Charlie Bone (Tập 4) - Chương 06
Thiên thần Alice
Khi Charlie rời Ngách Tối, nó không về thẳng nhà mà rẽ vô một con đường dẫn
tới hiệu sách Ingledew.
Tiệm sách Ingledew lọt thỏm trong một dãy nhà xây bằng đá ốp và sườn gỗ,
bao quanh quảng trường nhà thờ lớn. Khi charlie bước trên những lối rải sỏi cổ
xưa về phía tiệm sách, nó nghe có tiếng đàn organ trầm lắng vẳng ra từ bên
trong tòa nhà đồ sộ có mái vòm. Ba của nó trước kia từng là người chơi đàn
organ cho nhà thờ, cho đến khi, vào một ngày nọ, ông biến mất ngay tại chỗ này.
Có lẽ Charlie đang đứng ở chính cái nơi mà lần cuối cùng người ta còn nhìn
thấy ba nó. Ông Lyell Bone đã cố ngăn gia đình Bloor không được bắt cóc Emma
Tolly, và chính vì hành động này mà ông đã bị trừng phạt thật khủng khiếp: bị
thôi miên, bị gài bẫy, bị giấu nhẹm và biến mất hẳn khỏi vợ con ông. Họ bao
rằng ba Lyell đã chết, nhưng Charlie biết rõ hơn nhiều.
Nó chợt nhún vai thật mạnh, tự nhủ rằng đừng có duy nghĩ u ám quá nhiều,
rồi bước hăng hái về phía tiệm sách.
Emma đang đứng đằng sau quầy, chăm chú xem một chồng sách lớn, đóng bìa da.
Nó ngẩng lên khi cửa tiệm kêu kính koong và Charlie bước vô.
“Cào Charlie. Bồ hết bị cấm túc sớm quá ha.”
“Họ không muốn mình luẩn quẩn ở đó. Hôm nay là ngày Billy được nhận làm con
nuôi.’
“Ồ dĩ nhiên rồi. Bồ có thấy cha mẹ mới của nó không?”
“Thấy. Và mình không thích bộ dạng của họ. Họ không thật lòng muốn có
Billy. Mình đã trông thấy mấy tấm hình ở trên bàn của Manfred và... ừm... mình
lo quá, Emma à. Mình chắc chắn cái kiểu họ chỉ tạt tới và lôi Billy đi vầy
không bình thường.”
“Thì gia đình Bloor vẫn làm khối chuyện không bình thường mà,” Emma nghiêm mặt
nói. “Nhưng họ không bị trừng phạt bởi vì họ là gia đình lâu đời nhất thành phố
này, và ai cũng sợ họ, kể cả ngài thị trưởng và những ủy viên hội đồng.”
“Họ nghĩ Manfred và lão Ezekiel có thể làm bất cứ điều gì, nhưng họ lầm,’
charlie lẩm bẩm. “À mf, có ai đó đã đánh cắp cây gậy phép của mình rồi.”
“Cái gì?” Emma đánh rớt luôn một cuốn sách. “Charlie, bồ tính làm gì đây?”
“Mình cũng chưa biết nữa. Lẽ ra mình không nên đem nó tới trường, nhưng
mình nghĩ mình có thể cần nó để... để giúp mình học bài.”
“Nhưng mà...” Emma lắc đầu. “Charlie à, chuyện này nghiêm trọng đó.”
“Mình đồng ý với bồ! Nhưng nó là cây gậy phép của mình mà, Emma. Của mình
thật sự. Nó chẳng dính dáng gì đến gia đình Yewbean hay gia đình Bloor cả và nó
sẽ chẳng có tác dụng gì cho họ dâu.”
“Nhưng nếu không thể sử dụng được nó thì họ sẽ hủy hoại nó.”
“Đó là điều mình sợ.”
Trước khi Charlie có thể nói thêm gì nữa thì một người đàn ông cao lớn ,
tóc đen, mang mắt kính màu đen bước ra khỏi khung cửa che rèm ở đăng sau quầy.
“À Charlie. Ta nghĩ ta nghe tiếng mày.” Ông đột ngột nhìn sững vô ngọn đèn
treo bên trên quầy, vuột miệng nói, “Khốn kiếp,” và bắt đầu lùi trở vô.
Emma phóng lẹ ra công tắc đèn bên cạnh tấm rèm, nhưng nó đã qua trễ. Một
tiếng ‘bụp’ thật đanh và cái bóng đèn bể vụn, trút một cơn mưa thủy tinh xuống
những cuốn sách cổ.
“Ôi, anh Paton, thiệt tình!”
Một giọng nữ bức bối vọng ra từ phía sau tấm rèm.
“Xin lỗi Julia! Xin lỗi!” Ông
cậu Paton Yewbean nói. “Làm sao mà anh biết đèn đang sáng chớ? Mặt trời chiếu
rực ngoài đó mà.”
“Con bật đèn lên để đọc sách
cho rõ hơn đó,” Emma phân trần vẻ ai oán. “Đừng lo, để con dọn cho.”
Nó cúi xuống quầy, lấy ra đồ
hốt rác và chội, những thứ luôn để sẵn đó cho tiện dụng kể từ lần đầu tiên Ông
cậu Paton ghé thăm tiệm sách.
Dì của Emma, cô Julia, giờ đã
xuất hiện đằng sau quầy.
“Dì nghĩ đáng ra còn tệ hơn
nữa kìa.”
Charlie vô cùng ngạc nhiên
khi gặp Ông cậu Paton ở trong tiệm sách vào lúc trời mới bảnh mắt thế này. Như
đã thành luật, Ông cậu Paton không bao giờ ra ngoài vào ban ngày. Ông bối rối
về tài phép của mình và sợ mình vô tình làm nổ đèn gao thông hoặc đèn chiếu
sáng trong những cửa sổ bày hàng. Thậm chí cả những bóng đèn trong các nhà
riêng cũng có nguy cơ bị vỡ tan.
Chắc chắn phải có cái gì đó
khẩn cấp lắm mới lôi đượcÔng cậu Paton đến tiệm sách. Trừ phi, dĩ nhiên, đó là
do cô Julia Ingledew. Cô là một phụ nữ xinh đẹp và Ông cậu Paton phải lòng cô
ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy cô.
“Để con giúp được không?”
charlie đề nghị khi nhìn Emma và cô Ingledew dọn dẹp đống mảnh vụn thủy tinh.
“Vô nói chuyện với Ông cậu
của con đi,” cô Ingledew bảo, “và an ủi cho ông ấy đừng phiền muộn.” Côn mỉm
cười một nụ cười châm chọc.
Charlie đi qua tấm rèm và
bước vào phòng trong của tiệm sách Ingledew. Ở đây, những chiếc kệ ken đặc sách
giăng kín các bức tường. Sách chất hàng chồng hàng đống trên bàn, dưới sàn nhà,
trên ghế và trên chiếc bàn làm việc lớn bừng gỗ đào hoa tâm của cô Ingledew.
Toàn bộ gian phòng ánh lên những màu sắc ấm áp của vải đóng sách cũ và nhũ
vàng; căn phòng thậm chí còn nức mùi da thuộc và giây mực. Đèn cầy ở mọi ngõ
ngách nào còn trống, bởi vì ô cửa sổ nhỏ để lọt được rất ít ánh sáng vô phòng,
và hôm nay cô Julia không muốn đặt những bóng đèn vào vòng may rủi.
Ông cậu Paton đang ngồi trên
một chiếc trường kỷ nhỏ, đầy báo với giấy, vì dĩ nhiên thêm cả sách nữa, bao
kín xung quanh. Khi Charlie bước vô, Ông cậu nó tháo mắt kiếng đen ra và dụi
dụi mắt.
“Thiệt vô tích sự,” ông nói
bằng mọt giọng giận dữ. “Mặc dù ta thề là cặp kiếng này đã chặn được vài vụ tai
nạn.”
Ông đút cặp kiếng vô túi trên
cùng của chiếc áo gió.
“Charlie này, mẹ mày nói với
ta là mày lại bị cấm túc nữa.”
“Dạ phải. Và bà cô Eustacia
buộc phải tới đón con,” Charlie nói vẻ hờn trách.
Ông cậu Paton nhún vai:
“Xin lỗi, nhóc. Nhưng mày biết đấy, ta không thể lái xe vào ban ngày mà.”
“May phước con vẫn còn sống,”
Charlie nói. “Con ngạc nhiên khi gặp Ông cậu ở đâu, Ông cậu Paton.”
“À, ta đến trước lúc mặt trời
mọc,” Ông cậu Paton nói, cố tránh nhìn vào mắt Charlie. “Tối qua Julia gọi cho
ta. Ai đó đã đút một lá thư qua khe cửa nhà co ấy, đề địa chỉ gửi cho ta. Kích
thích trí tò mò quá. Cho nên ta đếnngay khi ta có thể đường hoàng đến. Thiệt ra
thì lá thư liên quan đến một người bạn của mày, Charlie.”
“Người nào a?” Charlie ngồi
xuống bên cạnh Ông cậu của nó.
“Billy Raven. Kỳ quặc thiệt.”
Ông cậu Paton lôi từ túi áo
ra một chiếc phong bì nhàu nhì. Địa chỉ đề Ông Paton Yewbean bằng nét chữ viết
tay ẻo lả, khá đẹp.
“Ta muốn biết ngay mày nghĩ
ra được gì không, Charlie.”
Ông cậu Paton rút ra hai tờ
giấy. Khi ông làm vậy, một cây đèn cầy nhỏ rớt ra ngoài. Charlie vội chụp lấy
và dựng nó lên.
“Cái này giống hệt như mấy
cây đèn cầy của Billy. Billy không biết từ đâu mà có.”
“Rĩ ràng là từ người đàn ông
viết lá thư này. Vậy là chứng tỏ có mối liên hệ với nhau. “Ông cậu Paton liếc
nhìn cây đèn cầy. “Đẹp đấy.”
Đúng lúc đó Emma bước vô. Ông
cậu bảo nó ngồi xuống và lắng nghe. Ông hắng giọng và bắt đầu đọc lá thư bí
hiểm kia:
Kính thưa ông Yewbean,
Thành thật xin ông thứ lỗi
cho tôi về việc đã mạo muội chen vô cuộc sống của ông một cách khác thường như
thế này, quả thiệt, tôi không còn cách nào khác. Sợ một người trong gia đình
ông chẳng may đọc được nội dung lá thư này thì chắc chắn sẽ xảy ra thảm họa.
“Ông ta ám chỉ tới nội Bone
đó,” Charlie nói.
Ông cậu Paton nghiêm nghị gật
đầu và đọc tiếp.
Tên của ông, thưa ông
Yewbean, do một trong ít ỏi những người ở thành phố này mà tôi biết có thể tin
cậy được, báo cho hay. Và quý cô mà tôi cũng phải dùng nhờ hộp thư này cũng là
một người bạn của bon trẻ, như người ta nói cho tôi. Ông biết tôi muốn nói đến
bọn trẻ nào chứ? Vâng, những hậu duệ được ban phép thuật của Vua Đỏ, những đứa
trẻ dễ bị làm hại, đang cô dùng tài phép của cúng theo cách vinh danh tên tuổi
của tổ tiên chúng, đấng tối thượng tôn kính, nhà vua –nhà pháp thuật.
Có những đưa trẻ khác, tôi
biết, làm ô uế tên tuổi của Ngài và sỉ nhạc tài phépđượcban của chúng. Lạy
Cháu, đứa trẻ mà tôi quan tâm sâu sắc nhất không thuộc về phe này hay phe kia.
Tôi là người giám hộ cho Billy Raven. Khi cha của thằng bé , ông Rufus Raven,
và người vợ xinh đẹp của ông (cả hai người đều mang họ Raven, ông biết đấy, họ
là anh em họ xa) nhận thấy họ không thể có lối thoát khỏi gia dình Bloor và
những bà chị (xin lỗi vì dùng tính từ này) ác tâm của ông, họ khẩn cầu tôi làm
người giám hộ cho Billy, để trông chừng nó, nó bảo trợ cho nó và để chỉ dẫn nó
– nói ngắn gọn, để cứu nó khỏi trở nên giống như bọn nhà Bloor. Nhưng khi Billy
mồ côi, nó được gởi đến nhà một bà cô rất ít để tâm tới việc nuôi dưỡng trái
tim đặc biệt thánh thiện mà nó mang từ khi được sinh ra. Thay vào đó, bà ta
chọn cách bỏ mặc thằng bé cho đến khi nó bộc lộ tài phép của nó, và sau đó thì
giao hẳn nó, Billy tội nghiệp, cho gia đình Bloor.
Thưa ông Yewbean, hẳn là ông
đang tự hỏi tại sao tôi lạ chểnh mảng bổn phận của mình một cách nghiêm trọng
đến thế. Người giám hộ tương lại này đã ở đâu suốt sau năm nay? Hẳn ông đang tự
hỏi như thế.
Ở trong ngục, thưa ông
Yewbean.
Tới đây, một tiếng thở dốc
phát ra từ cô Ingkedew, cũng đã bước vô phòng.
“Trong ngục?” Cô nói. “Paton,
anh không nói cho em biết là ông ấy ở tù!”
“Một chi tiết anh đã cố ý bỏ
qua để cho em được tĩnh trí, Julia,” Ông cậu Paton nói.
Cô Ingledew ngồi trên thành
ghế trường kỷ.
“Ông cậu của con chỉ đọc một
nửa lá thư cho cô nghe,” cô bảo Charlie. “Cô phải nghe phần còn lại mới được.”
Ông cậu Paton mỉm cười dịu
dàng với cô:
“Tụi này sẽ được nghe những ý
kiến có ích của em đó, Julia.”
“Ôi, làm ơn tiếp đi mà,”
Charlie nài nỉ.
“Ta tới đâu rồi?” Ông cậu
Paton hờ hững rà ngón tay xuống tò giấy, vẻ cáu kỉnh.
“Trong ngục!’’ Chảlrie hét
lên. “Ông ấy nói ông ấy ở trong ngục.”
“À phải. Đây rồi,” Ông cậu
Paton chọc mạnh ngón tay vô tờ giấy và tiếp:
Ở trong ngục, thưa ông
Yewbean. Để tôi cam đoan với ông, rằng tôi không hề phạm tội. Tôi đã bị cái tên
lưu manh ấy, tên Weedon, lừa theo lệnh chủ nhận hắn, dĩ nhiên rồi. Tên côn đồ
đáng sợ ấy đã cố giết tôi (một cú đập lên đầu lúc trời tối trong khi tôi đang
thả con mèo ra ngoài). Nhưng vì thất bại (tôi chỉ bị chấn thương sọ não), nên
hắn dựng chuyện biến tôi thành một tên cướp có vũ trang. Tôi, trời đất ơi! Tôi
là một người thợ in. Tôi đam mê, chuyên chú vào giấy tốt, mực hảo hạng và những
hàng kẻ đều tắp. Tôi đam mê, chuyên chú đến văn từ, đến thuật khắc chữ, đến
tiêu đề trên giấy, những tờ rơi, vân vân... Ấy thế mà, tôi lại bị bắt quả tang
ngay tại hiện trường về tội cướp của dã man và bị tống vô ngục. Tuần rồi tôi
được phóng thích sớm – do hành vi cải tạo tốt.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là về
Billy, và vì vậy tôi đã liên lạc với một người bạn trung thành trong học viện
Bloor.
Thật kinh hoàng, tôi phát
hiện ra là Billy đã bị Florence và Usher de Grey nhận làm con nuôi. Tôi không
thể diễn tả hết được tai họa cuả việc này sẽ đến mức nào đối với Billy đâu.
Thưa ông Yewbean, ông sẽ giúp
tôi chứ? Ông làm ơn dàn xếp cho tôi bí mật gặp Billy được không? Tôi biết rằng,
cháu trai của ông, Charlie, là bạn thân của thằng bé, và có lẽ cũng có quan tâm
đến vụ việc. Bằng giá nào chúng tôi cũng phải cứu Billy ra khỏi gia đình de
Grey ấy, nhưng một việc mạo hiểm như vậy sẽ cần phải được lên kế hoạch một cách
cẩn trọng nhất, bí mật nhất.
Tôi sẽ liên lạc với ông sớm,
thưa ông Yewbean. Đồng thời tôi mong ngóng có sự hợp tác trong tương lai của
chúng ta.
Kính thư, chào hy vọng,
C. Crowquill
“Ôi!” Cô Ingledew thốt lên.
“Kỳ lạ thật!”
“Chắc chắn là bà bếp trưởng,”
Charlie tư lự nói. “Bà bếp trưởng là bạn của ông Crowquill ở học viện Bloor,
con đảm bảo. Bà ấy nói với con là bà đã nghe tin từ một trong những người họ
hàng của Billy. Và bà nói gì đó về một Lâu đài Gương. Ông cậu có biết nó ở đâu
không. Ông cậu Paton? Tổ tiên của Billy xuất xứ từ đó, và việc đó có lẽ rất
quan trọng đối với Billy.”
“Chưa bao giờ nghe nói về nó
cả,”Ông cậu Paton nói. “Charlie, mày có gặp gia đình de Grey này chưa vậy?”
“Dạ rồi, con có gặp họ rồi,”
Charlie nói, “và con... con, Ông cậu biết không, con đã nghe giọng nói của họ
trong hình. Ông de Grey nói ông ta không thích con nít. Vì vậy, ro ràng là ông
ta không muốn nhận Billy làm con nuôi.”
“Giờ Billy đang sống với gia
đình de Grey à?” Cô Ingledew hỏi.
“Hôm nay họ đến để dẫn nó
đi,” Charlie nói. “Nhưng nó sẽ đến nhà con vào chủ nhật này và tụi con sẽ cùng
nhau đến quán Cà Phê Thú Kiểng. Con sẽ nói cho nó biết về ông Crowquill, được
không. Ông cậu Paton?”
“Không,” Ông cậu Paton giơ
tay lên. “Chưa được đâu, Charlie. Ta cần phải suy nghĩ thật thấu đáo về cuộc
gặp mặt này. Lúc này, tốt nhất là Billy không biết gì về người bảo vệ mình cả.
Nếu nó vô tình tiết lộ bí mật ra thì, mọt lần nữa, ông Crowquill sẽ gặp nguy
hiểm khôn lường.”
“Được. Con sẽ không nói cho
nó biết vội. Gia đình de Grey có lẽ không phải là cha mẹ tốt, nhưng ít nhất thì
Billy đã ra khỏi được Học viện bloor.”
“Đúng là ra khỏi chảo rang
lại rơi vào lò lửa,” Emma nghiêm nghị nói.
Vào sáng Chủ nhật, trong khi
charlie chờ Billy đến, thì nội Bone đi xuống lầu, diện bộ đồ Chủ nhật đẹp nhất
của bà ta: một chiếc nón tết bằng lông chim đen, một chiếc áo khoác quý rộng
thùng thình mù xám sỉ than, và một chiếc khăn quàng mang hình hai con chồn
chết. Hai cái đuôi chồn thòng xuống lưng bà, trong khi hai cái đầu chồn gặp
nhau dưới cổ họng bà. Những đôi mắt thủy tinh đầy oán hận cuả những con thú đó
luôn khiến Charlie ớn xương sống, và nó cố không nhìn vào chúng khi nó đụng bà
nội trong hành lang.
“Nội ơi, bà có...?” Charlie
mở đầu.
“Tránh ra,” bà Bone quát. “Bà Eustacia đến đón tao kìa.”
Quả đúng vậy, có tiếng thắng xe rít lên kinh hồn khi xe của bà cô Eustacia
đụng phải lề đường bên ngoài nhà số 9.
“Con chỉ muốn hỏi nội có biết ban Billy của con hiện đang sống ở đâu
không?” Charlie nài nỉ nói.
“Dĩ nhiên là tao biết,” nội Bone cộc cằn. “Nhưng đừng hòng tao nói cho
mày.”
Bà ta đẩy Charlie tránh đường ra, mở cửa trước và đóng lại cái uỳnh sau
lưng.
Vài giây sau, Charlie nghe tiếng rú quen thuộc của bánh xe vè một tiếng rầm
lớn khi bà cô Eustacia lùi trúng cột đèn đường. Một tiếng thé nghẹn ứ phát ra
từ nội Bone và chiếc xe bắn vụt đi.
Charlie uể oải trở vô nhà bếp, lầm bầm:
“Đúng là bà dơi già. Bà sẽ không nói cho mình biết Billy sống ở đâu đâu.”
“Đừng lo, Charlie,” ngoại Masie nói. “Bà nghĩ là anh bạn nhỏ của con đang
xơi bữa trưa ngon lành với cha mẹ mới của nó. Nó sẽ tới ngay mà.”
“Con cũng mong vậy,” Charlie nói.
Hầu như chiều Chủ nhật nào Charlie và đám bạn của nó cũng gặp nhau tại quán
cà phê thú kiểng. Hôm nay, Charlie chờ Billy cho đến 4 giờ, sau đó nó rời nhà
một mình. Khi đến hẻm Con Ếch, nó đã nghe thấy tiếng ồn ào từ quán cà phê dội
xuống khắp con hẻm chật: tiếng sửa, tiếng kêu ăng ẳng, tiếng tru, tiếng kêu
chiêm chiếp và tiếng la quang quác.
Quán cà phê núp bên dưới những tảng đá của một bức tường khổng lồ, cổ xưa.
Thật ra, nơi này được xây hẳn vô trong đá và nhìn như thể nó là một phần của
bức tường hàng trăm năm tuổi này. Dòng chữ cà phê thú kiểng được sơn phía trên
một khung cửa sổ lớn, và để nhấn mạnh rằng nơi này là một quán cà phê chuyên để
đón tiếp những con thú được người dẫn theo, những hình vẽ đuôi, móng, ria, cánh
và vuốt được trang trí lồng vào từng mẫu tự của tấm biển.
Charlie bước vào qua một cánh của màu xanh lá cây và mặt đối mặt với một
người đàn ông lực lưỡng, mặc áo thun vẽ hình mấy con vẹt.
“À, Charlie Bone,” Norton, người bảo vệ quán thú, nói. “Lẽ ra cậu phải đến
sớm hơn rồi. bạn bè của cậu hầu như đã hết hy vọng vào cậu rồi... còn con chó
của cậu thì đang điên tiết lên đấy.”
“Gượm đã. Hạt Đậu không phải là con chó của cháu.”
“Nó là con chó của cậu trong khi anh bạn kia của cậu đang ở Hồng Kông.”
Một tiếng sửa vui mừng cất lên tù đăng sau quầy, và một con chó vàng bự
chảng phóng vù vô Charlie, suýt nữa thì tống nó nhào xuống sàn.
“Chào, Hạt Đậu!” Charlie ôm chầm lấy con chó và tìm đám bạn của nó. Emma và
Gabriel đang ngồi trong một góc bàn, ăn chung một đĩa bánh bích quy. Cả hai
đang uống những ly nước màu hồng tươi, và ba con chuột liểng của Gabriel đang
tợp liếm một vũng nước lớn đổ ra bàn.
“Nứơc hoa Anh Đào Ngâm,” Gabriel giải thích khi Charlie dẫn hạt Đậu lại gần
bàn. “Bọn chuột thích món đó lắm.”
“Í,” Chảlrie quan sát khi nó ngồi xuống giữa lũ bạn. “Một con say mèm rồi lìa.”
“Hự... Ừ,phải.” Gabriel hớt
con chuột đang nằm mọp lên và đút vô túi áo. “Chút nó tỉnh ngay mà,” Gabriel
nói chắc nịch. “Công thức pha chế mới của ông Onimous đó. Thứ nước mạnh quá.
Enm muốn uống một ngụm không?”
“Thôi, cảm ơn, nhưng để em ăn
một chiếc bánh bích quy.” Charlie nhón hai chiếc bánh bích quy, một cho nó và
một cho hạt Đậu.
Con chó bự nhai rau ráu vẻ
biết ơn, và rồi ngồi tì cằm lên đùi Charlie, hy vọng có thêm.
“Những người khác đâu rồi?”
Charlie hỏi, cho hạt Đậu thêm một chiếc bánh bích quy nữa.
“Anh Tanc với anh Sander
không thể đợi nổi,” Emma nói. “Bồ lâu cả thế kỷ, Charlie. Mình tưởng bồ sẽ dắt
theo Billy chứ.”
“Chăng thấy mặt mũi nó đấu.
Còn Olivia thì sao? Bồ có gặp nó không? Nó có nhận được vai đó không?”
Emma nhún vai:
“Mình đã gọi tới nhà nó hai
lần rồi, nhưng không có ai trả lời. Nó hứa sẽ gặp mình ở đây nhưng... mình
không biết. Chắc là có chuyện gì rồi.”
“Có lẽ bây giờ con nhỏ đã là
ngôi sao, và sẽ không thèm nói chuyện với đám bọn mình nữa,” Gabriel bảo.
“Không đúng,” Emma lắc đầu.
“Livvie không thế đấu. Nó sẽ tới mà.”
Nhưng Olivia không hề xuất
hiện. Cả Billy cũng không. Cuối cùng ba đứa bạn phát mệt vì chờ. Emma và
Gabriel về nhà, còn Charlie dẫn Hạt Đậu đi dạo. Lúc thằng bé và con chó vừa
định quẹo về lại hẻm Con Ếch, sau trọn nửa giờ đi bộ, con hạt Đậu chợt sửa váng
lên và chạy, kéo căng sợi dây xích chó.
Ở đầu kia của con đường,
Charlie trông thấy Olivia chạy lẹ vô một ngõ hẻm. Nó liếc nhìn Charlie một cai
thiệt lẹ, thiệt dữ dội và rồi biến mất. Tò mò vì hành vi kỳ lạ của con nhỏ,
Charlie chạy băng qua đường. Lúc nó đến nơi thì Olivia đã biệt tăm, nhưng hạt
Đậu kéo Charlie chạy tiếp trong ngõ hẻm, băng qua một quảng trường rải sỏi và
rồi vô một khu đầy những cửa tiệm nhỏ.
Ở đằng xa, đứa con gai quay
lưng lại Charlie và bắt đầu chạy tiếp. Nhưng nó không chạy kịp con chó. Giằng
sợi xích vuột khỏi tay Charlie, con chó phóng nhanh trên đường và rượt kịp
Olivia. Nhảy chồm lên người con bé, nó bắt đầu sửa lên phấn khích.
“Tránh ra! Cút đi!: Đứa con
gái hét ầm .
“Từ từ, Liv,” Charlie hét to.
“Nó là hạt
Đậu mà. Chuyện gì xảy với bồ vậy?”
Olivia tựa gục vào bức tường trong khi Charlie chạy tới và túm lấy xích cổ
chó.
“Nó không làm bồ đau đâu, Liv. Nó chỉ mừng rỡ vì gặp bồ thôi mà.” Charlie
ngừng lại. “Gì vậy? trông bồ thiệt kinh khủng.”
“Cám ơn nhiều!” Olivia nhăn nhó.
“Mình không có ý nói khủng khiếp, ý mình... khác.” Charlie nói lẹ.
Gương mặt của Olivia lem luốc vệt nước mắt, mí mắt nó sưng húp và tóc nó
rối bù. Nó mặc quần bò, mang giày thể thao và áo thun nhăn nhúm. Còn đâu những
màu sắc rực rỡ và những bộ đò hầm hố mà nó thường mặc. Charlie chưa bao giờ
thấy bạn mình trông “bình thường” như thế này, mà lại đau khổ như thế này. Nó
thấy nó nên hỏi về buổi diễn thử vai; sẽ còn tệ hơn nếu tránh né một câu hỏi
quan trọng như vậy.
“Bồ có được nhận vai đó không?”
Môi Olivia mím lại thành một đường chỉ. Nó đá sục xuống đất bằng mũi giày,
và qua hàm răng nghiến chặt, nó nói:
“Không!”
“Ồ, chao, mình xin lỗi,” câu này có vẻ chưa hoàn chỉnh, nhưng Charlie còn
có thể nói gì được nữa?
“Đừng có...” Olivia cáu kỉnh nói. “Tôi không muốn người ta phải thương hại
tôi.”
“Được. Nhưng chuyện gì xảy ra vậy? Bồ có muốn nói về chuyện đó không?’”
Olivia nghĩ ngợi một hoáng và rồi quyết định là nó rất muốn nói. Nó muốn
nói và nói cho đến khi toàn bộ cái sự việc xấu hổ, nhục nhã kia xì hết ra ngoài
không khí, được chia sẻ bởi ít nhất là một con người khác.... và một con chó.
Ngày hôm đó bắt đầu thật tuyệt. Olivia đã tiến vào tới vòng chỉ còn sáu đứa
con gai.
“Tất cả bọn chúng đều nhỏ hơn tớ,” nó nói, nhăn trán lại một cái, “nhưng mẹ
tớ nói rằng điều đó không có nghĩa lý gì hết. Cái con nhỏ ngồi kế tớ, nó cột
tóc bím, mặt đầy tàn nhang và giọng nói cao vút, trông thiệt ngố. Nó mười ba
tuổi, Charlie, nhưng người nó tí nị.” Olivia nhăn trán sâu hơn. “Nó cứ lải nhải
rằng tớ chắc chắn sẽ nhận được vai này vì mẹ tớ nổi tiếng.”
“Nghe chẳng lọt tai tí nào,” Charlie nhận xét.
“Ừ. Nhưng tớ quá tự tin nên không nhận ra. Tớ đi vô căn phòng đó và diễn
phần của tớ... diễn hết mình luôn. Tớ làm tốt thực sự. Tớ biết rõ mà. Và tớ
muốn chắc chắn mình sẽ được nhận vai diễn. Có bốn vị giám khảo ngồi bên bàn ,
hai ông và hai bà. Họ thậm chí không ghi chép gì hết. và khi tớ làm xong thì
ông đạo diễn, chính xác là một người bạn của ba tớ, mỉm cười với tớ và nói,
‘Cám ơn Olivia. Diễn rất tốt, nhưng không hoàn toàn giống như điều chúng tôi
đang tìm kiếm.”
Một dòng nước mắt tuôn trào xuống má Olivia.
“Cái con bím tóc ấy được nhận vai,” nó nói gằn giọng.
“Ôi, không,” Charlie kêu lên.
“Mình không tin nổi.”
“Điều tệ nhất trong mọi điều
là nó đã giận lây mẹ tớ. Hai mẹ con cãi nhau nảy lửa và tớ nói đó là do lỗi của
mẹ tớ. Giờ thì mẹ tớ còn cáu tiết hơn cả tớ nữa. Tớ nói tớ sẽ đi gặp bọn đằng
ấy ở quan cà Phê Thú Kiểng, nhưng tớ không thể đối mặt với việc phải nói với
tất cả mọi người. Tớ nghĩ tớ sẽ mua ít hoa tặng mẹ để dàn hòa, và có người bảo
tớ có một tiệm bán hoa đang mở cửa, ở đâu đây nè.”
“Ở ngay đằng kia kìa!”
Charlie hất đầu qua bên kia đường. Thiệt kỳ quặc, nó tự hỏi tại sao trước đó nó
không nhận ra. Khung cửa và cái cửa sổ sơn màu xanh lá cây đậm và những chữ bên
trên cửa sổ hàng được in bằng những mẫu tự vàng rực, uốn lượn. HOA THIÊN THẦN.
“Toàn hoa trắng!” Olivia nhận
xét, vẻ đằng đằng của nó bắt đầu nguội bớt.
Đúng vậy. Mọi bông hoa bên
trong cửa sổ bày hàng đều trắng: Hoa huệ tây, hoa hồng, hoa cúc và những cây lạ
lùng mà Charlie chưa thấy bao giờ.
“Tụi mình lại coi cửa có mở
không,” Charlie bước xuống khỏi vỉa hè, nhưng Olivia lừng khừng ở lại.
“Đi nào,” Charlie chộp tay
con bé. Hạt Đậu cũng đã kéo Charlie qua đường, và cuối cùng, một dây ba đứa
lùng nhùng lết tới tiệm bán hoa.
Lách nhìn qua những bông hoa
nở rộ bên trong cửa sổ bày hàng, Charlie nói:
“Cửa mở. Mình thấy có người.”
Nó tiến tới cửa chính.
“Không,” Olivia nói. “Tớ đổi
ý rồi.’’
“Sao vậy?”
“Tớ không muốn vô trong đó.”
Con nhỏ đứng như trời trồng tại chỗ, mắt dán chặt vô một bó huệ tây.
“Đi đi. Mua một bông huệ tây
thôi.” Charlie nói. “Không mắc đâu.”
“Sao đằng ấy biết,” Olivia
chất vấn.
Olivia chợt nhận ra sự thay đổi
bí hiểm ở Olivia liên quan rất ít đến chuyện rớt thử vai.
“Mình có thể cho bồ mượn hai
đồng bảng nếu quá mắc,” Nó nói nhẹ nhàng. “Hay là để mình mua cho bồ.”
Nó đẩy cửa. Cánh cửa mở vào
một gian hàng thơm ngát hương hóa.
“Ừm!” Charlie hít hít không
khí. “Tuyệt thật.”
“Thế ư!” Một giọng nói cất
lên.
Một phụ nữ hiện ra từ phía
sau tiệm. Hạt Đậu chạy tới chỗ cô ấy, đuôi nó ngoáy rối rít.
“Con chó dễ thương quá.”
Người phụ nữ vuốt ve hai tai Hạt Đậu, và chú chàng ngồi xuống, kệ rừ rừ khoái
trá.
“Chúng cháu muốn mua... ừm...
bông huệ tây,” Charlie nói.
“Chúng cháu?” Người phụ nữ
hỏi. Cô có mái tóc bạch kim và đôi mắt to màu xanh lá cây.
“Dạ phải. bạn chau muốn mua
hoa về tặng mẹ bạn ấy.”
Charlie nhìn ra sau lưng và
thấy Olivia đang lần chần bước vô tiệm
“À đây rồi,” người phụ nữ
nói. “Cô rất vui là cuối cùng cháu đã tới.”
“Ý cô là sao?” Olivia đông
cứng lại. “Cháu không biết cô.”
“Nhưng cô biết cháu,” người
phụ nữ nói. “Tên cô là Alice Angel.”
Rồi cô chìa tay ra:
“Và cháu là Olivia!”
Olivia vẫn không nhúc nhích,
cho nên Charlie bắt tay cô Alice Angel.
“Lại đây, Liv. Ổn mà.”
Charlie quay lại nhìn Olivia, giờ đang đeo một bộ mặt hằm hằm.
Cô Alice Angel mỉm.
“Không có gì gấp đầu. Cháu
muốn mua mấy bông huệ tây?”
Olivia thậm chí không mở
miệng.
“Giá bao nhiêu ạ?” Charlie
hỏi.
Cô Alice không đáp. Cô trầm
tư đặt một ngón tay lên cằm và nói.
“Mười bông là đẹp. Mỗi bông
cho một hậu dụê của nhà vua. Dẫu có vài đứa không xứng đáng với ý nghĩa đó.
Phải, mười bông với một ít nhánh lá xanh.”
Đôi mắt cô xanh hệt như những
cuống hoa. Và làm sao mà cô ấy biết về nhà vua và mười hậu duệ của Ngài?
Charlie lo lắng nói:
“Cháu chỉ có hai bảng.”
“Hoa miễn phí,” cô Alice nói,
khéo léo sắp xếp những bông huệ tây lên quầy. Cô bọc chúng lại bằng giấy bạc
mỏng và cột bó hoa bằng một dải ruy băng xa-tanh trắng.
Charlie nhận lấy bó hoa:
“Cô chắc chắn là chúng miễn
phí ạ?”
“Hoàn toàn chắc.” Cô Alice
liếc nang qua Olivia. “Cháu sẽ sớm trở lại chứ? Chúng ta có nhiều thứ để cùng
nhau khám phá.”
Olivia quay phắt đi và biến
lẹ khỏi tiệm.
Charlie bắt đầu cảm thấy lúng
túng. Có điều gì đó lạ kỳ về cô Alice Angel này. Bắt đầu từ tên của cô ấy đã
lạ; rồi tóc cô ấy mang màu trắng y như sắc trắng của những bông huệ tây.
Nó nói:
“Cảm ơn rất nhiều về những
bông hoa, thưa bà... thưa cô Angel. Cháu xin lỗi bạn cháu không... à, bạn ấy
đang bị sốc. Bình thường bạn không như vậy.”
“Cô biết. cháu có muốn ăn
chút táo không? Tự tay cô trồng chúng đấy và chúng lên thật xanh tốt,” cô Alice
mỉm cười khích lệ.
“Dạ không, cảm ơn cô,”
Charlie nói, hơi hoài nghi. “Mẹ cháu làm việc ở một cửa hàng rau quả.”
“Đúng rồi,” cô Alice nói.
“Tạm biệt, Charlie”
“Tạm biệt cô,” Charlie bước
ra cùng với con Hạt Đậu theo bén gót. Đúng lúc đi khỏi cửa hàng thì nó nhận ra vừa
nãy cô Alice đã gọi đúng tên nó.
“Làm thế nào mà cô ấy biết
tên mình?” Nó hỏi bằng giọng hoang mang.
“Làm sao mà cô ấy lại biết
tên tớ chứ.” Olivia nhận bó hoa từ tay Charlie. Trông con bé vừa sửng sốt vừa
bối rối. “Người phụ nữ đó có thể nhìn thấu bên trong tớ,” nó nói, gần như thì
thào. “Cô ấy biết những điều về tớ mà ngay cả tớ cũng không biết.”