Charlie Bone (Tập 4) - Chương 08
Con bướm đêm màu trắng
Manfred Bloor đang mất dần quyền phép. Hắn đã nhận ra điều đó khoảng một
năm nay, kể từ khi Charlie Bone đấu trí chống lạiđượchắn. Charlue đã mường
tượng được những hình ảnh về cha nó, một người đàn ông mà Manfred thấy rất dễ
thôi miên hồi hắn mới chín tuổi. Khi Manfred lên chín, tài phép của hắn đã đạt
tới đỉnh cao; bây giờ chúng đang suy yếu dần.
Không ai đoán được chuyện gì đang xảy ra với hắn. Manfred vẫn có thể khiến
lũ trẻ sợ chết khiếp mỗi khi hắn chĩa tia nhìn gớm ghiếc. Và cuộc thí nghiệm
với con ngựa đã gần như lấy lại được sự tự tin cho hắn, bởi vì chính phần đóng
góp của hắn vào quy trình ấy là thành công nhất. Phải thế không? Hay lại chính
mấy món nước bốc mùi kinh tởm của mụ Venetia Yewbeam đã làm nên chuyện.
Cong một điều nữa. Hiện giờ con ngựa đó đang ở đâu? Và họ sẽ khống chế nó
bằng cách nào đây? Manfred ngầm kinh sợ con ngựa “không chết” đó và trái tim
tàn bạo của nó. Hắn cần một thứ gì đó để tự bảo vệ mình.
Thiệt dễ dàng thuyết phục Billy Raven đánh cắp cây gậy phép của Charlie. Sợ
rằng một cơ hội được hạnh phúc của mình bị vuột mất vào phút cuối, Billy đã tìm
ra cây gậy phép và trao cho hắn.
Mong rằng nhóc Billy được hưởng chút lợi lộc. Bây giờ cu cậu đang bị kẹt
trong Ngôi Nhà Bất Chợt, và cha mẹ tử tế mà nó hằng ao ước không ai khác hơn
lại chính là bọn côn đồ máu lạnh có những quyền phép cực kỳ khó chịu.
“Ô, ngờ nghệch quá chừng chừng,” Manfred hát ư ử khi hắn nhịp bước vòng
quanh văn phòng của mình, xoay xoay cây gậy trắng, thanh mảnh trong tay.
“Và bây giờ là bài kiểm tra. Mày sẽ làm được gì cho tao, hả cây gậy phép bé
nhỏ?”
Hắn nhận thấy một con ruồi đang bò trên bàn làm việc, liền chạm đầu gậy bịt
bạc vô nó.
“Biến thành cóc,” hắn ra lệnh.
Manfred cảm thấy một cơn buốt xé trong lòng bàn tay và hắn buông rớt cây
gậy phép. Con ruồi vẫn cứ là con ruồi. Nó bay lên trần nhà , và đậu ở đó, lộn
ngược, im re. Manfred có cảm giác gớm ghiếc là con ruồi đang cười nhạo mình.
“Biến thành cóc,” hắn hét to, quăng cây gậy phép lên trần nhà.
Khi cây gậy trắng rời khỏi bàn tay hắn, một cơn đau xe thịt chạy dài suốt
cánh tay của Manfred.
“Áááááá!” Hắn hét lên.
Cây gậy phép đụng con ruồi và rớt xuống sàn. Con ruồi, không hề hấn gì, bay
về phía cửa sổ.
“Biến con vật đó thành cóc!” Manfred rú rít, chụp lấy cây gậy phép và liệng
nó về phía cửa sổ . Lần này, cơn đau đục bàn tay hắn tựa như một que cời nung
đỏ. Quả thực, có một vết bầm lớn, đỏ lòm xẹt ngang lòng bàn tay hắn.
Khi Manfred thét rống lên, con ruồi bay vo ve đằng sau tấm rèm, và một lần
nữa, cây gậy rớt xuống sàn nhà. Đến lúc này, Manfred không còn chút nghi ngờ gì
nữa, rằng cây gậy ấy không phục tùng hắn. Thự ra, hắn càng cố sử dụng nó, thì
nó sẽ càng trừng phạt hắn vì đã dám thử.
“Mày... mày...” Miệng nguyền rủa thậm tệ, Manfred vớt cây gậy phép lên và
thảy nó vô sọt rác trống rỗng. Rồi hắn quơ cào tất tần tật đám giấy lộn mà hắn
kiếm được và quẳng vô sọt. Hành động cuối cùng của Manfred là quẹt vài que diêm
và thả chúng vô đống giấy.
Trông lửa bốc lên ống khói thiệt hả lòng hả dạ, nhưng rồi khoảnh khắc kinh
hoàng đến với Manfred khi lửa bắt đầu lan ra căn phòng. Hắn giật phăng chiếc áo
chùng đen đang mặc ra và thảy nó úp chụp lên ngọn lửa, cố dập tắt. Chiếc áo
chùng cháy sém và một làn khói cuộn ra. Ho sặc sụa và ngạt thở, Manfred lảo đảo
chạy tới cửa sổ, mở bung ra.
Đúng lúc đó, ông Tantalus Ebony bước vào phòng, vui vẻ cười rồ rồ:
“Đang âm mưu gì đấy, chàng trai trẻ?”
Manfred quay ngoắt lại, vẫn ho rũ rượi. Hắn chỉ ngọn lửa:
“Cây gây... hụ... hụ.. của Charlie... Tôi... hụ... đốt nó.”
Hắn khạc một tiếng để thông cổ họng, nghe khét lẹt.
“Nó không phục tùng tôi, cho nên tôi kết liễu nó luôn. Ít nhất thì bây giờ
cái thằng oắt ôn dịch đó không thể sử dụng cây gậy được nữa.”
“Ôôôô! Kiềm chế, kiềm chế coi.” Tantalus cười khục khịch. “Cậu sẽ cần phải
học cách kiểm soát chuyện nó không phục tùng cậu, anh bạn cũ của ta à.”
“Tôi không phải bạn cũ của ông” Manfred quặc lại. “và tôi mong ông xác định
được ông là ai.”
“Hôm nay, ta là...” Tantalus dòm trợn trừng lên trần nhà. “Ta là một chút
Vicent Ebony, tên đưa thư – gã ấy gọi tất cả mọi người là bạn cũ của tôi –
nhưng mà ta cũng là một phần ngài hiệu trưởng ham đi bộ, Tantalus Wright. Ta
chưa hề có nhiều niềm vui đến thế này suốt bao nhiêu năm rồi.”
“Tôi hy vọng lão chưa quên tại sao lão lại ở đấy,” Manfred nói ngoa ngoắt.
“Ồ, cái đó!” Tantalus híp đôi mắt chênh nhau của lão lại và liếm đôi môi
mỏng. “Không, ta không quên cái đó.”
Ngọn lửa trong sọt rác, đến lúc này, là một đống tro lập lòe và hai gã đàn
ông nhìn với vẻ thỏa lòng khi những thứ còn lại của cây gậy cháy đen cuối cùng
vỡ vụn ra thành bụi. Một luồng gió thình lình lùa thốc qua cửa sổ để mở, nang
đống tro lên, và một đám mây tro nhỏ xíu bay chấp chới vô phòng. Dần dần, đám
mây xếp thành hình một con bướm đêm màu trắng với đầu đôi cánh mỏng mảnh viền
bạc.
“Bắt lấy nó!” Tantalus rống vang.
Manfred nhảy chồm lên, quá trễ. Con bướm bay dập dềnh qua cửa sổ, theo sau
là một con ruồi bất trị.
Trong phòng tắm nhà số 9 đường Filbert, Charlie Bone mặc đồ ngủ, đứng bên
cạnh bồn rửa mặt, bỗng cảm thấy choáng váng. Toàn thân nó như bị lửa đốt. Bệnh
cúm chăng? Nó cảm thấy một cái gì đó kinh khủng vừa mới xảy ra. Nhưng mà là cái
gì? Lẽ nào một trong những người bạn của nó gặp tai nạn.
Charlie hứng hai bàn tay dưới vòi nước lạnh. Hơi nước bốc lên từ những ngón
tay của nó, như thể chúng là những que cời than đỏ rực.
“Ôi... ôi,” Charlie run bần
bật. “Vụ gì thế này?”
“Gì hả?” Một giọng nói từ
ngưỡng cửa nạt nộ. Nội Bone đứng trợn mắt nhìn Charlie. “Mày chiếm nhà tắm suốt
hai mươi phút rồi. Những người khác cũng cần xài, mày phải biết chứ.”
“Éééé!” Charlie nghiến chặt
hai hàm răng lại khi một làn hơi nước nữa phụt ra khỏi những đầu ngón tay nó.
“Nhưng con bị nóng quá, nội. Coi nè! Hơi nước!”
“Cái xấu xa nó phơi bày ra đó
mà,” nội Bone gầm gừ. “Dẹp cái tay kinh tởm của mày đi chỗ khác”
Charlie rời phòng tắm, vẩy
vẩy những ngón tay bốc khói trong không khí. Nó đi vào phòng ngủ, mở cửa sổ ra
hết cỡ, và chìa hai bàn tay ra ngoài trời mắt mẻ.Đó là một buổi tối kỳ lạ. Một
màn sương mù mùa thu đang quét qua thành phố, làm nghẹt tiếng xe cộ và làm mềm
đi những đường viền của những bức tường và những hàng rào. Không khí ngào ngạt
hương hoa.
Một mảng bụi sáng lấp lóa
trôi từ bầu trời xuống. Khi mảng bụi sà xuống gần hơn, Charlie có thể nhận ra
đôi cánh màu trắng, đầu cánh viền bạc – một con bướm đêm màu trắng.
Sinh vật bé nhỏ đó bay xuống
bàn tay chìa ra của Charlie và đậu lên ngón tay trỏ của nó.
“Chao!” Charlie nói. “Mày
thiệt tuyệt vời.”
Nó đem con bướm vô nhà và để
con bướm bò trên chiếc bàn đầu giờng, tại đây con bướm dang đôi cánh ra và đậu
im lìm. Charlie có cảm giác là con bướm cảm thấy rất thoải mái khi ở trong
phòng nó. Nó nhận thấy bàn tay nó không còn cháy bỏng nữa, và cơn sốt ngây ngấy
của nó cũng đã hết. Nó hoàn toàn khỏe mạnh trở lại.
Trong một ngôi nhà cách không
xa nhà của Charlie, Olivia Vertigo ngồi trên mép giờng, gọt táo. Đó là trái táo
thứ năm nó cố gọt trong ngày hôm ấy. Và lần cố gắng này chứng tỏ cũng chẳng
thành công hơn những lần kia. Mỗi lần nó nghĩ nó đã gọt xong hết rồi, là lại có
thêm một hai phân vỏ táo nữa cần gọt, và dây vỏ táo lòng thòng ra khỏi trái táo
dài ít nhất là một thước.
Đùng đùng nổi cáu, Olivia
quăng con dao và liệng trái táo ngang căn phòng. Nó vùi mặt vô hai bàn tay và
khóc thút thít.
“Chuyện gì xảy ra với mình
thế này?”
Cánh cửa bật mở và mẹ nó nhìn
vô phòng. Cô Vivienne Vertigo (hay Viva Valery trong các bộ phim) dù là một
ngôi sao màn bạc nổi tiếng, nhưng điều này không bao giờ ngăn cô là một bà mẹ
tốt bụng và cảm thông. Cô luôn luôn tìm ra cách giúp đỡ con gái vượt qua những
“cơn buồn vui thất thường” nho nhỏ của nó, nói theo cách của cô. Nhưng tâm
trạng của Olivia trong hai mươi bốn giờ qua sắp sửa hạ gục cô.
“Hoa đẹp lắm, Olivia, cảm ơn
con!” Cô Vivienne nói.
Olivia không nhìn lên.
“Ôi, Livvie tội nghiệp.” Cô
Vertigo lai bên con gái và ngòi cạnh nó, trên giờng. “Mẹ cũng đã rớt đài trong
lần thử vai đầu tiên, con biết không. Đó không phải là vai thích hợp cho con.
Sẽ còn có những cơ hội khác nữa. Con đừng thoái chí như vậy.”
“Con không thoái chí,” Olivia
làu bàu.
“Vậy thì là cái gì?”
“Một cái gì đó xảy đến với con, mẹ à.”
“Con đang lớn đấy cưng.”
“Không phải CÁI ĐÓ!” Olivia hét lên. “Một cái gì đó khác cơ. Nó khiến
con... ôi, con không biết. Con ghét nó. Con không muốn nó xảy ra.”
Cô Vertigo ráng kiềm chế để không làm một cử chỉ bấn loạn. Thay vào đó, cô
nhún vai một cách khiêm nhường nhất và nói:
“Mẹ không hiểu lắm, cưng.”
Olivia buông một tiếng thở dài thượt.
“Khi con về nhà cùng với bó hoa đó, con cảm thấy muốn ăn táo. Vì vậy con
lấy một trái tao từ cái thố ở trong nhà bếp. Nhưng con không thể nào gọt được
nó. Con cố gọt thêm bốn trái nữa. Nhưng... nhưng vỏ táo không bao giờ hết.”
“Sao con không ăn cả vỏ luôn?” Cô Vertigo hỏi. “Nó tốt cho tóc của con mà.”
“Con không thích vỏ táo,” Olivia thét lên, phát khùng vì sự thiếu hiểu biết
của mẹ mình. “Nhưng đó không phải là điểm chính. Tại sao vỏ táo không bao giờ
hết? Con cứ gọt quanh gọt quanh mãi và nó không bao giờ hết.”
Cuối cùng, cô Vertigo nói:
“Những trái táo đó hái từ cây táo ở cuối vườn nhà mình. Trước giờ mẹ chưa
từng thấy có chuyện gì với chúng cả.”
Olivia không nói đến táo nữa...
“Và rồi có hoa.”
“Hoa đẹp lắm,” mẹ nó vọt miệng. “Nhưng con kiếm được chúng ở đâu vậy? Mẹ
nghĩ con ở quán Cà Phê Thú Kiểng cơ mà. Mẹ lo quá khi ông Onimous bảo với mẹ là
con không có ở đó.”
“Đó, điều đó đó mẹ. Những bông hoa đã
tìm con. Có một ngõ hẻm mà trước đây con chưa bao giờ thấy và con cảm thấy con
cần phải đi tới đó. Rồi sau đó con thấy tiệm bán những bông hoa này, tiệm hoa
Thiên Thần. Khi con đi vô, người phụ nữ trong tiệm nói cô ấy biết con, điều đó
đáng sợ quá bởi vì con không biết cô ấy. Tên của cô ấy là Alice Angel.”
“Alice Angel... Alice Angel,”
cô Vertigo từ tốn lặp đi lặp lại.
“À phải,” cuối cùng cô nói. “Alice Angel kết hoa đám cưới, lễ đặt tên
thánh, lễ kỷ niệm. Cô ấy đã trang trí nhà mình trong bữa tiệc đặt tên thánh của
con, Livvie. Mẹ đã không gặp cô ấy kể từ đó, nhưng cô ấy sống ở ngay đằng kia.”
“Đâu?” Olivia nhảy bắn ra khỏi giờng và dõi theo ngón tay mẹ nó chỉ ra cửa
sổ. “Đâu? Đâu?”
“Ở phía bên kia bức tường có một khu vườn. Nó đâu lưng lại với vườn nhà
mình. Cô Alice Angel sống trong ngôi nhà ở đầu kia khu vườn. Ít ra là cô ấy đã
từng sống ở đó.”
“Mẹ, con sẽ tới xem ngay bây giờ.”
“Ừ, Livvie,” cô Vertigo vui mừng tháy gương mặt buồn bã của con gái đã sinh
động trở lại. “Nhưng làm ơn đừng leo tường đấy nhé. Nhà đó giờ có thể là nhà
của người lạ.”
“Không sợ,” Olivia nói rạng rỡ. Nó chạy xuống cầu thang và ào ra vườn.
Một màn sương mù trắng tháng chín phủ trên mặt cỏ và không khí thấm đẫm
hương thơm. Olivia tiến đến bụi cây ở cuối vườn. Nó thấy có bức tường nhô qua
khỏi bụi cây, nhưng trước khi tới được, nó loạc choạc dẫm phải một trái tao
rụng. Gần đó có mấy trái nằm lăn lóc. Đúng hơn, mặt đất rải ác đầy táo. Táo từ
một nhánh cây dài thò qua tường rụng xuống. Cây táo mọc ở bên kia bờ tường.
Olivia lách mình băng qua bụi cây. Nó không đủ cao để nhìn qua được bức
tường, vì thế nó phóng lên và ngồi trên thành tường. Khi thoạt nhìn xuống khu
vườn bên kia , nó cứ ngỡ như bất ngờ có tuyết rơi, bởi vì khu vườn phủ đầy hoa
trắng. Hoa mắc cả lên cây, vương kín những bờ rào và len lỏi trên lối đi hẹp
lát đá. Những cánh hoa trắng rải khắp mọt nơi, tựa hồ như những mảng tuyết.
Cuối con đường, một căn nhà rất xinh ẩn dưới một thảm hoa hồng trắng. Chỉ
trông thấy một cánh cửa lớn và một khung cửa sổ. Ngay cả ống khói cũng chìm
trong những tràng dây leo.
Olivia hầu như không để ý lắm đến quang cảnh lạ kỳ này khi mắt nó hướng tới
một cấu trúc tròn tròn bằng gỗ mà nó phát hiện ra ngay bên trên biển hoa.
Olivia nheo mắt trong hoàng hôn. Đó là một chiếc xe mooc, một ngôi nhà di động
chính cống của dân Di-gan.
Ngay lúc nó, cánh cửa của ngôi nhà mở ra và ánh sáng tràn khắp lối đi. Một
bóng người bước ra. Nhỏ nhắn và rất mỏng mảnh, bóng người mặc áo khoác dài có
mũ trùm và bước lê trên lối đi, đầu cúi xuống và vai rụt lại. Và rồi, bóng
người rời khỏi lối đi và lội qua biển hao cho tới khi đến bên chiếc xe mooc.
Olivia nghe tiếng bước chân cố leo lên những bậc thang gỗ. Nó mở căng mắt và
cúi nhoài xuống bức tường, cố nhìn kỹ xem bóng người lạ là đàn ông hay phụ nữ.
Một giọng cất lên:
“Ngủ ngon nhá, anh yêu.”
Hiện ra nơi ngưỡng cửa của ngôi nhà phủ hoa hồng, một người phụ nữ có mái
tóc bạch kim óng ánh đang đứng. Cô Alice Angel.
“Chúa ban phước cho em!” Hình hài đội mũ trùm đáp lại.
Rồi người đó bước vào trong cái xe mooc và đóng cửa lại.
Cô Alice Angel vẫn đứng tại chỗ một hồi. Và rồi cô gọi:
“Phải cháu đó không, Olivia?”
Olivia giật mình và rớt phịch xuống vườn nhà nó.