Charlie Bone (Tập 4) - Chương 11

NGÔI NHÀ BẤT CHỢT

Charlie chạy gần như hết quãng đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng. Trong túi
quần nó là sợi dây xích cổ con Hạt Đậu và trong đầu nó là một kế hoạch tuyệt
vời. Thành phố đầy những người đi mua sắm ngày thứ Bảy và điều đó làm chậm bước
Charlie.

Nó quẹo vào hẻm Con Ếch cùng lúc với Dorcas Loom và hai thằng anh của con
bé. Albert và Alfred Loom là những thiếu
niên to bè, trông hung hăng. Chúng khoái những trò kiểu như cướp ba lô người ta
đeo sau lưng, hành hạ mèo và ngáng đường những người chơi ván trượt. Chúng cũng
tự hào là chủ nhân của bốn con chó săn - những con vật đã cho chúng được phép
bước vào quán Cà Phê Thú Kiểng. Dorcas thường chờ ở trên chiếc ghế băng ngoài.
Nó sợ thú, và Charlie thường thắc mắc là làm thế nào mà con bé sống chung được
với những con vật hung hãn như vậy – đó là chưa kể tới đàn chó săn.

Với một tiếng “Chào!” thiệt
lẹ, Charlie vượt băng qua anh em nhà Loom và xông vào quán Cà Phê Thú Kiểng.

“Gì vậy, Charlie?” Ông bảo vệ
Norton nói. “Bộ cậu bị một con nhân mã không đầu đuổi hay sao vậy?”

Charlie trông thấy mái đầu
vàng óng của Emma ở xa xa, và để mặc Norton đối phó với bọn nhà Loom, nó lao về
phía con nhỏ. Nó ngạc nhiên khi thấy cái bàn đã đầy kín. Lysander và con vẹt
Homer cũng đã tới. Tancred ngồi kế bên Lysander với một con chuột kiểng của
Gabriel, và Gabriel đang cho con chuột đen Rembrandt của Billy ăn.

“Charlie, ngồi đây nè!”
Fidelio xích ra lấy chỗ cho Charlie, trong khi con mèo điếc của nó bấu chặt lên
vai.

Ngay khi Charlie ngồi xuống,
con Hạt Đậu, nãy giờ ngủ say dưới gầm bàn, liền xồ lên đùi nó, khiến cho cái
bàn nghiêng lệch qua một bên, báo hại mấy chiếc đĩa và ly rớt choang xuống sàn
nhà.

Lập tức những tiếng nhao nhao
nổi lên:

“Cái con chó!”

“Em không điều khiển được nó
sao, Charlie!”

“Đang ăn cái bánh ngon thì…!”

“Tiêu nước ép của tui rồi!”

Trong khi đó Charlie hét ầm:

“Không ai báo cho em biết con
Hạt Đậu dưới gầm bàn hết.”

Gần như ngay tức khắc, anh em
nhà Loom xông vào, gây nên một trận náo loạn ghê gớm hơn nữa cùng với bọn chó
săn. Mấy con chó lớn bắt đầu táp đuổi bất cứ sinh vật nhỏ nào xui xẻo trong tầm
đớp của chúng.

Tiếng huyên náo trong quán Cà
Phê ầm ĩ tới nỗi ông Onimous phải nhảy hẳn lên bàn và quát:

“Im lặng nào! Ở đây không
được phép gây mất trật tự.”

Homer, con vẹt của Lysander
kêu om sòm:

“Nói hay lắm, thưa ngài.”

Nghe vậy, Alfred hét vang:

“Lão mắc chứng gì đó, lão
kia?”

Ông Onimous trợn mắt nhìn thằng
thiếu niên, không tin nổi:

“Cậu nói gì?”

“Tôi nói lão mắc chứng gì
đó?” Alfred lặp lại.

Ưỡn thẳng hết cỡ chiều cao
một thước bốn mươi chín phân (cộng với cái bàn khiến ông cao hai thước hai mươi
ba), ông Onimous đáp:

“Xin các công tử hãy để ý đến
những con thú nhỏ hơn. Các vị thấy chúng mới hoảng sợ làm sao kìa. Lũ chó của
các vị luôn gây hỗn loạn mỗi lần chúng mang các vị vô đây.”

“Không phải bọn này, mà là nó
ấy.” Albert Loom chỉ Charlie. “Nó và con chó vàng hỗn hào kia. Con đó to hơn
đám chó của bọn này.”

Hạt Đậu khẹt một tiếng sửa
nghẹn sâu trong cổ họng và xông vào đàn chó săn, trong khi Homer la quác quác:

“Tống chúng xuống địa ngục
đi!”

Một trận ẩu đả kinh hoàng
diễn ra tiếp sau đó. Thêm vài con chó khác không thể cưỡng lại cũng nhập cuộc
và tiếng tru rít vang lên xé màng nhĩ. Chim kêu inh ỏi bay vút lên trần nhà,
mèo ngao, rắn cuốn, mấy con lừa xéo bừa lên người lạ và một con kỳ nhông chạy
ra khỏi cửa. Những con nhỏ hơn thì lo tìm chỗ núp.

Norton bị cắn tơi bời khi cố
can gián bọn chó, và Charlie bị một con ngựa nhỏ Shetland đang hốt hoảng xô ngã
chỏng vó xuống sàn, vừa lúc nó túm được sợi dây xích cổ con Hạt Đậu.

Bà Onimous nhảy lên bên cạnh
chồng (cú nhảy khiến bà cao tổng cộng hai thước năm mươi lăm phân) và bắt đầu
gõ bang bang một cái hộp thiếc đựng bánh bích quy. Đầu bà bây giờ đang chạm
trần nhà, và ta có thể nghĩ một người khổng lồ như thế có thể sẽ dẹp tan được
bọn tham chiến. Nhưng không phải là hôm nay.

Chỉ có tiếng xe cảnh sát hụ
còi tới gần mới tạo ra chút tác dụng. Ngay khi bọn nhà Loom nghe thấy tiếng
còi, chúng liền lôi lũ chó của chúng ra khỏi cuộc hỗn chiến và tếch khỏi quán
cà phê. Hai phút sau, cảnh sát Wood và cảnh sát Singh có mặt tại hiện trường.
Tới lúc đó, vụ việc mới lắng dịu xuống đáng kể, nhưng ông bà Onimous vẫn còn
đứng trên bàn.

Cảnh sát Singh dẫm rào rạo
lên đống chén dĩa ly cốc bể và nói với ông bà chủ:

“Chúng tôi muốn có đôi lời,
được chứ ông?” Anh ta hỏi. “Nói riêng.”

Ông Onimous nhảy xuống khỏi bàn, và sau khi đã giúp vợ xuống theo phong
cách lịch lãm nhất, họ biến mất vào trong nhà bếp cùng với hai viên cảnh sát.
Norton, với hai bàn tay đang chảy máu đầm đìa, cà nhắc đi theo họ.

“Nghe tiếng còi hụ là bọn Loom chuồn lẹ như chớp,” Tancred nhận xét.

“Mà tụi nó gây ra tất cả vụ lộn xộn này,” Emma thêm. “Thiệt không công bằng.”

Charlie đã xoay sở lôi giật được Hạt Đậu trở lại bàn, và tất cả bọn đều
suýt xoa khen ngợi chú ta can đảm quá chừng. Homer thậm chí còn la lên, “Croix
de Guerre!” mặc dù không đứa nào hiểu câu đó có nghĩ là gì.

“Đó là Huân chương cho lòng dũng cảm của Pháp,” Lysander giải thích, “Nó
học lỏm của mẹ anh đấy.”

Bọn chúng chia nhau chỗ bánh quy còn sót lại trên bàn trong khi chờ ông bà
Onimous xuất hiện trở lại. Chỉ còn vài con thú to mồm hơn vẫn ồn ào, và bây giờ
đã đủ im ắng cho Charlie nghe thấy một tiếng quát rõ ràng và đanh sắc từ đâu
đó. Nó nhìn xuống và thấy một con vịt trắng đang cúm rúm dưới ghế Ema.

“Ra là một con vịt,” nó nói. “Dì của bồ bảo với mình là bồ có một con thú
cưng mới.”

“Nó bay vô sân nhà mình hồi hôm qua,” Emma nói. “Mình gọi nó là Nancy, theo
tên mẹ mình. Mẹ mình mất rồi… bồ biết đấy.”

“Ừ. Đúng là một con vịt rất đáng yêu,” Charlie không thể nghĩ ra cái gì
khác hơn để nói.

Lại không thấy Olivia tới nhỉ?” Fidelio quan sát. “Có chuyện gì với nó vậy,
Em?”

Emma nhún vai:

“Mình không biết. Dạo này nó gần như chẳng nói chuyện với mình gì hết, và
nếu nói thì cũng luôn trong tâm trạng cáu bẳn.”

“Trông nó luộm thà luộm thuộm,” Lysander nói.

“Mà hồi trước nó diện oách lắm,” Tancred rầu rĩ thêm.

Charlie nghĩ đã đến lúc kể cho bọn bạn nghe về cô Alice Angel và cửa hàng
hoa.

“Mình nghĩ Olivia có phép thuật,” Charlie nói. “Nhưng nó không chịu thừa
nhận điều đó. Nó thậm chí còn nghe được tiếng con ngựa ma, và theo như em biết,
thì chỉ những người có phép thuật mới nghe được.”

Fidelio đồng ý. Nó chưa nghe, chưa thấy hay cảm giác thấy con ngựa đó bao
giờ, kể cả khi những đứa khác cúi rạp người xuống né.

“Lysander muốn được biết kỹ hơn về con ngựa ma, vì vậy Charlie cập nhật tin
tức cho Lysander, thêm vào những chi tiết về cuộc thử nghiệm kinh hồn của lão
Ezekiel.

“Một trái tim!” Tancred thốt
lên, khi Charlie kể xong. “Ghê quá!”

“Còn nữa,” không đả động gì
tới ông Christopher Crowquill, Charlie kể tiếp cho bọn bạn về Billy Raven và
những phép thuật đáng sợ của cha mẹ mới của thằng bé.

“Và giờ em sẽ liều thân, có
lẽ là liều luôn cả bọn này, để cố cứu Billy khờ khạo, có đúng không?” Tancred
hỏi.

“Đúng thế,” Charlie nói.
“Nhưng Billy không khờ khạo. Chỉ tại nó gặp xui nhiều quá thôi.”

“Đúng vậy,” Gabriel lầm bầm
một cách nghiêm nghị.

Xem ra đây là thời điểm thích
hợp để nhắc lại cái nút áo. Charlie lôi cái nút áo và chìa ra cho Gabriel, nài
nỉ nó viếng thăm thế giới gương thêm một lần nữa:

“Có lẽ nếu anh nghe lại tiếng
dương cầm, anh sẽ nhận ra bản nhạc. Bất cứ cái gì có thể cho em biết về nơi ấy…
và người đàn ông bị kẹt ở chỗ ấy!”

Gabriel cầm lấy cái nút áo
cùng với một tiếng thở dài, một lần nữa, nó đạt cái nút lên tim. Nó nhắm mắt
lại và cả bọn nín khe theo dõi khi chân mày Gabriel nhướn lên và gương mặt dài
của nó bộc lộ một sự tập trung cao độ. Thỉnh thoảng một cơn rùng mình ập xuống
khắp thân mình Gabriel, và miệng nó hơi giật một cái. Sau năm phút, Gabriel mở
mắt và vứt cái nút áo lên bàn.

“Rachmaninov,” nó nói. “Khúc
dạo đầu cung Đô trưởng. Và đó là một đĩa nhạc - một trong những đĩa nhạc cũ của
năm 78.”

“Còn người đàn ông thì sao?”
Charlie hỏi.

“Toàn bộ gương mặt ông ấy bị
méo mó. Có quá nhiều gương, các chi tiết đều gãy vụn. Xin lỗi, Charlie.”

Nhưng Charlie không quá thất
vọng. Giờ nó đã biết tên bản nhạc. Đó là thứ để mà đi tiếp.

Tiếng chuyện trò trong quán
cà phê chìm xuống thành tiếng thì thào khi cảnh sát Singh và cảnh sát Wood ra
khỏi nhà bếp và đi khỏi. Một loáng sau, ông Onimous xuất hiện và tuyên bố hôm
nay họ đóng cửa. Norton cần được đưa đến bệnh viện để may vết thương và chích
ngừa uốn ván.

“Anh ấy bị lũ chó cắn xé nặng
nề,” ông Orvil nói. “Bọn chó săn!” Ông nhổ nước miếng. “Bọn giết người khát
máu.”

Khi Charlie và lũ bạn đứng
lên ra về, ông Onimous đến bên bàn bọn chúng.

“Xin lỗi, các cô cậu,” ông
nói. “Ngày mai chúng tôi sẽ không mở cửa. Norton đang trong tình trạng tồi tệ
và vợ anh ấy đang quýnh quáng cả lên. Cảnh sát đã cảnh cáo chúng tôi là quán cà
phê tuyệt diệu này phải đóng cửa. Bọn nhà Loom ấy gây phiền toái bất cứ khi nào
chúng tới đây, và mọi người đang phàn nàn.”

“Ông nên cấm cửa bọn chó đó,
ông Onimous,” Lysander nói. “Ba của cháu sẽ khuyên như thế.”

“Ba của cậu có thể là một vị
thẩm phán, nhưng ông ấy không biết gì hết về việc điều hành quán Cà Phê Thú
Kiểng,” ông Onimous nói trang nghiêm. “Tôi không thể lại đi cấm chó, cậu
Lysander à. Chủ nhân cấm thì được, nhưng chó thì không.”

Ông nhoài người xuống bàn và
lượm con chuột đen lên:

“Tôi phải đem nó trở lại nhà
bếp. Nó nhớ Billy kinh khủng, các bạn biết đấy”

“Billy sẽ tới thăm nó ngay
thôi.” Charlie giả bộ tỏ ra tự tin. “Vấn đề là, ông Onimous, cháu cần tìm ra
một nơi gọi là Ngôi Nhà Bất Chợt.”

“Để làm gì?” Ông Onimous hỏi
với giọng nhạc nhiên.

Charlie kể cho ông nghe về vụ
nhận làm con nuôi của Billy. Trong khi lắng nghe, gương mặt tinh anh, đầy râu
ria của ông Onimous trở nên nhúm nhíu lại vì quan tâm.

“Trời! Trời! Thật là quá
đáng,” ông kêu lên. “Thế giới làm sao rồi, đến một thằng bé mà cũng không thể
sống một cuộc sống vô tư? Ngôi Nhà Bất Chợt ấy ở Ngõ Quanh Co, Charlie à. Qua
khỏi nhà thờ lớn ở khu phố cổ. Nhưng coi chừng! Tôi không muốn so gươm với bọn
de Grey đó đâu.”

Cháu sẽ đem theo con Hạt
Đậu,” Charlie nói, tròng sợi dây xích vào cổ Hạt Đậu.

“Không có anh là em sẽ không
đi được đâu,” Fidelio nói.

“Và mình cũng sẽ đi đường
ấy,” Emma nhét vịt Nancy vào một cái giỏ có nắp đậy.

Gabriel, Tancred và Lysander
sống ở đầu kia, trên một ngọn đồi cây cối um tùm gọi là Khu Đồi Cao. Nhưng bọn
chúng đều muốn hể cần giúp đỡ thì liên lạc chúng ngay. Mái tóc vàng của Tancred
bị nhiễm điện đang kêu xèo xèo và từng làn gió nhẹ cứ không ngừng quấn quanh
mắt cá chân cả bọn khi chúng ra tới hẻm Con Ếch.

“Anh cứ thấy rờn rợn về tất
cả những chuyện này,” Tancred nói. “Bảo cứ chực nổi lên, Charlie ạ.”

“Và anh thì cứ muốn gọi tổ
tiên mình,” Lysander bảo.

Khi chúng tới Khu Đồi Cao, ba
thằng lớn quẹo phải, trong khi Charlie, Fidelio và Emma quẹo trái về hướng nhà
thờ lớn. Một lần nữa, một màn sương mù dày đặc lại bắt đầu giăng khắp thành
phố. Nhưng đây không phải là thứ sương mỏng như hồi hôm qua, mà nó giống như
màn hơi nước phả lên từ tít sâu dưới lòng đất - lạnh buốt và báo điềm gở - nó
trì néo mỗi bước chân của ba người bạn mỗi khi chúng tiến gần tới nhà thờ.

Khi đi ngang tiệm sách cô
Ingledew, Emma tạt vào và đặt cái rổ đựng con Nancy lên quầy. Dì nó đang tiếp
một khách hàng, cho nên Emma vẫy tay vui vẻ và nói, “Con về ngay!” rồi lại
phóng ra. Ngay lúc đó, Fidelio chạy ù vào và đặt con mèo già của nó lên nóc rổ.

“Sẽ không lâu đâu ạ,” Fidelio
nói với cô Ingledew đang chẳng hiểu chuyện gì.

Khi Fidelio ra khỏi tiệm, nó
nhận thấy có ba sinh vật rực rỡ đang băng xuyên qua làn sương mù.

“Em có biết là những con mèo
lửa đang đi theo tụi mình không?” Nó hỏi Charlie.

Charlie ngoái ra sau nhìn ba
con mèo chói lói.

“Chắc chắn phải có lý do
chúng mới đi,” Charlie nói. “Chúng luôn có lý do. Hây, chào Dương Cưu! Chào
Nhân Mã... Sư Tử!”

Ba con mèo đáp lại lời chào
của nó bằng những tiếng meo meo thân thiện, trầm sâu. Hạt Đậu hộc lên một tiếng
sửa cảnh cáo nhưng bọn mèo chẳng lấy làm phật ý. Khi đoàn quân nho nhỏ lại lên
đường, đám mèo theo sau ở một khoảng cách kín đáo, dè chừng bản năng tự nhiên
của con chó.

Qua khỏi nhà thờ, thành phố
biến thành một mê trận với những lối hẻm hẹp rí và những bậc thang tối tăm,
nhớp nháp. Những bảng chỉ tên đường nứt vẹo và bạc phếch, một số bảng không thể
đọc được. Để tìm ra Ngõ Quanh Co, Charlie phải đi vào những ngõ hẻm tối nhất mà
nó chưa từng băng ngang bao giờ,

“Nó đây,” Charlie hạ thấp
giọng.

“Một nơi u ám,” Fidelio nhận
xét, thận trọng đi theo sau.

“Có mùi thấy ghê,” Emma nhăn
mũi.

Chúng bắt đầu lần theo lối đi
dốc, thỉnh thoảng vấp nhào phải những bậc cấp đột ngột xuất hiện trong lúc đang
mải căng mắt nhìn xuyên qua bóng tối trước mặt. Con Hạt Đậu bỗng vuột ra một
tràng tru dài, suýt làm đứt thần kinh cả bọn. Lũ mèo bèn phóng vượt lên bọn trẻ
và dẫn đường, bộ lông sáng chói của chúng rực lên trong màn sương.

Sau khi đi qua dưới hai bảng
tên đường gỉ sét, cuối cùng Charlie thấy những chữ NGÔI NHÀ BẤT CHỢT khắc hẳn
vào bảng đá, bên trên một cảnh của cao bằng gỗ sồi.

“Bồ tính sẽ nói gì đây?” Emma
hỏi khi Charlie đưa tay túm cái gõ cửa - một bàn tay to bự bằng đồng.

“Mình sẽ nói ‘Billy đâu?’ Có
lẽ thế là đủ,” Charlie nói.

Tuy nhiên, cuối cùng, sau vài
tiếng gõ, khi cánh của mở ra, khả năng ăn nói của Charlie biến sạch, bởi vì
người đàn ông đứng ngay khung cửa phóng cho nó một cái nhìn dữ tợn đến nỗi nó
ngạt cả thở.

“Muốn gì?” Người đàn ông nói
cụt lủn.

Charlie nuốt nước miếng khan,
và Fidelio nói:

“Tụi cháu muốn đến thăm
Billy, thưa ông.”

“Billy?” Người đàn ông trông
rất tức giận. “Billy?”

“Nó sống ở đây, phải không
ạ?” Emma hỏi.

“Cút đi,” người đàn ông rống
lên.

Lão định đóng sập cửa lại
nhưng Charlie đã đặt chân lên bậc cấp. Đúng lúc đó Hạt Đậu trông thấy một con
mèo đen phóng sượt qua hành lang sau lưng người đàn ông. Sửa lên một tiếng vui
mừng, Hạt Đậu rượt theo con mèo, hoặc đúng hơn là nó mới thử rượt theo, bởi vì
có cái gì đó tông rầm vào mũi nó và xô nó bật nảy trở lại, kêu tru tréo.

“Ông làm gì con chó của tôi
vậy,” Charlie la lên.

Usher de Grey đá gạt bàn chân
Charlie ra và đóng rầm cửa lại.

“Nó ở trong đó,” Emma thì
thầm. “MÌnh chắc chắn nó ở trong đó. Tội nghiệp Billy.”

“Nó ở trong đó, chắc chắn,”
Charlie nói. “Đó là cái lão em trông thấy ở học viện Bloor... cái lão không
thích con nít ấy.”

”Sao?” Fidelio hỏi.

Tiếng tru đau đớn của Hạt Đậu
khiến Billy khó mà suy nghĩ được. Tông mũi vào thứ mà mình không nhìn thấy là
điều rất hãi hùng đối với một con chó, mà Charlie không biết làm sao diễn tả
bằng ngôn ngữ thú vật cho con chó về lực trường. Chỉ có Billy mới làm được điều
đó.

“Em sẽ nghĩ ra cách gì đó,”
Charlie cố tỏ ra vui vẻ.

Cả bọn dùng dằng rời khỏi
Ngôi Nhà Bất Chợt, trong khi Billy vẫn kẹt bên trong, nhưng bọn chúng không thể
làm gì thêm được nữa. Cần phải sắp xếp một kế hoạch khác.

Khi Charlie bước ra khỏi Ngõ
Quanh Co, nó ngoái nhìn lại. Những con mèo lửa vẫn chưa đi. Chúng đang ngồi dàn
hàng ngang bên ngoài cánh cửa Ngôi Nhà Bất chợt, bộ lông óng ánh của chúng sáng
ngời trong bóng tối. Có lẽ chúng có lời giải cho việc đào tẩu của Billy.

Billy đang coi TV thì nghe
tiếng con chó. Mới đầu âm thanh ấy chỉ là một tràng tru đau đớn, nhưng rồi
Billy bắt đầu nhận ra tiếng của Hạt Đậu, và rồi hiểu được lời con chó.

“Cổng ma!” Hạt Đậu sửa.
“Tường nước đá! Tường lửa! Cổng làm đau! Cú lừa con mèo! Ối đau! Charlie, cứu!”

Billy nhảy dựng lên và lao ra
cửa sổ. Tất cả những gì nó có thể thấy qua làm sương dày chỉ là một bức tường
đá xám. Cửa sổ phòng nó bị khoá và nó không cách chi mở ra được. Nó đi dọc lối
đi bên ngoài căn phòng và nhón gót ra chiếu nghỉ. Ngó xuống hành lang, vừa lúc
nó thấy lão Usher de Grey đóng sầm cửa trước lại. Billy chạy trở lại lối đi và
đứng dựa sát vào tường, gần như không dám thở. Charlie ở bên ngoài, nhưng liệu
chuyến thăm của anh ấy có gây rắc rối gì không? Ý nghĩ phải chịu đau đớn thêm
khiến Billy nhắm mắt lại sợ hãi.

“Billy!” Một giọng nhẹ ru.

Billy mở choàng mắt ra và
thấy con mèo đen nhỏ ngay cạnh bàn chân nó.

“Đám bạn,” con mèo nói, bằng
giọng sáng rỡ nhất.

Billy rón rén đi trở vào
phòng, có con mèo theo sau. Không gây một tiếng động nào, nó cẩn thận khép cửa
lại.

“Tội chó bị đau,” con mèo
nói. “Vuốt Sắc phải chỉ cho bạn của Billy thấy nguy. Phải chỉ tường bí mật của
Usher. Làm ơn nói chó là Vuốt Sắc xin lỗi.”

“Nếu gặp lại nó tớ sẽ nói,”
Billy đáp.

“Các bạn tôi đang ở đây,” con
mèo con nói tiếp. “Họ ở lại. Họ giúp Billy đi. Tối nay, Billy phải sẵn sàng.”

“Tối nay?” Billy lắc đầu,
hoảng sợ.

Nhưng vì ước muốn trốn thoát
quá lớn, ý nghĩ về tự do quá cám dỗ, nên nó bật cười to, phấn khích.

“Suỵt!” Con mèo nhắc. “Chưa!”

“Tôi sẽ đi đâu?” Billy hỏi.
“Nếu tôi rời khỏi đây?”

“Các bạn sẽ chỉ cho cậu.”

“Các bạn của mèo là ai?”

“Mèo, dĩ nhiên rồi. Lông đồng, lông cam và lông vàng.”

“Những con mèo lửa!” Billy
thảnh thốt.

“Những con mèo lửa, đúng.
Vuốt Sắc đi đây.”

Billy mở cửa và con mèo đen
bước gọn ra lối đi.`

“Đừng quên,” con mèo nói.
“Tối nay.”

“Làm sao quên được!” Billy
thì thào.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3