Charlie Bone (Tập 4) - Chương 16
BỨC TƯỜNG LỊCH SỬ
Trên bãi biển lấp lánh ánh
sáng trắng bạc, cách xa những rủi ro của bạn bè nó, Charlie thấy mình đang
trong một tình thế hết sức nan giải. Billy đã trở nên giận dữ và sợ hãi khi
nghe câu chuyện về hoàng tử Amadis. Với cái đầu gục xuống và bàn tay thọc sâu
vào túi, đứa con trai tóc trắng dằn bước đi trên bãi biển, đá tung cát bụi và
những vỏ sò. “tại sao anh không nói cho em biết sớm?” nó gào lên ra vẻ buộc
tội. “tại sao anh không nói cho em biết về người giám hộ, quyển sách và những
thứ kinh khủng đã xảy ra ngoài kia?”
“Anh xin lỗi, Billy . Ông cậu
của anh không nghĩ là sẽ an toàn khi cho em biết những điều này. Và rồi, khi
chúng ta gặp hoàng hậu thì có vẻ như mọi thứ đã quá trễ.” Charlie vẫn tiếp tục đưa
mắt trông chừng ra biển. Thủy triều đang lên rất nhanh, và chẳng mấy chốc sẽ
nuốt chửng bờ biển. Chúng đang ở trong một vịnh nhỏ với những bức tường đá cheo
leo ở cả hai bên và một vách đá hầu như dựng đứng đằng sau lưng. Thêm một vấn
đề nữa, làm sao chúng có thể đến được hòn đảo?
Tạm thời phớt lờ Billy,
Charlie bắt đầu tìm kiếm trong những tảng đá và chân vách đá một con thuyền.
Tại sao ở một nơi hẻo lánh như vậy lại có một chiếc thuyền, nó cũng chẳng quan
tâm. Chậm rãi, nước biển từ từ liếm vào bãi cát.
“Charlie !” Billy chợt kêu
thét lên khi nó nhận ra những đợt sóng không ngừng tràn vào bờ. “chuyện gì đang
xảy ra vậy?”
“Thủy triều đang lên.”
Charlie đang xem xét một cái hang sâu. Nó quá tối, Charlie không thể thấy được
nơi nào nó kết thúc. Giá mà nó có cái đèn pin ở đây nhưng nó thậm chí chẳng
mang theo một bao diêm. Một tia sáng nhỏ xíu lướt qua đầu nó và bay chấp chới
về phía sau hang động. Ánh sáng rất yếu, nhưng cũng đủ để cho Charlie khám phá
ra một cái gì đó trông như chiếc thuyền đang nằm nghiêng trên đỉnh một ngọn dốc
đứng. Ánh sáng di chuyển xuyên qua hang động, để lộ ra những bức tường đen thẫm
đang phản chiếu mặt nước.
“Charlie ! chúng ta sẽ làm gì
đây?” giọng Billy run lên hoảng sợ.
“Đến đây giúp anh đi,”
Charlie gọi . “Anh đã tìm thấy một cái thuyền..”
Giây lát sau, Billy đã ở bên
cạnh nó. “Làm sao anh tìm thấy nó?”
“Có ánh sáng,” Charlie nhìn
chăm chăm vào cái hình dạng đang lơ lửng. Nó có đôi cánh khảm bạc, đó là con
bướm trắng.”
“Cây đũa phép của anh,” Billy
nói “trông kìa, nó đang đậu trên một cái gì đó.”
“Một mái chèo,” Charlie hét
lên. “Cả hai cái.”
Nó là một con thuyền nhỏ,
nhưng chúng phải cố hết sức mới đưa được nó xuống cái nền thoai thoải của hang
động và mang ra ngoài bãi biển. Ngay khi chúng tới đó, nước biển đang vỗ bập
bềnh quanh cửa hang.
Cởi giày và tất ra, Charlie
xắn quần lên và bảo Billy cũng làm như vậy.
“Chúng ta đi đâu đây?” Billy
hỏi.
“Còn đi đâu nữa? tới hòn đảo
thôi.”
“Khôôô… ng!” Billy nài nỉ “em
không muốn tới đó. Em sẽ không tới đó đâu. Sẽ có những con ma quanh quẩn ở đó
sau những gì đã xảy ra. Làm ơn đừng bắt em đi mà.”
“Đừng ngốc thế,” Charlie nói
“không có nơi nào khác để đi đâu. Chúng ta sẽ chết chìm mất nếu chúng ta còn
đợi ở đây thêm nữa.”
Con thuyền đã sẵn sàng ra
khơi khi chúng kéo nó xuống bãi biển, và Charlie ra lệnh cho Billy nhảy vào
trong thuyền trước khi quá muộn. Vẫn rên rỉ, Billy bò qua một bên trong khi
Charlie giữ chặt con thuyền, rồi nó cũng nhảy vào. Ngồi đối diện với Billy, nó
sửa lại mái chèo rồi bắt đầu chèo ra xa khỏi vách đá.
“Anh biết chèo thuyền à?” Billy hỏi, vừa thu mình ngồi co ro trong chỗ ngồi
chật hẹp của nó.
“Như một nhà vô địch ấy,” Charlie nói. “Ông cố của anh sống gần biển.”
“Ồ!” Billy kêu lên vẻ ngưỡng mộ.
Thật vậy. Charlie đã trở thành một người chèo thuyền xuất sắc trong suốt những
chuyến viếng thăm biển với ông cậu Palton nhưng nó chưa bao giờ phải chèo qua
một chặng đường xa như chặng đường mà nó đang phải cố gắng vượt qua. Nó chèo
chống lại thủy triều và biển đang trở nên hung dữ. Liên tiếp những đợt sóng
khổng lồ tràn vào mạn thuyền và Billy lại hét lên kinh hoàng. Cố gắng che dấu
nỗi sợ hãi của chính mình, Charlie khuyên Billy nên nhắm mắt lại cho tới khi
chúng được an toàn.
“Chúng ta liệu sẽ an toàn không?” cái giọng thê thiết của Billy bắt đầu
khiến Charlie cáu tiết.
“Nếu em không thể nói ra cái gì hay ho hơn thì ngồi im đi!” nó quát.
Nhận ra rằng cuộc sống của mình đang ở trong tay của Charlie, Billy thôi
không nói nữa. Hai cánh tay của Charlie đau nhức tới nỗi nó những tưởng chúng
sẽ rớt ra trước khi hai đứa nó đến được hòn đảo. Mỗi khi nó ngoái đầu nhìn, thì
cái hình dạng xám xanh với cái vương miện bằng gương ấy trông xa vời hơn bao
giờ hết. Có vẻ như nó đang ngày một xa dần và Charlie bắt đầu nghi ngờ sự tồn
tại của nó. Có lẽ nó chỉ là một ảo ảnh mà chúng không bao giờ tới được – và cái
trò chơi khăm độc ác này đang kéo chúng ngày càng xa khỏi đất liền và chúng
đang tiến vào lòng đại dương mênh mông.
Charlie quyết định sẽ không nhìn lại cho tới khi nó đếm tới năm trăm. Nó
nghỉ ngơi một lát, hít một hơi thật sâu, và rồi nó trông thấy con bướm trắng
đang đậu trên tay áo của nó. Chợt nó nhớ ra rằng cây đũa phép trước kia của nó
cần sự chỉ dẫn, Charlie nói. “Hãy giúp tôi! Hãy giúp tôi!”
Nó không chắc là mình đang mong chờ điều gì, nhưng không có phép màu nào
xảy ra. Những đợt sóng khổng lồ vẫn tiếp tục dội vào thuyền, bắn những giọt
nước tung tóe lên lưng Charlie . Nhưng còn rất lâu trước khi Charlie đếm được
tới năm trăm, con thuyền va vào một tảng đá, và lần này khi Charlie ngoái nhìn
thì chúng đã tới được đó.
Cẩn thận lái thuyền quanh tảng đá, Charlie nhảy ra, hướng dẫn Billy ngồi
cho vững khi nó kéo thằng bé vào dòng nước cạn.
Hai mắt của Billy bây giờ mở to, và nó không thể đợi để được ra khỏi
thuyền. Nó nhảy xuống, bắn nước tung tóe bên cạnh Charlie, nước đã ngập tới
thắt lưng của nó.
Sự vững tâm trở lại khiến hai đứa nói cùng cười khúc khích. Chúng kéo con
thuyền ra khỏi nước, lên một cái bờ đầy cỏ dại, vừa làm vừa cười vang trong khi
vẫn run lên lập cập vì lạnh.
“Chúng ta sẽ hong khô quần áo trong tòa lâu đài,” Charlie nói. “anh không
muốn đến đó chỉ với bộ đồ lót không thôi.”
“Không đâu nếu như nhà vua có ở đó,” nó vừa nhận xét vừa cười.
Giày của chúng đã khô. Mặt đất xung quanh chúng lổn nhổn đầy những đá và
cây kế. Theo cuốn sách của Amadis, cánh đồng quanh lâu đài đã từng là nơi mùa
màng được chăm sóc tốt tươi. Nhưng bây giờ chỉ có những cây cỏ dại mọc cao
ngang thắt lưng, giống như đang đi qua một biển đầy gai vậy.
Mặt đất bắt đầu dốc lên dẫn đến một ngọn đồi đầy đá điểm một vài cái cây
méo mó, dị dạng. Vượt lên trên những ngọn cây là những bức tường bằng gương
sáng chói của tòa lâu đài, chúng cắt vào bầu trời xanh thẳm những điểm nhọn
hoắt và kì dị. Nếu có một cái cửa sổ nào trong tòa nhà bí ẩn kia thì chắc chúng
cũng được làm bằng gương vì không có cái gì trông giống một cái cửa sổ cả.
Hai đứa nó bắt đầu bước đi qua những cái cây đã bị gió vặt trụi lá trong
khi mặt trời sưởi ấm sau lưng chúng và hong khô quần áo. Chúng bước thẳng tới,
ngày một gần hơn, tòa lâu đài đang hiện ra trước mắt, ngày một cao hơn. Charlie
chợt nhận ra là mình đang run rẩy một cách sợ hãi. Một cục gì đó đang dâng lên
chẹn họng nó lại và khiến nó không thể thốt ra lời.
Thình lình, Billy chạy tới tòa lâu đài. Nó chạm vào những bức tường đang
tỏa sáng và nói không ra hơi “nó thật sự được làm bằng gương.”
Charlie đã tới bên cạnh nó. “Nhưng cửa ra vào đâu?”
Chúng sục sạo quanh tòa lâu đài, tìm kiếm đường vào nhưng chỉ thấy bóng
dáng của mình phản chiếu trong gương.
Tòa lâu đài rộng hơn so với tưởng tượng của Charlie rất nhiều. Nó nhận ra
rằng chúng chỉ mới tới được bức tường thành bên ngoài. Bên trong chắc hẳn là
phải có một cái sân lớn và tòa tháp. Nó chỉ có thể thấy đỉnh của tòa tháp cao
vượt lên trên những bức tường.
Chúng sắp sửa trở lại vạch xuất phát ban đầu thì Billy, khi chỉ cách
Charlie vài mét, đột nhiên biến mất.
Charlie nhảy bổ tới và hét lên, “Billy em đang ở đâu vậy?”
“Em ở đây!” một giọng nói vang lại.
Ngay dưới chân nó, Charlie để ý thấy một cái lỗ đã được che phủ một cách
vội vàng bằng những bụi cỏ. Nó quỳ xuống, nhìn vào trong và chỉ thấy bộ mặt
xanh xao của Billy đang mỉm cười với nó.
“Không sao.” Billy nói “có một đường hầm và em đã nhìn thấy ánh sáng ở cuối
con đường.”
Charlie leo vào cái lỗ và trượt vào bóng tối. Thật là một điều phấn khích
khi trượt trên bề mặt láng mướt và sáng lóa, nhưng hạ cánh xuống bằng mông thì
cũng hơi ê ẩm.
“Ối chà!” Charlie đứng dậy và đụng đầu vào trần nhà thấp. “lại ối chà!” nó
đang đứng trong một khoảng trống dưới đất nhỏ xíu vừa đủ chỗ cho hai người.
“Nhìn kìa!” Billy reo lên. “Một
hành lang.”
Charlie quay qua và thấy một
cái khe tối trong tảng đá. Nó cúi xuống và nhìn vào trong. Một con đường hẹp
dẫn đến một tia sáng xa xa. “Đó không phải là hành lang, đó là một đường hầm.”
“Cũng vậy thôi.”
“Không giống. Chúng ta sẽ
phải bò đi.”
“Vậy thì bò thôi.” Billy quỳ
gối xuống và bắt đầu bò dọc theo đường hầm. Vẻ miễn cưỡng khi phải đến tòa lâu
đài này đã biến mất. Bây giờ trông nó còn phấn khích hơn Charlie nữa.
Chúng đang đi được nửa đường
hầm thì Charlie bắt đầu nghe thấy âm thanh của tiếng đàn piano. Tim nó đập
nhanh hơn, tuy thế nó vẫn ngập ngừng khi treo ra khỏi đường hầm. Có lẽ nó e
ngại những gì nó sẽ phải thấy. Khi đã ra khỏi bóng tối, nó nhận ra mình đang
đứng ở một cái sân rộng lớn, được bao phủ bởi những viên đá đang tỏa sáng.
Tiếng nhạc phát ra từ tòa tháp vuông ở chính giữa. Một dãy cầu thang hẹp dẫn
đến vòm cửa trong tòa tháp; cả cánh cửa và những bậc thang đều được làm bằng
những tấm kính màu đen thô cứng.
Những bậc cầu thang cứng như
giấy nhám và rất dễ trèo. Billy đi trước và khi chúng lên đến đỉnh, nó gõ cửa
một cách lịch sự.
Tiếng nhạc ngừng lại nhưng
không ai xuất hiện. Charlie cẩn thận đẩy cửa vào. Hai đứa nó cùng bước vào căn
phòng ấy.
Cái nhìn đầu tiên của Charlie
đối với người đàn ông ở bên trong đưa lại một cảm nhận dễ vỡ, bởi vì căn phòng
được xây bởi những tấm gương mờ hình chữ nhật và người chủ nhân đang đứng đàng
sau Charlie. Rất chậm, Charlie quay lại. Nó thấy một người đàn ông tầm thước
với mái tóc đen và đôi mắt to màu xanh lá cây. Ông có một chiếc mũi khoằm dài
và một cái miệng rộng. Nước da tái như thể ông đã ở trong ngôi nhà này lâu lắm
rồi. Có điều gì đó quen thuộc về người đàn ông này khiến cho Charlie khấp khởi
hy vọng.
Người lạ cười thăm dò “các
cháu mang cho tôi cái gì?” ông hỏi.
“KKhông có gì ạ” Charlie bối
rối “ông đang mong chờ điều gì à?”
“Đôi khi họ gửi đồ ăn.” Người
đàn ông ngồi xuống một cái ghế ọp ẹp và thở dài. “Một cậu con trai hay mang
thức ăn đến từ đất liền.”
Biết rằng cha mình đã mất trí
nhớ, Charlie hỏi , “họ gọi ông là gì?”
“Tôi được gọi là Albert
Tuccini nhưng mà tất nhiên đó không phải là tên thật của tôi.”
“Ông… ông biết tên thật của
mình sao?”
Albert Tuccini lắc đầu. “Có lẽ là không.”
Charlie bước lại gần người đàn ông. “Cháu nghĩ là cháu biết ông.”
Người đàn ông gật đầu. “rất nhiều người biết tôi. Tôi là một người chơi đàn
piano nổi tiếng.”
“Vậy tại sao ông lại ở đây?” Billy hỏi.
“À,” Albert Tuccini đặt một ngón tay lên môi. “Tôi ở ngoài sẽ không an toàn. Tôi không thuộc về nơi
đây, cháu thấy đầy. Tôi đã mất tổ quốc, gia đình và tên thật của tôi nữa.”
Charlie nghĩ nó nhận ra cách
phát âm mang hơi hướng nước ngoài trong lời nói của Albert nhưng nó tự nhủ rằng
điều này có thể được giải thích vì người đàn ông này không biết mình là ai. Nó
tiến tới Albert Tuccini và chạm vào vai ông. “cháu nghĩ tên thật của ông là Lyell
Bone. Có lẽ cháu có thể giúp ông nhớ lại.”
“Cái gì?” một tia hy vọng lóe
lên trong đôi mắt xanh buồn bã.
“Cháu nghĩ tên của ông là
Lyell Bone”
“Lyell Bone,” người đàn ông
lặp lại. “một cái tên hay đấy chứ.”
“Và cháu là Charlie, con trai
của ông,” Charlie nói trong hơi thở dồn dập.
Billy kéo lại cổ áo. “Anh
không biết điều đó có phải hay không.” Nó nói nhỏ.
“Anh biết” Charlie nói. “Và
anh chắc chắn điều đó.”
Người đàn ông trông hết sức
bối rối. “con trai?” ông nói một cách nghi ngờ. “không thể nào.”
“Có thể chứ.” Charlie hét
lên, hoàn toàn bị thuyết phục rằng đây thật sự là cha nó. “và bây giờ con đã
tìm thấy ba, mọi chuyện rồi sẽ ổn. Con sẽ đưa ba về nhà, ba sẽ gặp lại ông cậu
Palton. Ba nhớ ông ấy chứ? Palton Yewbeam.”
“Palton ?” người đàn ông lặp
lại. “Tôi nhớ Yewbeam. Đó là bà cô Yewbeam đã mang tôi đến đây. Bà cô Eustacia
Yewbeam. Đôi khi bà ấy cũng mang thức ăn cho tôi nữa.”
“Tất nhiên rồi!” Charlie quá
phấn khởi tới nỗi nó khó mà có thể giữ yên lặng. “có tới ba bà cô Yewbeam. Họ
là những bà cô của con, và con biết là chính họ đã làm cho ba biến mất.”
Người đàn ông nói, “ừm, ừm.”
rồi lắc đầu. “Gọi tôi là Albert được không? Tôi đã quen với cái tên đó rồi.”
“Chỉ bây giờ thôi đấy.” Charlie đồng ý.
Billy đột nhiên lên tiếng, “em không thể sống ở đây được! nhà Yewbeam sẽ
đến đây.”
Charlie nhận ra hoàn cảnh của Billy tệ hơn bao giờ hết. “Chúng ta sẽ tìm
một nơi khác,” nó bảo Billy “ngay khi chúng ta có thể.”
Nhưng khi chúng đang nói chuyện, thời tiết bỗng nhiên thay đổi một cách đột
ngột. Gió từ hướng bắc bắt đầu rít lên xung quanh lâu đài, những trận mưa đá
đập lên những bức tường bằng gương. Một cuộc hành trình qua biển lúc này thật
là nguy hiểm. Họ sẽ phải đợi cho tới khi cơn bão đi qua.
Albert đề nghị nấu cho bọn trẻ một bữa ăn. Nhấc cái nắp của một cái rương
lớn làm bằng gỗ sồi, ông lấy ra vài cái hộp và trút vào một cái chảo. Một cái
bếp nhỏ ở trong góc phòng và Albert bắt đầu nấu ăn. Sau đó Billy và Charlie
được trao cho hai cái tô đậu rang và hai cái thìa.
“Tôi sẽ ăn bằng chảo,” người chủ nhà vui vẻ chọc cái thìa làm bằng gỗ vào
phần đậu còn lại. “thức ăn trong hộp có thể rất ngon mà, phải không?”
“Vâng” Charlie nói, tự hỏi là cha nó có phải toàn ăn đậu để sống không.
Hai đứa con trai ngồi trên một cái chiếu rơm bao phủ một phần nền nhà bằng
gương thô cứng. Tuccini ngồi trên một cái ghế duy nhất. Trong khi ông dùng bữa,
Charlie nhìn quanh căn phòng bằng gương. Nó được trang bị đồ đạc hết sức sơ
sài. Sát tường là một tấm nệm với đống chăn trên đó. Một cái túi đã cũ nằm bên
cạnh cái nệm, và Charlie cho là nó chứa toàn bộ gia tài của người chủ, bởi vì
ngoài những thứ đó ra chẳng còn gì cả, trừ một vài cuốn sách, vài cái đĩa và
thìa, một đống tạp chí trên cái bàn tròn. Bên dưới cái bàn là một cái tô lớn,
một cái bình và một vài cái hũ nhỏ. Một cái máy hát đã được đặt trên nền nhà
ngay bên trong cánh cửa.
Ở phía bên cánh cửa, một dãy cầu thang dẫn lên phía trên tòa tháp. Billy đã
ngó chăm chăm những bậc thang này khi nó đang ăn; thật ra, nó không thể rời mắt
khỏi chúng. “Chúng dẫn đi đâu vậy?” nó hỏi, nhìn về phía các bậc thang.
“Chúng dẫn đến bức tường lịch sử,” Albert nói, “tôi đã đến đó nhưng không
tìm hiểu được gì thêm. Đôi khi, tôi nghe tiếng người ta ca hát, cười nói những
lời mà tôi không hiểu và những âm thanh mà tôi không muốn kể.”
“Hồn ma à?” Charlie hỏi.
“Có lẽ thể.” Albert nói, vẻ lảng tránh.
“Cháu muốn đến đó,” Billy nói.
Nhưng khi họ vừa ăn xong, những đôi mắt bắt đầu nhắm lại và chẳng mấy chốc
chúng thiếp đi.
Khi Charlie thức dậy, căn phòng bằng gương đang phản chiếu lấp lánh ánh
nến. Nó đang nằm trong chăn với Billy bên cạnh, vẫn còn đang ngủ.
“Cháu đã rất mệt, phải không,” Albert nói, nhìn xuống Charlie . “Chắc là
cháu đã đi một quãng đường rất dài.”
“Vâng, rất dài.” Charlie nói. “con sẽ kể cho ba nghe nếu ba muốn.”
“Tôi thích lắm. Thật là tốt khi được nghe tiếng người.” Albert đến ngồi bên
mép chiếu.
Trước khi Charlie mô tả về chuyến hành trình của nó với hoàng hậu Berenice,
nó cảm thấy nên kể sơ về những đứa con của vua Đỏ và học viện Bloor. Albert hơi
quay đầu đi khi Charlie đề cập đến nhà Bloor, như thể cái tên ấy làm ông rúng
động. Nhưng sau đó, ông chăm chú nghe Charlie kể chuyện và nhìn nó với một sự
tập trung rất ân cần.
“Con nghĩ là nó hơi khó tin một chút,” Charlie nói khi nó kể đến chỗ con
bướm trắng đã phát hiện ra cái thuyền.
“Chẳng có gì là khó tin với một người đã không thể nhớ về cuộc sống của
chính mình,” Albert nói với một nu cười buồn bã. “nhìn kìa, đó là con bướm
trắng của cháu.”
Charlie nhìn thấy con bướm đang đậu gần mái tóc trắng của Billy.
“nó ở đó khi các cháu đang ngủ,” Albert nói với Charlie , “như một người
bảo vệ vậy.”
Billy thức dậy và tự động đi tìm cặp mắt kín. Nó gần như không thấy gì nếu
không có kính và nó luôn cảm thấy mất bình tĩnh nếu cặp kính chưa được đặt chắc
chắn lên mũi nó.
“Em nghĩ là em đang mơ,” Billy ngồi dậy “nhưng tất cả đều là sự thật phải
không?”
“Đúng thế. Chúng ta đang ở lâu đài gương,” Charlie nói.
Billy lập tức tìm kiếm cầu thang cạnh cửa. “Và em đã đi lên đó phải không?
Thật sự em có cảm giác là em phải đi tới đó.” Nó ném cái chăn qua một bên và đứng
dậy, vẫn nhìn chằm chằm vào cái cầu thang. Chúng hút lấy nó như một thỏi nam
châm.
“Anh sẽ đi với em,” Charlie nói.
Albert trao cho Billy một cây nến vốn được cắm rất nhiều trên những cái hộp
rỗng quanh phòng. “cháu sẽ cần cái này đấy,” ông bảo. “trên đó tối lắm.”
“Tổ tiên của cháu sống ở đây.” Billy nói một cách tự hào, “và anh Charlie
nghĩ là cháu có thể tìm thấy họ. Ngày hôm qua cháu đã rất sợ hãi nhưng bây giờ
thì không như vậy nữa đâu.” Nói rồi, nó dậm bước lên cầu thang và bắt đầu leo
lên. Charlie chậm rãi bước theo sau.
Những bậc thang được sắp xếp gập ghềnh và thô nhám dưới chân. Charlie thấy
chúng rất khó trèo. Cầu thang xoắn lên phía trên và càng ngày càng trở nên dốc
hơn và hẹp hơn. Billy đã đi khỏi tầm mắt nhưng Charlie có thể nghe tiếng bước
chân của nó đang gấp gáp tiến lên trên tòa tháp. Ánh sáng của cây đèn cầy trở
nên yếu ớt khi Billy dẫn đầu. Chẳng mấy chốc, Charlie chỉ có thể nghe tiếng
bước chân của Billy dẫn đường cho nó. “Billy anh không thấy gì hết!”. nó hét
lên.
Billy đã đi đến bức tường lịch sử. Nó không nghe tiếng Charlie hét bên
dưới, và Charlie phải dò dẫm tìm đường lên các bậc thang và vào căn phòng kì lạ
phía trên cùng. Ở đây, những ô cửa kính tạo nên bức tường đang phản chiếu cái
đầu tóc trắng và cặp kính cận lấp lánh của Billy, và ánh sáng từ cây đèn cầy
đang nhảy múa khắp mọi nơi. Khi Charlie đứng bên cạnh đứa thằng bé, hình ảnh
phản chiếu của nó trông mờ ảo, mơ hồ.
“Họ đang đến đấy,” Billy thì thầm. Nó đứng đó, mê hoặc, nhìn trừng trừng
vào bức tường kính.
Charlie bắt đầu nhận ra những hình dạng không rõ ràng đang trôi dật dờ đằng
sau hình ảnh phản chiếu của Billy . “em thấy gì?” nó hỏi khẽ.
“Mọi người,” Billy thì thào, “cả một gia đình. Một người đàn ông đang mặc
bộ áo giáp nhưng không có mũ sắt. và một phụ nữ tóc vàng đang cười. Họ đang
ngồi quanh một chiếc bàn và đang ăn uống – có lẽ họ đang có yến tiệc. Họ đói
nhưng rất vui vẻ. Một trong số họ trông rất giống em. Anh có nghe không,
Charlie?”
“Không. Chẳng nghe thấy gì cả.”
“Em có thể nghe thấy những cái tên. Và có ai đó đang hát.”
“Tên gì?” Charlie hỏi.
“Người phụ nữ tóc vàng gọi người đàn ông là Amadis – và bà ấy gọi đứa con
trai trông giống em là Owain. Và rồi Amadis nói, “hát lại đi, Amoret. Anh thích
bài hát đó.”
“Amoret !” Charlie kêu lên.
“Suỵt! anh làm họ sợ biến đi mất.”
“Amoret ?” Charlie nói, hạ thấp giọng xuống. “Em có chắc là ông ta nói là
Amoret không?”
“Vâng,” Billy thì thầm. “Người phụ nữ đang hát là Amoret. Bà ấy có mái tóc
đen và rất xinh đẹp.”
Charlie nhìn trừng trừng vào bức tường lịch sử, trừng trừng, mong muốn gặp
một người nào đó, một người nào đó mà có thể kéo nó vào. Cuối cùng, nó bắt đầu
nghe thấy tiếng hát xa xa và nó thấy mình đang trôi bồng bềnh tới một khuôn mặt
xanh xao được đóng khung bởi mái tóc đen quăn.
“Charlie !” Billy hét lên “không phải anh đang định đi vào trong đó chứ?
Đừng! Đừng! Anh sẽ không bao giờ ra ngoài được đâu.”