Charlie Bone (Tập 4) - Chương 07
Quyển sách về ngài Amadis
Khi Charlie dẫn con Hạt Đậu
về lại quán cà phê thú kiểng, nó hỏi ông bà Onimous coi họ có biết một cửa hàng
tên là Hoa Thiên Thần hay không.
“Nghe quen quen,” ông Ominous nói. “Đó là một trong những nơi đến rồi đi,
cậu hiểu ý tôi muốn nói gì rồi đó.”
Charlie không hiểu.
“ Trong thành phố này có nhiều thứ lạ lùng không tin nổi,” bà Ominous nói.
“Ồ, giờ thì bất cứ chuyện gì cháu cũng tin được,” Charlie nói. “Thiệt tình,
cháu cũng sẽ không hề ngạc nhiên nếu ông bảo cháu rằng Hạt Đậu là một vị tiên
một ngàn tuổi.”
Câu nói của nó khiến ông Ominous cười đến nỗi đỏ rựng cả mặt, và ông rớt
phịch, bệt xuống sàn.
Charlie ôm hôn chia tay con Hạt Đậu, chào tạm biệt ông bà Ominous, rồi vội
vã về nhà. Lúc này đã 6 giờ, và mẹ nó chắc là đang lo sốt vó.
“Nãy giờ con ở đâu vậy?”Cô Ammy Bone kêu lên khi Charlie bước vô nhà bếp.
“Chúng ta đã gọi cho gia đình Gunn nhưng Fidelio nói là nó không gặp con,”
ngoại Maisie thêm.
Charlie kể lạ cho bà và mẹ nó nghe về cửa hàng bán hoa.
“Cô Alice Angel đó biết con, mẹ à, nhưng sao cô ấy lại biết? Bà với mẹ có
bao giờ đến tiệm Hoa Thiên Thần chưa?”
“Bà chưa bao giờ nghe đến cái tên đó,” ngoại Maisie bảo.
“Mẹ cũng chưa hề nghe,” cô Amy kêu lên. “Ôi, Charlie, mẹ mong con đừng có
một mình lang thang đến những chỗ lạ trong thành phố.”
“Con đi với Hạt Đậu mà, với lại có cả Olivia ở đó nữa, con đâu có đi một
mình đâu.”
“Nhưng mà,” mẹ Charlie thở dài. “Mẹ không lo không được, Charlie à. Phải
chi ba con... ngoài kia có những người không muốn con bình an. Nếu con mà... mà
biến mất, như ba Lyell ấy, thì mẹ không biết phải làm sao.”
“Con sẽ không biến mất đâu, mẹ. Ba con không có phép thuật, nhưng con thì
có.”
“Chính vậy,” cô Amy lúng búng. “Thôi, dùng bữa trà đi con.”
Charlie ngồi xuống, cảm thấy có lỗi, và ngoại Masie rót cho nó một tách
trà. “Chúng ta không lo sao được,” bà nói. “bà cô Venetia của con vừa đến đây
xong.”
“Bà cô Venetia!” Con dao ăn của Charlie va cạch vô cái dĩa. “Nội Bone mở
cửa cho bà ấy vô à?’
“Không. Chắc chắn mụ ta có chìa khóa. Bà mở cửa nhà bếp ra thì thấy mụ ở đó
rồi, đứng lù lù trong hành lang. Trông mụ ấy thật ghê hồn, tóc tai rối bù, quần
áo lôi thôi lếch thếch. Mụ ta vẫn lịch lãm lắm kia mà. Bà nghĩ mụ ta mất trí
rồi. Vụ hỏa hoạn trong nhà mụ khiến mụ phát điên phát khùng.”
“Bà ta cắp theo một nách quần áo,” mẹ Charlie nói. “Muốn biết xem chúng ta
có thích chúng không.”
“Còn lâu,” ngoại Maisie khịt mũi. “Chắc chắn mụ ta đã tẩm độc chúng rồi.”
“Chúng ta bảo bà ta đi đi, xong mẹ khóa tất cả các phòng ngủ lại, để đề
phòng. Chìa khóa phòng con đây, Charlie.” Cô Amy Bone đẩy một chiếc chìa khóa
băng qua bàn. “Ngày mai hãy khóa cửa phòng con lại khi con đi học, rồi đưa chìa
khóa cho ngoại Maisie.”
Charlie rên rỉ. Cứ như chưa có đủ chuyện để ghi nhớ không bằng, giờ họ lại
còn phải khóa tất cả các cửa phòng lại nữa.
“Không làm thế không được,” ngoại Maisie bảo. “Chúng ta không muốn kết cục
lại có thuốc độc trong quần hoặc rắn bò ra từ ống tay áo, đúng chưa?”
Khi bữa trà kết thúc, Charlie ngồi lại để coi chương trình T.V ưa thích của
nó, Những tiếng sửa, câu chuyện kể về một chú chó. Trái với ý muốn của nội
Bone, ngoại Maisie cương quyết đặt một chiếc T.V nhỏ lên nóc tủ đựng ly chén
trong nhà beeps. Bà không muốn bỏ lỡ những sô truyền hình yêu thích của bà. Bà
từng nói với nội Bone rằng nếu bà đã phải làm nô lệ suốt ngày trong nhà bếp như
thế, thì chí ít bà cũng phải được phép thưởng thức đôi chút thú vui trong khi
làm việc chứ. Dĩ nhiên, Trừ phi có người lại thích tự nguyện làm nô lệ.
Nôi Bone nghe đến từ nô lệ thì hãi quá, và đành chịu thua.
Chương trình của Charlie vừa bắt đầu thì ông cậu Paton ngó vô và nói:
“Rồi!”
“Rồ gì ạ?” Charlie hỏi, hy vọng cái tia nhìn quắc lên trong mắt ông không
có nghĩa là một trong những bà chị của ông vừa tống cho ông một căn bệnh gớm
ghiếc.
“Lâu đài Gương, nhóc cưng,” Ông cậu Paton nói. “lên lầu đi rồi ta chỉ cho
coi.”
“nhưng chương trình của con vừa mới bắt đầu.” Charlie nói, nhấp nhổm trên
ghế.
“À ừ, nếu tích T.V hơn... thì cứa việc thích đi!” Ông cậu Paton lui ra,
đóng sầm cửa lại sau lưng.
Charlie coi những tiếng sửa thêm chừng năm phút thì không thể tập trung
được nữa. Chả có gì tức cười trong tập phim hôm nay cả. Ngoại Maisie và mẹ bó
đang rúc tích cười bên một tờ tạp chí. Thật chia trí hết sức. Charlie buông một
tiếng thở dài thiệt to, tắt T.V và rời nhà bếp. Nó chạy vù lên lầu và gõ cửa
phòng Ông cậu.
“Cái gì?” Giọng Ông cậu Paton.
“Ông cậu nói ông cậu có thứ muốn cho con coi... về Lâu Đài Gương.”
“Vậy hả? Thế thì vô đi,”Ông cậu Paton nói hơi miễn cưỡng.
Charlie bước vô phòng. Ông cậu Paton của nó ngập trong tình trạng bừa bãi
như thường lệ. Sách nằm ngổn ngang dưới sàn nhà, giấy chất trên giờng, và các
kệ sách oằn xuống dưới sức nặng của những bản thảo và những cuốn bách khoa toàn
thư. Ông cậu Paton đang ngồi bên bàn làm việc. Ông đeo cặp kính tròng bán
nguyệt và đang đọc một cuốn sách trông cũ mục nhất mà Charlie từng thấy. Những
trang giấy xỉn màu như màu mù tạt và những mép sách cong tua ra. Bìa da tơi
xốp, te tua và gần hư không giữ nổi những trang sách mục cứ chực bung ra khỏi
bìa.
“Julia thông thái đã tìm thấy cái này trong đám kho báu của cô ấy. Cô ấy có
một trí nhớ thiệt đáng kinh ngạc, và khi nghe nhắc đến một lâu đài gương là côn
ấy biết ngay trước đây mình đã từng thấy cái tên đó.”
Ông cậu Paton tiếc nuối gập cuốn sách lại và Charlie đọc thấy chữ Quyển
sách về ngài Amadis in bằng chữ vàng bị mờ đi trên bìa.
“Ngài Amadis?” Charlie nói.
“Người con thứ hai của Vua Đỏ,” Ông cậu Paton vỗ vỗ cuốn sách. “Cuốn sách
này kể lại tất cả. Ngài Amadis bị buộc phải trốn khỏi lâu đài của vua cha khi
Borlath, người con cả, rắp tâm theo đuổi quyền lực chết người của hắn. Hắn giết
hại tất cả những người ngáng đường hắn, và trong cuộc chinh phục này, hắn được
bốn người anh em của hắn trợ giúp. Năm người kia, trong đó có ngài Amadis, cố
ngăn cản những cuộc tàn sát đẫm máu đang diễn ra trên khắp đất nước. Nhưng
Borlath và bọn lâu la của hắn rất hùng mạnh, và cuối cùng, lại thêm những người
anh em đầy tôn kính phải chạy trốn khỏi lâu đài vì lo sợ tính mạng của mình.”
“Ngài Amadis là tổ tiên của Billy phải không ạ?” Charlie hỏi.
“Hình như thế.”
“Vậy thì, ai là tổ tiên của chúng ta? Người bắt đầu dòng họ Yewbean ấy? Ông
ấy theo phe thiện hay phe ác?”
“Theo những gì ta nghiên cứu được thì bà ấy là Amoret, người con cuối cung,
em gái yêu quý nhất của ngài Amdis.”
“Một cô gái?” Charlie chưa từng nghĩ đến điều này.
“Phải, Charlie, một cô gái.” Ông cậu Paton mở quyển sách cổ xưa ra. “Bà ấy
chạy trốn cùng với ngài Amadis, nhưng đến phương bắc thì họ bị tách ra. Bà
Amoret bị lạc và ngài Amadis dong buồm đến một hòn đảo ở hướng Tây bắc. Ông rất
được yêu mến và nhiều người dân sống trong lãnh địa của nhà vua thà rời bỏ quê
nhà để đi theo ngài Amadis còn hơn là ở lại chịu ách cai trị tàn bạo của
Borlath...”
Charlie cắt ngang:
“Nhưng bà Amoret? Ông cậu nói bà ấy bị lạc. Ông cậu không biết chuyện gì
xảy ra với bà ấy a? Không ai biết cả sao? Ý con là, con có thể tìm ra... có lẽ
ở trên Internet.”
Ông cậu Paton buông một tiếng thở dài mất kiên nhẫn:
“Mày sẽ chẳng tìm thấy bà Amoret trên máy tính của mày đâu. Lịch sử về bà
ấy bí mật đến nỗi không thể đưa lên mạng được. Không ai biết toàn bộ sự thực.
Chính chúng ta phải khám phá ra điều đó. Và đó là điều ta đang cố làm trong
suốt hai mươi năm qua.”
Ông duỗi cánh tay, trỏ vô những kệ sách và những đống giấy tưa sờn.
“Khi gặp Julia Ingledew, ta cứ như bắt được kho báu vậy; còn ai khác đam mê
tìm hiểu quá khứ, còn ai khác không nề hà dành cả một tuần lễ để lục tìm cho
được một manh mối mập mờ nhất nhằm giải đáp một câu đố như cô ấy chứ. Với ta,
một người như vậy là cả một kho báu, Charlie, cho dù cô ấy không phải là người
tâm đắc và dễ mến nhất mà ta từng gặp.”
Charlie chưa bao giờ nghe ông cậu nó nói say sưa như thế.
“Ông cậu có cưới cô ấy không?” Nó hỏi.
Ông cậu Paton nheo mắt, rồi nói nhanh:
“Ta thậm chí còn không dám nghĩ tới điều đó.”
“Sao lại không? Con thấy đó là một điều hay,” Charlie thẳng ruột ngựa.
Ông cậu Paton giả vờ ho khéo một tiếng.
“Đề tài của chúng ta là Lâu Đài Gương, chứ không phải là tương lai của
Paton Yewbeam,” ông nói bằng giọng đều đều. “Mày có quan tâm đến quyển sách này
hay không nào?”
“Còn phải nói,” Charlie nhiệt thành nói. “Con ngồi xuống nhe? Chắc phải mất
một ngày dài.”
“Cứ việc,” Ông cậu Paton trỏ cho nó chiếc giờng , và Charlie, sau khi loay
hoay đẩy vài quyển sách qua một bên , đã kiếm được một chỗ để an vị trên chiếc giờng
lớn, bừa bộn của Ông cậu Paton.
Ông cậu Paton xoay chiếc ghế da rách tươm bươm của mình quay mặt lại với
Charlie và bắt đầu đọc. Tới khi màn đêm sụp xuống ,và mặt trăng hiển ra trên
bầu trời đen kịt, Charlie đã chìm đắm trong câu chuyện về Hoàng tử Amadis và
lâu đài Gương. Quang cảnh căn phòng của ông cậu Paton mờ dần, và qua đôi mắt
khép hờ, Charlie bắt đầu thấy một lâu đài nổi lên giữa một hòn đảo màu xanh lá
cấy, nằm ngay giữa mặt biển lấp lánh.
“Người ta nói rằng đó là tòa lâu đài thần tiên nhất trên đời...”
Ông cậu Paton là một người kể chuyện hoàn hảo. Ông biến những dòng chữ
trong sách thành lời kể của riêng mình, và giọng kể trầm bổng, sâu sắc của ông
làm căn phòng hiện ra đầy ắp những hình ảnh: những hiệp sĩ uy nghi, những con
ngựa chiến, những chiếc cúp vàng, những thanh gươm, những tấm khiên sáng loáng,
những cờ phướn bay phấp phới, biển dậy sóng dữ dội... và lửa cháy.
“Khi ngài Amadis và đoàn tùy tùng của ngài đã xây dựng xong tòa lâu đài
hoàn mỹ của mình,” Ông cậu Paton đọc, “thì tiếp theo đó là mười lăm năm yên
bình. Đất đai màu mỡ và họ sống thịnh vượng. Hoàng tử cưới một trong những
người tùy tùng của mình và họ có bốn người con. Người con út tên là Owain.”
“Thế còn ba người kia thì sao?” Charlie nôn nóng hỏi.
“Không liên quan,” Ông cậu của nó nói.
Ông tiếp tục giải thích tại sao ba người con đáng thương ấy không dự phần
trong câu chuyện.
“Điều tất yếu xảy tới là Borlath nghe được tin về tòa lâu đài trên đảo ấy
và muốn chiếm nó cho mình. Mang theo một ngàn lính đánh thuê khát máu, hắn băng
qua biển và bao vây lâu đài, yêu cầu ngài Amadis phải đầu hàng.”
“Và ngài Amadis từ chối?”
Charlie nóng nảy chen vô.
“Dĩ nhiên. Ngài biết rằng nếu
ngài giao nộp lâu đài thì toàn thể gia đình ngài sẽ bị tàn sát. Nhưng đó là một
quyết định đau lòng. Ngài Amadis biết rất rõ về tài phép khủng khiếp của
Borlath.”
Charlie chồm hẳn người ra
trước, vẻ nôn nóng:
“Đó là điều con vẫn muốn hỏi,
Ông cậu Paton ơi, tất cả con cái của Vua Đỏ đều được ban phép thuật, phải
không? Vậy, ngài Amadis có thể làm được gì? Và lão Borlath thì sao?”
“Ngài Amadis hiểu ngôn ngữ
của các loài chim và thú. Ngài có thể nói chuyện với bất kì sinh vật nào trên
đời, nhưng điều đó không có giá trị gì nhiều khi ngài cần phải bảo vệ thần dân
của ngài chống lại Borlath.”
Charlie chờ đợi một cách sốt
ruột, cho đến mãi cuối cùng, Ông cậu Paton bảo với nó:
“Borlath có thể phun ra lửa;
khi tập trung tâm trí, hắn có thể thiêu rụi tất cả mọi thứ trên đường hắn đi.
Nhưng hắn không muốn phá hủy một tòa lâu đài hoàn mỹ như vậy; hắn muốn chiếm nó
cho mình, vì vậy hắn bắt đầu bao vậy lâu đài. Điều đó không có nghĩa là hắn
ngồi im chờ ngài Amadis đầu hàng. Ồ, không hề. Trước tiên, quân đội của Borlath
bắc thang leo lên những bờ tường dốc đứng. Những cung thủ từ các lỗ châu mai
trên đỉnh thành chẳng mấy chốc đã đánh lui bọn chúng.”
Ông cậu Paton lật qua trang và đọc tiếp:
“Thế rồi, bọn lính đánh thuê ra sức phá cánh cổng gỗ sồi lớn bằng một thanh
gỗ có đầu bịt sắt dùng để phá thành. Nhưng một bức màn dơi bổ nhào xuống và làm
mù mắt bọn chúng. Vào cuối tuần lễ thứ mười, ngài Amadis và một trăm chiến binh
của mình rời khỏi toàn lâu đài vào một đêm tối đen như mực và bất ngờ tấn công
bọn lính đang ngủ say của Borlath. Yếu tố bất ngờ giúp cho ngài Amadis được
thuận lợi, nhưng cuối cùng nhúm quân nhỏ của ngài bị bọn chiến binh khát máu
của Borlath áp đảo, chúng là bậc thầy giết chóc, thưởng thức từng mẩu đầu mình
tứ chi bị cắt rời.”
Charlie rùng mình:
“Vậy ngài Amadis có bị giết không?”
“Ngài bị thương nặng,” Ông cậu Paton đáp. “Một mũi giáo cắm trong vai ngài.”
Rồi Ông cậu đọc:
“Hầu hết thuộc hạ của ngài Amadis đều bị giết, nhưng một số sống sót và dìu
hoàng tử trở lại lâu đài và ngài sống... cho đến hồi kết thúc. Có lẽ, trong
thâm tâm, Amadis luôn biết rằng một ngày nào đó Borlath sẽ mò đến tìm mình, cho
nên bên trong lâu đài, ngài đã tích trữ một số lượng thực phẩm và ngũ cốc thật
lớn. Họ cũng đào một cái giếng thiệt sâu. Khi nguồn cung cáp cạn dần, ngài
Amadis nói chuyện với muông thú...”
Ông cậu Paton mỉm cười một mình khi đọc tiếp:
“Một đội quân chuột xâm nhập kho lương thực của Borlath. Bầy sói tấn công
bọn lính canh, chim mổ lủng lều bạt của chúng và đêm đến, đàn dơi lại đến, rú
rít rợp trời khiến cho không sao ngủ được. Cuộc sống bọn lính của Borlath trở
nên không thể chịu đựng nổi. Thời tiết chuyển lạnh. Trời bắt đầu mưa. Bọn lính
đã chịu đựng đủ rồi. Chúng muốn quay về nhà.”
“Và đó là khi Borlath sử dụng đến lửa của hắn, phải không?” Charlie nói.
Ông cậu Paton gật đầu. Ông nhìn xuống cuốn sách.
“Ở dưới chân tòa lâu đài có một bức tường cọc gỗ nhọn dày đặc ở cả bên
trong lẫn bên ngoài. Nhưng xen giữa và nhô hẳn lên trên rừng gỗ ấy là một bức
tường đá màu vàng. Bằng một động tác giận dữ và thèm muốn, Borlath giơ một nắm
đấm của hắn lên và gọi lửa. Những người ở trong lâu đài nhanh chóng bị bao bọc
trong một vòng lửa. Một số người gieo mình khỏi những lỗ châu mai. Nhưng một số
khác dã hoảng sợ khiếp vía trước khi họ leo lên được tới đó. Mọi đàn ông, phụ
nữ và trẻ em, mọi sinh vật trong lâu đài bị tiêu diệt - ngoại trừ một người.”
“Là ai?” Charlie thốt lên, nhảy bật ra khỏi thế giới rực lửa mà Ông cậu nó
vừa tái hiện. “Ý con là làm sao mà có người...”
“Khoan!” Ông cậu Paton ra lệnh.
Charlie im bặt.
“Sức nóng khủng khiếp từ những cọc nhọn cháy khiến cho đá bị nung nóng
thành thủy tinh – nói một cách khác, những bức tường biến thành thủy tinh – một
loại thủy tinh đen, dày.”
Đôi mắt đen của Ông cậu Paton quắc lên sống động:
“Bây giờ mới là phần thực sự thú vị, Charlie. Ta tin là nó nắm giữ manh mối
về nhánh kia của gia đình mày.”
Ông cậu lật một trang sách.
“Trong những chuyến chu du của mình, ngài Amadis đã kết bạn với một thầy
pháp xứ Gan, một ông tên là Mathonwy. Thầy pháp này sống trên lục địa về phía
nam hòn đảo của hoàng tử. Nhưng ngọn lửa do Borlath gây ra dữ dội đến mức nó
chiếu sáng rực cả bầu trời suốt mấy dặm quanh đó. Mây biến thành lửa, chim chóc
cháy thành than, và mặt biển đỏ máu sôi sùng sục như một cái vạc sôi.”
“Từ xa ngài Manthonwy phát hiện ra cảnh tượng ấy. Ngài đoán được chuyện gì
đã xảy ra. Đã quá trễ để cứu người bạn hiền của ngài, Hoàng tử Amadis rồi
chăng? Ngài Manthonwy làm điều duy nhất ngài có thể làm được. Ngài làm cho
tuyết rơi. Một tấm mền tuyết ùa về phía tòa lâu đài đang cháy. Khi tiến tới hòn
đảo thì màn tuyết rơi xuống, và ở nơi nào tuyết chạm tới những bức tường cháy
xém thì nơi đó một chuyện lạ xảy ra. Đá bị nung nóng thành thủy tinh bắt đầu
sáng lóa lên.”
“Một lâu đài thủy tinh sáng lấp lánh,” Charlie nín thở. “Nhưng, Ông cậu
Paton ơi, có gì liên hệ với gia đình con nào?”
“Ngài Manthonwy,” Ông cậu Paton nó cọc cằn. “Nhớ cái tên này trong gia phả
mà ngoại Maisie đã đưa cho mày không? Ông tổ người xứ Gan của mày.”
“Ồ,” Charlie chậm rãi nói. “Nhưng ngày tháng năm không đúng.”
“Cái tên là đủ rồi. Người xứ gan hay đặt tên theo tổ tiên của mình, những
cái tên cứ lặp đi lặp lại.”
“Ồ,” Charlie lại nói, và nhắc đến vị tổ tiên người xứ Gan nó lại nhớ đến
cây gậy phép. “Ông cậu Paton, con làm mất... ông biết đấy... mất cây gậy phép.”
“Cái gì!” Cặp kiếng của Ông cậu Paton trượt xệ xuống chóp mũi.
“Con đã mang nó tới trường. Con thiệt là ngu. Con cất nó dưới tấm nệm giờng
và giờ thì nó mất tiêu rồi.”
“Mày có nghi ai không?!
“Có. Và nếu đó đúng là kẻ con nghi thì chắc chắn con sẽ lấy lại được cây
gậy phép. Thôi, ông kể tiếp câu chuyện đi ạ.”
Ông Paton lắc đầu.
“Thỉnh thoảng, sự cẩu thả của mày khiến ta phải choáng váng đó, Charlie.”
Ông nhìn xuống cuốn sách:
“Những bức tường của lâu đài trở nên trơn láng và sáng chói đến nỗi bọn
lính của Borlath trơ đực ra ngó một đội quân đang nhìn ra chúng. Cảnh tượng mới
kinh hoàng và bi tráng làm sao. Vì tin rằng Hoàng tử Amadis và quân dân của
ngài vẫn còn sống sót trong biển lửa, và như vậy thì thật là siêu phàm, bọn
lính đánh thuê vội tháo chạy ra những thuyền. Duy chỉ có Borlath nhận ra rằng
quân dội sáng chói kia là hình phản chiếu quân của chính hắn, nhưng hắn không
cố chiếm tòa lâu đài nữa. Vì lý do gì đó mà những bức tường gương khiến hắn
khiếp đảm, và cả hắn nữa, cũng rút khỏi hòn đảo.”
“Vậy là tất cả mọi người đều chết trong đó,” Charlie nói. “Ngoại trừ một
người. Chắc hẳn nó giống như một lăng mộ khổng lồ sáng rực rỡ. Con không muốn
là người duy nhất sống sót đó đấu. Người đó là ai vậy ạ. Ông cậu Paton?”
Ông cậu Paton lại tham khảo cuốn sách, lật qua vài trang trước khi tới một
trang ở gần cuối.
“Có một người sống sót, là con trai út của hoàng tử, Owain, tóc trắng,
người được gọi là kẻ bạch tạng, và là người hiểu được ngôn ngữ của chim và thú.
Vì vậy, Owain, không gia đình, không nhà cửa, đã rời khỏi hòn đảo theo lời
khuyên của một con quạ. Và con quạ ấy cùng đi với ngài.”
“Ngài ấy giống Billy quá,” Charlie kinh ngạc nói. “Giống y hệt Billy.”
“Chính xác,” Ông cậu Paton thừa nhận. “Thiệt kỳ lạ là những đặc điểm giống
nhau thình lình lại xuất hiện qua những thế hệ. Rủi qua, sách không nói cậu bé
đó đã xoay xở làm sao mà sống sót được, nhưng để ta đọc đoạn cuối cho mày nghe
vì nó thú vị thật sự: ‘Người ta truyền tụng rằng một trong những người mang
dòng máu của Owain, một ngày kia, sẽ gặp lại hoàng tử Amadis trong Lâu đài
Gương.’”
“Billy?” Charlie nói.
Ông cậu Paton dòm qua cặp mục kỉnh:
“Có lẽ.”
Ông quay lại với cuốn sách:
“Và Owain rong ruổi tới Đế Chế La Mã Linh Thiêng, sinh được hai người con
trai. Người con cả trở thành một học giả...’ – tức là người viết sách, viết tài
liệu hoặc chép lại những bản thảo đấy – ‘... và người con út có thể nói được
ngôn ngữ của chim muông và thú vật. Người con trai này bị xua đuổi khỏi ngôi
làng ông sinh sống vì đã giao du với lũ quạ đậu trên giá treo cổ, nơi hành
quyết tội nhân.’”
Charlie rùng mình:
“Ghê quá. Nhưng tại sao họ lại xua đuổi ông ấy?”
“Vào thời ấy những thói quen lạ lùng thường bị cho là hiện thân của quỷ
sứ,” Ông cậu Paton nói. “Và bây giờ là kết thúc câu chuyên...”
Ông đặt một ngón tay lên đoạn cuối cùng:
“Người con trai cả của ngài Owain được gọi là Crowquill vì ông sử dụng bút
lông quạ để viết những tác phẩm của mình. Và câu chuyện này, theo như tôi được
biết, do một hậu duệ của ngài Crowquill viết vào năm 1655, sau Công Nguyên.”
“Vậy là...” Charlie trầm ngâm nói, “... họ, dòng họ Raven và dòng họ
Crowquill, có mối liên hệ với nhau ngày từ thời đó... Có quá nhiều chuyện lạ kì
xảy ra trong thành phố này, Ông cậu Paton ạ.”
“Đúng vậy,” Ông cậu của nó nói.
“Cứ như là thành phố này đang kéo tất cả bon họ lùi về lại quá khứ, tất cả những
người mà câu chuyện của họ bát đầu ngay tại đây, trên mảnh đất dưới chân chúng ta,
dưới tất cả mọi mái nhà và mọi đường phố và mọi công viên.”
“Kể cả ngôi nhà này,” Ông cậu Paton thêm.
“Kể cả chúng ta. Như những sợi chỉ đang càng ngày càng buộc chặt mọi người
lại với nhau.”
“Mày mới giống nhà hùng biện làm sao, Charlie,” Ông cậu Paton nói, mỉm
cười.
“Hôm nay,” Charlie tiếp, “con đến một tiệm bán hoa và cô bán hàng biết tên
con. Cô ấy đặc biệt quan tâm đến bạn con, Olivia. Nhưng Livvie chức là sẽ không
tới tiệm đó nữa đâu. Nó nói người phụ nữ ấy biết về nó còn nhiều hơn cả nó
nữa.”
“Con bé đó có được ban phép thuật không?”
“Không, Tuyệt nhiên không. Nhưng nó là một diễn viên cực kỳ tài năng. Chỉ
vì nó bị rớt trong kỳ thi thử vai và nó thật sư... con không tể diễn tả được.
Nó hình như là rất khác... cáu bẳn và tuyệt vọng!”
“Coi bộ rắc rối đấy, Charlie.
Phụ nữ tuyệt vọng rất nguy hiểm.”
“Vậy à?” Không cưỡng nổi,
Charlie ngáp một cái. “Cảm ơn Ông cậu đã đọc cho con nghe câu chuyện. Cứ như là
đặt mọi thứ vô một cái khung để có thể nhìn thấy chúng cho rõ hơn vậy. Con thắc
mắc không biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo đây?”
“Ta tự hỏi, Charlie à,” Ông cậu Paton nói. “Ta tự hỏi...”
Ông đóng cuốn sách lại và cẩn thận đẩy nó vô một trong những hốc còn trống
ở trên bàn làm việc:
“Mày nên tìm cho ra cây gậy phép trước khi hoa rơi vào những bàn tay xấu.”
Charlie nghĩ, có lẽ nó đã rơi vào rồi.