn thấy trên trời, và về tiếng vó ngựa trong vườn.
“Hay ghê,” Lysander nói.
“Quái gở,” Tancred bảo. “Anh
thì không ưa cái vụ đó.”
Hai ống tay áo sơ mi của nó
giật giật. Tancred khó mà che giấu được phép thuật của mình. Nó giống như một
cái hàn thử biểu biết đi, tâm trạng của nó ảnh hưởng đến không khí xung quanh
đến mức ta có thể nói rằng nó có thời tiết riêng của nó.
“ Em phải kiếm cây kèn
trumpet tiếp đây,” Charlie nói. “À mà, câu cuối của luật tiền sảnh là gì nhỉ?”
“Dù bạn thấp hay cao,”
Lysander nhanh nhảu nói.
“Cám ơn anh Sander. Em phải
viết hết ra một trăn lần trước bữa tối, và phải nộp cho Manfred – nếu em có thể
tìm ra văn phòng của hắn. Các anh có biết nó ở đâu chứ?”
Tancred lắc đầu và Lysabder
nói, “Không hề.”
Charlie định quay trở ra lối
cũ thì Tancred đề nghị nó thử tìm ở nơi khác xem sao.
“Tìm ở đằng đó coi,” Tancred
vừa nói vừa chỉ một cánh cửa ở cuối xưởng điêu khắc. “Tụi mới tới đang học bài
vẽ đầu tiên của chúng. Anh nghĩ anh có thấy một đứa cầm kèn trumpet.”
“Cám ơn anh, Tanc!”
Charlie bước vô một căn phòng
mà trước giờ nó chưa hề thấy. Chừng mười lăm đứa trẻ đang yên lặng ngồi quanh
một chiếc bàn dài, vẽ ký họa. Mỗi đứa có một tờ giấy khổ lớn và một đồ vật
trước mặt. Tất cả bọn chúng đều đang tập trung hết mức vào tác phẩm của mình,
và không đứa nào ngẩng lên khi Charlie xuất hiện
“Trò muốn gì?” Một người đàn
ông gầy gò, tóc vàng nhạt, mặt tàn hang cất giọng từ đầu bàn. Một giáo viên dạy
vẽ mới, Charlie đoán.
“Kèn trumpet của em, thưa
thầy,” Charlie nói.
“Và tai sao trò nghĩ nó ở
đây?” Ông thầy hỏi.
“Bởi vì, nó kia ạ!” Charlie
vừa nhìn thấy một cây trumpet giống y chang kèn của nó. Món nhạc cụ đang được
một thanừg bé loắt choắt, dính đầy vụn giấy trên tóc, vẽ theo. Thằng bé ngước
nhìn Charlie.
“Joshua Tilpin,” Thầy giáo
gọi, “trò lấy cây trumpet đó ở đâu vậy?”
“Nó là kèn của con, thưa thầy
Delf.” Joshua Tilpin có đôi mắt ti hí màu xám nhạt. Nó hơi nheo mắt lại và nhăn
mũi với Charlie.
Charlie không thể kiềm mình
nổi. Nó chồm về trước giật lấy cây trumpet và lật ngược lên coi. Học lỳ trước
nó đã khắc chữ CB thiệt nhỏ gần miệng kèn. Cây trumpet này là của nó.
“Cây kèn co ghi tên viết tắt
của em. Thưa thầy.”
“Đưa tôi coi nào,” Thầy Delf
chìa bàn tay ra.
Charlie đưa cây trumpet cho
thầy.
“Tên em là Charlie Bone, thưa
thầy. Thầy coi này, đó là tên viết tắt của em.”
“Trò không nên làm xấu nhạc
cụ như thế này. Nhung xem ra nó đúng là kèn của trò. Joshua Tilpin, dao trò lại
nói dối?”
Tất cả lớp đều nhìn Joshua.
Nó không đỏ mặt, như Charlie mong đợi. Thay vào đó, nó toét miệng cười hết cỡ,
phô hàm răng nhỏ xíu, khấp khểnh.
“Con xin lỗi thầy. Thành
thực, thành thực xin lỗi anh, Charlie. Giữon chơi thôi mà. Làm ơn, tha lỗi cho
em!”
Cả Charlie lẫn thầy giáo đều
không biết phải trả lời nó thế nào. Thầy Delf đưa trả cây trumpet cho Charlie,
nói:
“Trò nên trở về lớp của trò
đi.’
“Dạ, cám ơn thầy.”
Charlie nắm chặt cây kèn của
mình và quay ra cửa. Nó ngoái nhìn thiệt kĩ Joshua Tilpin khi bước ra. Nó có
cảm giác kỳ kỳ là à thằng bé mới vô này có phép thuật. Hai ống tay áo của
Joshua phủ đầy mảnh giấy vụn và những mẩu gôm nhỏ li ti. Đúng lúc Charlie nhìn,
một mẩu ruột bút chì gãy đột nhiên bật ra khỏi bàn và dính vào ngón tay cái của
thằng bé. Nó ngoác miệng cười ranh mãnh với Charlie và búng mẩu bút chì đi.
Charlie cảm thấy như có một sợi chỉ vô hình đang kéo giật nó về phía thằng bé
xa lạ.
Nó lật đật rời khỏi phòng và
sợi chỉ kia đứt rời.
Xưởng điêu khắc rộn vang
tiếng thép chạm vào đá. Tancred và Lysander không phải là những người duy nhất
đang đục đẽo các khối đá. Charlie vung vẩy cây kèn của nó trên không.
“Em thấy rồi nè,” nó la lớn.
“Biết mà,” Tancred nói.
Mối ưu tiên kế tiếp của
Charlie là một trăm dòng chép phạt. Nó nên viết ở đâu đây? Nó quyết định viết
tại phòng học mới của nó. Khi băng qua tiền sảnh, nó bị chìm lỉm trong từng đám
con nít – một số ùa vô sau khi vừa chơi ngoài vườn xong, số khác chạy rầm rập
từ cầu thang xuống, số nữa thì túa ra từ những phòng để áo khoác. Dường như đứa
nào cũng biết đích xác mình đang đi đâu, ngoại trừ Charlie. Hình như có sai sót
khủng khiếp gì đó trong thời khóa biểu của nó. Nó dấn bước lên, hy vọng ít ra
sẽ tìm thấy vài đứa học cùng niên học với nó ở trong lớp.
Có một tờ thông báo ghim trên
cửa lớp. thông báo được in bằng kiểu chữ theo lối cổ, giống như những chữ trên
tờ thông báo ở cửa phòng thầy Pilrim:
Tantalus Ebony
Nhạc, Kịch Câm và Lịch Sử
Trung Đại
Charlie áp tai vào cánh cửa.
Không một tiếng động phát ra từ phía bên kia. Nó bước vào. Không có học sinh
nào trong phòng, nhưng có một thầy giáo đang ngồi bên chiếc bàn cao trước của
sổ; một thầy giáo có khuôn mặt dài, mỏng quẹt, và chân mày đen giao nhau ở sống
mũi. Mái tóc đậm màu che khuất lỗ tai, và mảng tóc dày trước trán chấm ngang
ngay trên chân mày. Ông thầy mặc áo chùng tím.
“Gì đó?” Thầy giáo nói, ngẩng
đầu lên khỏi cuốn sách. Charlie nuốt nước miếng. “Em đến để chép phạt, thưa
thầy.”
“Tên gì?” Giọng của người đàn
ông này ồ ồ như phát ra từ dưới lòng đất.
“Charlie Bone, thưa thầy.”
“Lại đây!” Thầy giáo ngoắc nó
bằng một ngón tay trắng, dài thoòng.
Charlie Bone bước đến bên
bàn. Người đàn ông nhìn nó chòng chọc mất trọn một phút. Tròng mắt trái của ông
ta màu xám, còn mắt phải thì màu nâu. Đó là điều đáng ngại nhất. Charlie bị
thôi thúc phải nhìn đi chỗ khác, nhưng nó đứng tấn chặt chân xuống đất và nhìn
vào một mắt trước, và rồi nhìn qua con mắt kia. Một cái cau mày giận dữ sượt
qua trên gương mặt của người đàn ông và ông ta ngả người ra sau, gần như là ông
ta sợ Charlie đã thấy được phần nào đó của con người ông ta mà ông ta quyết giữ
bí mật. Cuối cùng, thầy giáo nói:
“Tôi là Tantalus Ebony.”
“Em đoán thế, thưa thầy.”
“Đồ kiêu ngạo. Đứng yên đó.”
Charlie định nói là nãy giờ
nó không hề nhúc nhích, nhưng thầy Ebony đã tiếp:
“Tại sao trò không đi chung
với các bạn cùng lớp trò?”
“Em bị nhầm lẫn một chút,
thưa thầy.”
“Nhầm lẫn? Nhầm lẫn chỉ dành
cho bọn năm thứ nhất. Một khởi đầu không hề hứa hẹn cho năm thứ hai của trò,
đúng không, Charlie Bone? Và trò nói là mới thế trò đã bị chép phạt rồi. Ta tự
hỏi là vì sao vậy?”
“Em nói chuyện trong tiền
sảnh, thưa thầy.”
Phản ứng của Ebony thật đáng
kinh ngạc. Ông ta bỗng cười rú lên. Toàn thân rung lắc với những tràng cười
không sao kìm nén được.
“E hèm,” ông thầy ho khẽ một
tiếng. “Thế thì, đi và chép phạt đi. Và chớ quấy rầy ta. Ta ngủ đây.”
Thầy Ebony kéo nón áo chùng
tím trùm lên đầu và nhắm mắt lại. Vẫn ngồi thẳng người tại chỗ, thầy bắt đầu
gáy.
Có thể nào có người không
nhìn mình mà lại đang theo dõi mình không? Charlie có cảm tưởng là ông thầy lạ
vẫn còn thức. Hay chính xác hơn, rằng một người khác, đằng sau khuôn mặt đang
ngủ kia, vẫn còn đang canh gác.
Sau khi chờ vài giây, Charlie
nhón chân đi đến bàn của nó, lấy ra một cuốn vở bài tập và bắt đầu chép luật
tiền sảnh. Nó vừa mới viết xong dòng cuối cùng thì chuông báo giờ uống trà reng
lên. Thầy Ebony mở mắt ra, hất cái nón ra sau, và quát:
“ĐI!”
“Vâng, thưa thầy.” Charlie
thu gom giấy bút của nó và hấp tấp rời khỏi phòng.
“Nãy giờ em ở đâu vậy?”
Fidelio hỏi khi trông thấy Charlie trong căn-tin.
“Còn anh nãy giờ ở đâu?”
Charlie nói.
“Anh học tiết tiếng Anh, rồi
ra chơi.”
Charlie thấy một cuối tuần bị
cấm túc hiện ra trước mặt. Thầy Carp, giáo viên tiếng Anh, hẳn sẽ không tha thứ
cho nó việc cúp một tiết học.
“Em chép phạt cho Manfred,”
nó rầu rĩ nói. “Và em vẫn chưa tìm thấy văn phòng của hắn ở đâu.”
Fidelio chả giúp được gì, cả
Gabriel cũng không nốt khi thằng này đến nhập bàn của chúng.
“Có chuyện gì với thằng đuôi
ngựa thế?” Nó vừa nói nhằn thanh kẹo Choclix. “Ý tôi là, Manfred được giao làm
cái gì thế? Hắn không còn là Thủ lĩnh nam sinh nữa, và hắn cũng không phải là
giáo viên. Vậy hắn là cái gì?”
“Hắn là kẻ thôi miên,”
Charlie nói nghiêm trang. “Trước nay hắn vẫn thế và sẽ luôn là thế. Hắn chắc
chắn sẽ ở đây hoài hoài, để hoàn thiện kỹ năng cho tới khi nào thành một lão
phù thủy già mốc meo như ông cố của hắn.”
“Miễn là hắn tránh khỏi đường
tôi, tôi không quan tâm hắn là cai gì.” Gabriel nuốt chửng phần Choclix còn lại
và chùi chùi ngón tay vô ống tay áo. “Mà này, tôi đã quyết định học piano với
thầy Ebony rồi. Tôi không thể bỏ học đàn được, và thiệt tình, thầy ấy cũng khá
giỏi.”
Không hiểu vì sao việc này
bỗng khiến Charlie lo lắng.
“Nếu em là anh, em sẽ học lớp
cô Crystal,” nó khuyên Gabriel. “Thầy Ebony... thầy nhìn vậy mà không phải vậy
đâu. Em nghĩ thầy ấy nguy hiểm lắm.”
Mấy đứa kia dòm nó đầy thắc
mắc, nhưng Gabriel không thể giải thích được cảm giác của nó.
Sau bữa trà, Charlie xách kèn
trumpet của nó đến phòng thầy Paltry. Ông thầy già đang yên lặng dùng một tách
cà phê.
“Lúc này ta không thể dạy trò
được,” ông thầy cáu kỉnh gắt. “Đặt kèn lên kệ và để cho ta yên.”
“Vâng, thưa thầy.” Charlie
cất kèn trumpet của nó lên kệ cùng với năm cây kèn khác, hy vọng cây kèn sẽ
không bị thất lạc hay bị đánh cắp lần nữa.
“Nhưng thưa thầy, thầy có
biết văn phòng của anh Manfred Bloor ở đâu không ạ?”
“Ta làm sao biết hết các
phòng trong tòa nhà này, đúng không nào?” Thầy Paltry phất nhẹ một bàn tay đầy
tàn nhang. “Giờ thì, xùy.”
Bon trẻ được dặn là bỏ áo
chùng trong nhà vào hững ngày nắng, bởi vì, tin hay không thì tùy, trong học
viện tối tăm này lạnh hơn ngoài trời. Cho nên, bỏ áo chùng ở trong phòng để áo khoác,
Charlie ra vườn và hỏi hết những ai mà nó có thể níu lại được coi họ có biết
văn phòng của Manfred ở đâu không. Chưa có ai từng nghe nói về căn phòng đó cả.
Charlie lại chạy vô nhà. Khi mặc cái áo chùng xanh da trời lên, nó thọc mấy
ngón tay vô túi áo. Ba trang giấy chép phạt đã biến mất.
“Không!” Charlie ré lên, ngay
lúc Gabriel bước vô.
“Gì đó?” Gabriel hỏi
Charlie kể lại sự tình và
mười lăm phút tiếp theo Gabriel giúp nó lục soát phòng để áo khoác, nhưng ba
trang giấy không thầy đau cả. Fidelio xuất hiện và tham gia cuộc truy lùng.
Chúng tìm trong các phòng học trống và thậm chí xuống cả căn-tin. Và rồi tiếng
tù và báo hiệu giờ ăn tối.
“Có ai đó quyết tâm làm em bị
rắc rối,” Charlie rên rỉ. “Em mất tất cả mọi thứ, kèn trumpet, giấy chép
phạt...Tiếp theo là gì nữa đây?”
“Đi ăn tối cái đã,” Fidelio
nói. “Đồ ăn giúp ích cho bộ não.”
“Hừm!”Charlie ậm ừ
Ba đứa đi xuống sảnh anh lớn
dài hun hút như hang động và ngồi vào chỗ của chúng ở cuối bàn khoa Nhạc.
Đám giáo viên ngồi bên một
cái bàn kê trên bục cao ở cuối sảnh đường, và Charlie chú ý thấy Manfred đang
ngồi kế bên cha hắn. Vậy là, bây giờ hắn đã chính thức là thành viên trong giáo
ban. Ít nhất thì hắn sẽ không làm bài tập chung với tụi nó nữa, Charlie nghĩ
thầm.
Bữa tối gần xong thì giáo sư
Bloor đứng dậy và vỗ vô tay. Cả căn phòng im ngay tắp lự. Người đàn ông vạm vỡ
bước ra phía trước bục và dò xét những hàng trẻ con ở phía dưới. Dáng ông ta
oai vệ trong chiếc áo chùng đen, vai rộng, tóc xám tỉa tót gọn gàng và ria mép
thẳng như một cây thước. mắt ông ta gần như khuất hẳn dưới đụn mí thịt dày, và
thiệt khó mà nói chúng màu gì. Bây giờ trông chúng là màu đen, nhưng Charlie
biết chúng màu xám.
Phải một lúc sau vị hiệu
trưởng mới mở lời. Lũ trẻ ngóng nhìn ông ta, chờ đợi. Cuối cùng ông ta nói:
“Có vài lời với những trò
được ban phép thuật mới vô. Các trò biết mình là ai rồi, vì thế tôi sẽ không
nêu tên các trò ra nữa. các trò sẽ làm bài tập về nhà trong phòng Nhà Vua. Sẽ
có người chỉ đường cho các trò.Các trò hiểu rồi chứ?”
Charlie Bone nghe có ba giọng
nói nhẹ hều cất lên:
“Dạ, hiểu ạ.” Nó không thể
thấy những giọng nói ấy phát ra từ đâu, nhưng chúng chắc chắn không thuộc về
bất cứ ai đang ngồi bên bàn khoa Nhạc.
Giáo sư Bloor thình lình hét
vang, “GIẢI TÁN!”
Bọn trẻ rầm rập hành động một
cách chính xác tuyệt đối. Ghế ngồi cạ rít trên sàn đá, dĩa được thu dọn và xếp
thành chồng, ly uống nước va lách cách, dao nĩa xô vào nhau xủng xẻng, và rồi
tất cả cùng đổ dồn ra cửa. Khi Charlie leo hết tầng đầu tiên, nó có thêm
Gabriel và Billy nhập bọn; Emma Tolly đi đằng trước, còn Tancred và Lysander
đang bay vọt ngang một dãy cầu thang khác, lên lầu hai.
Emma chờ cho Charlie bắt kịp,
nó nói:
“Mình tìm thấy đám này dưới
sàn nhà phòng để áo khoác của khoa mình,” con bé vừa nói vừa chìa ra ba tờ giấy
nhàu nhì. “Mình nghe nói mấy bồ đang đi tìm.”
“Giấy chép phạt của mình,”
Charlie kêu lên, chụp lấy xấp giấy. “Cám ơn bồ, Emma. Nhưng làm sao chúng lại
lọt vô phòng để áo khoác khoa Hội họa được?”
“Chịu, không biết,” Emma nói.
Charlie dúi mấy tờ giấy vô cặp
sách của nó. Có tiếng bước chân nặng nề sau lưng khiến nó quay lại nhìn và thấy
Dorcas Loom đang chầm chậm bước lặc lè lên cầu thang. Đó là một đứa con gái
phục phịch, tóc xoăn màu vàng nhạt và làn da khỏe mạnh. Dorcas là kẻ ái mộ
cuồng nhiệt bà cô của Charlie, bà Venetia – bà này với tài phép của mình có thể
may nên những bộ quần áo có ma thuật chết nười.
“Ngó cái gì mà ngó?” Con bé
sưng sỉa.
“Con mèo cũng có thể nhìn nữ
hoàng kia mà,” Charlie đáp.
Dorcas “Hứ” một tiếng kinh
tởm, và tiếp tục ì ạch lên cầu thanh.
Charlie và lũ bạn nó bước vô
phòng Nhà Vua – căn phòng hình tròn, lạ lùng với chiếc bàn tròn và những bức
tường cong, sách xếp thành hang.
Manfred đang đứng ở cạnh bàn
đằng kia, dòm thẳng ra cửa. Tim Charlie lộn nhào, và rồi nỗi thất vọng dội khắp
người nó như một cơn sóng bệnh hoạn khi nó trông thấy một dáng người gập cong
đang ngồi cạnh Manfred. Đó là Asa Pike, kẻ nô lệ trung thành của Manfred –
thằng bé có thể biến thành thú khi trời tối. Thằng đó phải ra trường rồi mới
đúng, sao nó vẫn còn ở đây? Ngoài ra còn có ba đứa học trò mới ở trong phòng.
Joshua Tilpin là một trong số đó.
“Lẹ lên! Lẹ lên,” Manfred sốt
ruột ra lệnh. “Đừng có đứng chùm nhum ở cửa thế. Tôi có một thông báo quan
trọng đây.”
Charlie rụt người lại và bước
vòng quanh bàn đến một chỗ bên cạnh Tancred. Từ chỗ này nó có thể nhìn thấy bức
chân dung Vua Đỏ. Một bức tranh cổ vẽ một hình người mờ ảo mặc áo chùng đỏ và
đội vương miện vàng thanh mảnh. Gabriel, Billy và Emma theo sau Charlie trong
khi Dorcas lăn vô phòng và dùng chân đóng cửa lại.
“Hãy tỏ ra chút tôn trọng nhà
của ba tôi chớ!” Manfred mắng.
Dorcas trừng mắt, nhưng không
dám nhìn thẳng vào mắt Manfred.
“Có người ngồi chỗ của em
rồi,” nó càu nhàu.
“Đừng có ngớ ngẩn, Dorc,”
manfred nói.
“Dorc. Hay lắm,” Asa cười
khụt khịt.
Manfred lờ nó đi. “Ngồi đâu
cũng được, trò kia, lẹ lẹ lên.”
Nếu Dorcas muốn ngồi một bên
Manfred thì quả là nó không còn cơ hội. Chèn vô giữa Manfred và Joshua Tilpin
là hai con bé trông rất quái đản. Cả hai đều có tóc đen láng, cắt cụt ngay dưới
tai, với một mớ tóc dày rủ trước trán; nước da nhợt nhạt và mướt trông như đồ
sứ.
Hai chị em sinh đôi, rõ ràng,
Charlie nghĩ thầm. Nếu chúng là người thật. Bởi vì gương mặt chúng ngây đờ, và
cơ thể bất động, đến nỗi rất có thể chúng là búp bê.
Dorcas lết bết đi quanh bàn,
và đặt sách vở của nó cạnh sách vở của Joshua. Thằng này đãi con bé một nụ cười
rạng rỡ, phô hàm răng khập khiễng, và thực tình thì Dorcas cũng cười đáp lễ.
“Giờ mọi người có mặt ở đây
cả rồi,” Manfred nói, liếc xéo Dorcas, “Tôi muốn giải thích một vài điều. Trước
tiên, chắc hẳn các trò không ngờ lại gặp lại tôi. Ừm, các trò sẽ luôn gắn liền
với tôi.”
Không đứa nào hó hé một
tiếng, trừ Asa khịt mũi.
“Bây giờ tôi là thầy trợ
giảng,” Manfred tiếp, vẻ trịnh trọng. “Công việc cụ thể của tôi là giám sat bài
tập về nhà của các trò, kiểm soát sự phát triển của các trò, gác thi, và giúp
đỡ trong bất cứ vấn đề nào liên quan đến cá nhân hay công việc.”
Hắn dừng lại để lấy hơi và
Charlie tự hỏi cái người quỷ quái nào trên đời này mà lại muốn nhờ cựu huynh
trưởng giúp đỡ không biết.
“Giờ là phần giới thiệu,”
Manfred gọi tên tất cả những đứa ngồi quanh bàn cho đến khi tới lượt hai đứa
côn gái bí hiểm ngồi cạnh hắn.
“Và đây là hai chị em sinh
đôi, Inez và Idith Branko.”
Ngay khi nghe tên mình được
xướng lên, cặp sinh đôi cúi đầu và nhìn chằm chằm vào đống sách trước mặt
chúng. Với tốc độ kinh hoàng, đám sách bay xẹt qua bàn. Một chồng đáp oạch
xuống đùi Charlie, và chồng kia hạ xuống đùi Tancred.
“Ối, không!” Tancred gầm gừ.
“Siêu năng di chuyển đồ vật.”
Hai ống tay áo chùng của nó
đột nhiên phồng lên, mái tóc vàng kêu lắc rắc và một làn gió thổi tung những
xấp giấy nằm hớ hênh trên bàn.
“Tôi thấy mấy kì nghỉ hè rồi
vẫn chưa cải thiện được khả năng tự chủ của trò, Tancred à,” Manfred nói bằng
giọng móc mỉa.
Tancred và Charlie đứng dậy
và đẩy mấy chồng sách của cặp sinh đôi trở về bên kia bàn. Hai con bé tịnh
không nói một lời nào, và mặt chúng vẫn hoàn toàn lạnh băng.
Charlie không cưỡng nổi, nhận
xét:
“Lịch sự thì phải cảm ơn
chớ.”
Idith và Inez vẫn im lặng,
nhưng một trong hai đứa, chả biết là đứa nào, bắn cho nó một cai nhìn cực gớm
ghiếc.
“Hãy cố mà dế chịu với các nữ
sinh mới, Bone.” Manfred nói. “Chị em sinh đôi có họ hàng với Zelda Dobinsky,
người đã rời chúng ta. Rõ ràng cô ta là một thiên tài toán học, cho nên cô ta
đã đi học đại học ở tuổi còn rất nhỏ. Rủi thay, Asa đây là sự trái ngược với
thiên tài. Anh ta vẫn còn học với chúng ta vì thi rớt tất cả các kì thi.”
Cáu tiết vì xấu hổ, Asa càng
sụ xuống hơn trong ghế ngồi của nó, và Charlie đột nhiên có một cảm giác hiếm
thấy là thông cảm cho nó. Bị người mình ngưỡng mộ chế giễu chắc hẳn là rất đau
đớn.
“Cuối cùng, nhưng không kém
phần quan trong, chúng ta có Joshua Tilpin,” Manfred loan báo.
Nghe thấy tên mình, Joshua
bật dậy và cúi chào. Ai đó có thể nghĩ nó là một hoàng tử. Tuy nhiên nó trông
thật lôi thôi. Áo chùng xanh lá cây bết đầy bụi, lá cây và cỏ lẫn với tóc, và
một mẩu mạng nhện lòng thòng ở một bên tai.
“Ngồi
xuống, Joshua,” Manfred nói. “Trò không phải là ngôi sao nhạc pop.”
Joshua cười tươi rói với hắn
và, trước sự khinh ngạc của mọi người, Manfred cười lại. Nhận được nụ cười từ
Manfred tựa như lấy được mứt từ một hòn đá vậy.
Gì tiếp đây? Charlie nghĩ. Nó
toan bắt đầu làm bài tập về nhà thì Manfred nói:
“Charlie Bone, trò chưa nộp
bài chép phạt cho tôi.”
“Ồ, xin lỗi, thưa thầy
Manfred. Em có đem theo đây,” Charlie lục lạo túi xách.
“Tôi yêu cầu trò đem đến văn
phòng của tôi mà.”
“Nhưng... Em không biết văn
phòng ở đâu,” Charlie thú nhận.
Manfred thở dài. Hắn nhìn lên
trần nhà và dõng dạc.
“Tôi ở đằng sau từ ngữ
Trên đường đến âm nhạc
Dưới một chái nhà
Và trước kèn trumpet, mặt nạ
và cọ vẽ.”
Hắn dừng lại để tạo hiệu quả
và lái tia nhìn trở lại Charlie.
“Tôi diễn đạt rõ rồi chứ?”
Trong bất kì tình huống nào
khác, Charlie chắc hẳn sẽ nói, “Rõ như nước ao tù,” nhưng vì tình cảnh này đã
căng thẳng rồi, nên nó quyết định nói:
“Thưa vâng, thầy Manfred.”
“Tốt. Vây thì đem bài phạt
của trò đến văn phòng của tôi trước giờ ngủ, nếu không thì trò sẽ bị cấm túc.”