Charlie Bone (Tập 7) - Chương 06
Quán cà phê thú kiểng bị đóng cửa
Thật lâu sau khi những người bạn
thân thiết ra về, Charlie vẫn đi lẩn quẩn quanh nhà. Lên rồi xuống cầu
thang, vô rồi lại ra khỏi phòng nó, nó lại lọ mọ chui xuống tầng
hầm, ở đó nó nhìn trân trân vô hình ảnh Hạt Đậu, những mảng lông
trắng chen lẫn mảng lông nâu vàng, cái mũi đen bóng và đôi mắt nâu
vàng mang vẻ hờn trách đang nhìn xoáy vô mắt Charlie.
“Tao đang tìm cách đưa mày thoát
khỏi đó, Hạt Đậu,” Charlie lảm nhảm, nhưng dù cố hết sức nó vẫn
không thể chạm tới con chó bị kẹt ở xứ Badlock, một nơi xem ra thậm
chí không tồn tại ở thế giới thực. Ai đó đã tạo ra một thanh chắn
giữa Charlie và sinh vật đáng thương mà nó đang tha thiết muốn cứu.
Charlie biết thừa kẻ đó là ai, bởi vì nó đã gặp bức tường không
thể nào xuyên qua được như thể bất cứ khi nào nó cố đi vào bức chân
dung Vua Đỏ.
Ông cậu Paton đã rút lui vô phòng
riêng để nghiền ngẫm vấn đề. Theo ý kiến của ông thì Billy Raven mới
là đứa giải tỏa được sự huyền bí của câu chuyện Hạt Đậu bị giam
hãm. Rất có cơ hội thằng bé bạch tạng này sẽ bằng cách nào đó
liên lạc được với con chó trong bức tranh.
Nhưng Billy đang bị nhốt trong học
viện Bloor và chẳng có cơ may nào được thả ra vào cái giờ muộn màng
ngày Chủ Nhật như thế này. Họ đành phải đợi đến cuối tuần sau, khi
Charlie chắc chắn sẽ đưa Billy về cùng.
“Một tuần là quá dài,” Charlie
thất kinh kêu lên khi nghĩ tới Ngón Cái Dị và cái thói khoái thịt
chó của hắn.
Ngoại Maisie bật tivi nhà bếp
lên, vẻ mặt vốn thường vui vẻ của bà hằn những nếp lo âu. “Giờ chúng
ta không thể làm gì được, Charlie à. Cho nên chúng ta cố phải mà vui
lên thôi,” bà nói.
Charlie không thể đồng tình với
và. Nó định trở xuống tầng hầm lần nữa thì nội Bone đi xuống cầu
thang, diện đồ là lượt để đi ăn tối với các bà em. Charlie đứng bên
cánh cửa tầng hầm, nhìn cái dáng cao lớn đi hùng hổ về phía cửa
trước. Dù biết là vô ích nhưng Charlie vẫn không kìm nổi, phải hô
tướng lên.
“Nội ơi! Làm ơn, làm ơn đi, bà
có biết tại sao con chó của bạn cháu bị khoá ở trong bức tranh đó
không?”
Nội Bone lừng khừng.
Charlie bước về phía mụ. “Nếu
nội biết tại sao việc đó xảy ra thì nội làm ơn nói cho cháu biết
cháu có thể mang Hạt Đậu ra khỏi đó bằng cách nào được không?”
“Tao hy vọng mày đã làm xong bài
tập về nhà của mày. Ngày mai đi học rồi.” Mụ xoay cái nắm cửa.
“Làm ơn đi nội!” Charlie năn nỉ.
Không nói thêm lời nào bà nội
nó mở cửa trước bước ra, để mặc gió đông đóng sầm cửa lại đằng
sau.
“Cảm ơn nội!” Charlie lầu bầu.
Nó vừa mới bước được và bước
xuống tầng hầm thì chuông cửa reo. Nội Bone quên chìa khóa ư? Charlie
cố làm ngơ tiếng chuông, nhưng nó vẫn reo điên cuồng. Dù là ai gọi, thì
ngón tay người đó dính hẳn vô cái chuông luôn và học không buông tay
đến chừng nào có người ra mở cửa.
Charlie lê bước trở lại cửa
trước. Hầu như nó chi vừa xoay nắm cửa thì một phụ nữ nhỏ bé tóc
nâu trong bộ com-lê vải tuýt và mũ lưỡi trai đàn ông đã xông ào vô
hành lang. Charlie nhận ra ngay mẹ của Benjamin, cô Brown.
“Charlie, ông cậu của cháu đâu?” Cô
Brown hỏi.
“Ông ấy bận ạ.” Charlie biết ông
cậu Paton ghét bị quấy rầy vào lúc sẩm tối, khi tất cả đèn đóm
sáng lên. “Nếu về Hạt Đậu…”
“Dĩ nhiên rồi!” Cô Brown nói to.
“Cháu đã làm gì thế? Benjamin âu sầu không nguôi…”
“Cháu biết…” Charlie gật đầu.
“Cháu không biết, Charlie Bone,
chứ biết thì cháu đã không làm thế.”
“Nhưng cháu…”
“Ông Paton!” Cô Brown gọi lên lầu.
“Tôi biết ông ở trên đó. Tôi thấy nến sáng ở cửa sổ phòng ông. Tôi
phải nói chuyện với ông.”
Một cánh cửa bật mở và ông cậu
Paton xuất hiện nơi đầu cầu thang. “Gì thế, Patricia?” Ông cậu nói hơi
cộc.
“Gì ư? Ông biết rõ còn gì,” cô
Brown hé to. “Ông nhốt con chó của Benjamin ở đây và chúng tôi muốn
lấy lại chó.”
“Chính xác nó không ở…” Charlie
cố giải thích cho cô.
Rõ ràng, cô Brown coi như Charlie không
có mặt ở đó. “Im coi,” cô nói. “Cô đang nói chuyện với ông cậu của
cháu. Hạt Đậu đâu? Tôi muốn thấy nó.”
“Nếu cô khăng khăng.” Ông cậu Paton
trở vô phòng ông và trở ra với một ngọn nến cầm theo. “Vui lòng đừng
bật đèn,” ông nói khi đi xuống cầu thang.
“Điều đó có mơ tôi cũng chả
dám,” cô Brown nói.
Ông cậu Paton dẫn cô xuống tầng
hầm, trong khi Charlie lúp cúp theo đuôi cách vài bước. Vừa trông thấy
hình vẽ Hạt Đậu đang tru không thành tiếng trong cảnh thê lương ác
mộng, cô Brown rú lên và chắp hai tay vào nhau.
“Chuyện gì thế?” Cô thở hốc.
“Benjamin kể không mạch lạc. Tôi không hiểu nổi nó nói gì.”
Charlie bắt đầu giải thích và
lần này cô Brown cho phép nó kể hết câu chuyện hoặc ít nhất là hết
phần có Hạt Đậu. Charlie bỏ hầu hết về các chi tiết về xứ Badlock
và không nói rõ người đã cứu nó là một ông khổng lồ.
“Mọi người định sẽ làm gì?” Cuối
cùng cô Brown hỏi. “Làm sao mang con chó của chúng tôi ra khỏi đó?”
“Tôi hy vọng cô giúp đỡ Patricia,”
ông cậu Paton gượng gạo. “Cô là thám tử tư.”
“Đừng khiếm nhã thế ông Paton,”
cô độp lại. “Tôi không thể đối phó với… với tất cả những thứ ma
thuật đó. Ối, đôi lúc tôi nghĩ giá như Charlie và Benjamin đừng bao
giờ là bạn. Đáng ra tôi không nên để việc này tiếp diễn, một khi tôi
biết Charlie rất… khác.”
Ông cậu Paton trừng mắt ngó cô.
“Cô để chúng làm bạn với nhau là vì bà Maisie chăm sóc con trai cô
trong khi cô lang thang khắp đất nước cải trang thành Sherlock Holmes.”
Ông bước nhanh khỏi bức tranh và bắt đầu leo lên cầu thang. “Đi,
Charlie.”
Charlie im thít đi theo.
“Xin lỗi,” cô Brown nói theo, loáy
hoáy bước sau hai ông cháu. “Lẽ ra tôi không nên nói những điều đó.
Chỉ tại tôi lo lắng cho Ben.”
Ngoại Maisie nhảy bổ ra khỏi nhà
bếp và nhẹ nhàng mời, “Cô uống chút cà phê nhé, cô Trish?”
Cô Brown liếc nhìn gương mặt lạnh
lùng của Ông cậu Paton.”Tôi… à, vâng. Hay quá. Nếu chúng ta có thể
bàn luận sự việc một cách bình tĩnh hơn…”
Ngoại Maisie đã thắp vài ngọn
nến và nhà bếp lung linh ánh sáng thân thiện. Một đĩa bánh quy sô-cô-la
mời gọi đặt ở trên bàn và ông cậu Paton mềm lòng phải ở lại cùng
cô Brown và ngoại Maisie. “Mặc dù tôi thích cô-ca và cà phê hơn,” ông
nói.
“Con cũng thế,” Charlie bảo.
Bầu không khí căng thẳng dịu đi
một chút, nhưng cô Brown dường như không thể tống khứ được nỗi lo lắng
cứ nhíu lại ở trước chán cô. “Đáng ra tôi phải quen với việc này,”
cô nói. “Tôi biết thành phố này khác với những nơi khác. Tôi biết
nhà cửa nơi này được xây dựng trên những chiến trường cổ xưa và tại
những địa điểm tràn ngập ma thuật khi trời tối. Tôi biết có những
việc xảy ra không ai giải thích được, những bí mật mà đến cảnh sát
cũng không muốn dây vào để giải quyết, những tội ác mà họ không dám
công bố. Và đôi khi, thật là nỗi ám ảnh cho những người bình thường
như tôi, như anh Brown nhà tôi và… Benjamin. Nhưng cứ có gì đó cứ giữ
chân chúng tôi ở thành phố này. Tôi nghĩ đó là bởi vì bất chấp mọi
việc, chúng tôi cảm thấy ở đây có một đấng hào hiệp tốt bụng vô
cùng.”
“Vua Đỏ,” Charlie nói khẽ. Cảm
thấy mắt mọi người đang nhìn mình, một cách có ý thức, nó nói
thêm, “Ngài vẫn còn ở đây.”
“Ý con muốn nói là linh hồn của
ngài chứ gì, Charlie,” Ông cậu Paton đỡ lời.
Charlie lắc đầu. “Không, còn hơn
thế. Con đã nhìn thấy ngài. Con đã bảo với ông rồi, Ông cậu Paton:
một hiệp sĩ cài lông chim đỏ trên mũ giáp, ngài mặc áo chùng đỏ và
phi một con ngựa trắng. Ngài đã cứu con, hai lần.”
Trong một lúc không ai nói gì.
Thậm chí cả Ông cậu Paton cũng không thể tìm ra lời lẽ giải thích
về Hiệp sĩ Đỏ, nhưng cuối cùng ông bảo, “Đó không phải là Nhà Vua
đâu, Charlie.”
“Thế thì là ai?” Ngoại Maisie
hỏi. “Ai mặc như thế, lại cưỡi ngựa trắng phi trong đêm?”
Ông cậu Paton nhún vai. “Cái đó,
tôi không biết.”
Cô Brown đứng dậy, đội mũ vô.
“Tôi đến đây vì con chó. Nhưng giờ tôi thấy hoang mang hơn bao giờ hết.”
“Charlie nghĩ Billy Raven có khả
năng giúp,” ngoại Maisie nói.
“Billy Raven?” Cô Brown nói sẵng.
“Làm sao thằng bé có thể… á, dĩ nhiên, nó có thể liên lạc được
với…”
“Thú vật,” Charlie nói hớt.
“Cháu nghĩ nó có thể hiểu Hạt Đậu đang cố nói gì với chúng ta.
Nhưng chúng ta phải đợi đến cuối tuần sau.”
Cô Brown thở dài. “Nó là hy vọng
duy nhất của chúng ta. Đành vậy. Tôi về thì hơn. Tôi nghĩ ngày mai
Benjamin có thể đi học nổi.” Cô thảy ánh mắt giận dữ lần cuối cùng
vô Charlie trước khi ai đó nói thêm lời nào và đùng đùng bước ra.
“Tôi quên không hỏi tại sao cô ấy
mặc đồ đàn ông,” Ông cậu Paton nói.
“Tôi cũng quên,” ngoại Maisie bảo.
Charlie lên lầu gói ghém đồ đạc
ngày mai đi học. Một tuần ở trường nội trú có nghĩa là nó phải
mang đồ ngủ, khăn tắm và quần áo sạch. Tai họa cho đứa học trò nào
quên mang bàn chải đánh răng. Bà giám thị, bà cô Lucretia của Charlie,
sẽ phạt cấm túc đối với mọi sự sơ suất nhỏ nhất.
Vào sáng thứ Hai, chiếc xe buýt
chở học sinh màu xanh da trời đón Charlie ở đầu đường Filbert. Nó mặc
áo chùng xanh da trời, đồng phục của học trong khoa Nhạc, xách túi
quần áo màu xanh da trời và cặp sách màu nâu. Fidelio, cũng mặc áo
chùng xanh da trời, đã chừa chỗ cho Charlie như thường lệ. Đằng sau nó
là Gabriel Silk, một anh có gương mặt dài, tóc nâu rũ xuội.
“Em có nghe nói gì về quán cà
phê Thú Kiểng chưa?” Gabriel nhoài người qua lưng ghế của Gabriel hỏi. “Một
thảm hoạ quá sức.”
“Có thật họ đóng cửa nó không?”
Charlie nhớn nhác.
“Vĩnh viễn,” Fidelio rầu rĩ.
“Tất cả là do ủy viên hội đồng
Loom, cha của Dorcas,” Gabriel bảo với chúng. “Ông ta lấy cớ là có lời
than phiền về tiếng ồn ào ở đó.”
Quán cà phê Thú Kiểng là nơi
họp mặt yêu thích của Charlie và bạn bè. Nó không thể tưởng tượng
tụi nó sẽ ra sao nếu không có cái quán ấy. Hoặc ông bà Onimous chủ
quán, sẽ ra sao nếu không được phục vụ khách hàng.
Khi chiếc xe buýt xanh da trời
tiến vô quảng trường trước học viện Bloor, một chiếc xe buýt xanh lá
cây cũng trờ tới đậu bên cạnh nó và đám học sinh khoa Mỹ Thuật bắt
đầu túa ra. Emma có trong số bọn này. Đằng sau con nhỏ là Tancred
Torsson và Lysander Sage. Hai anh đều mười bốn tuổi và hình như không
bao giờ tách rời nhau.
“Hây, Charlie,” Tancred gọi. “Cuối
tuần thế nào?”
“Đừng hỏi,” Fidelio đáp thay.
Tancred bước tới chỗ tụi nó.
Mái tóc vàng lỉa chỉa của anh giấu trong cái nón bóng chày bằng
vải nỉ, và chiếc áo chùng xanh lá cây phồng lên trong gió chính anh
tạo ra. “Có chuyện gì à?”
Khi chúng leo những bậc thang lên
Học viện Bloor, Charlie bắt đầu kể cho Tancred nghe về Hạt Đậu. Và
vừa bắt đầu thì Charlie mới nhận ra phía bên kia nó là anh người Phi
Châu, Lysander Sage, đang ghé sát đầu vô để nghe giọng rù rì của nó.
Chúng đi giữa hai tòa tháp, băng
qua cái sân gạch và lên một dãy cầu thang nữa tới cánh cửa gỗ sồi
to chành oành chạm trổ những hình nhân bằng đồng. Sáng nay cánh cửa
mở nhưng một khi tất cả bọn trẻ đã vô trong thì người ta sẽ khóa
cửa cài then lại cho tới chiều thứ Sáu.
Charlie kết thúc câu chuyện đúng
lúc chúng chuẩn bị bước vô tiền sảnh. Lysander vỗ vai Charlie bảo,
“Chúng ta sẽ tới đấy đưa nó ra được mà, phải không Tanc?”
“Bọn anh sẽ cố,” Tancred hạ thấp
giọng trả lời.
Giờ chúng đã ở trong tiền sảnh
lát đá phiến, nơi im lặng là luật. Charlie, Fidelio, và Gabriel đi vô
phòng để áo khoác xanh da trời, phía trên cửa treo tấm biển hai cây
kèn trumpet bắt chéo nhau. Tancred và Lysander hướng về phía tấm biển
có hai cây cọ vẽ, cũng bắt chéo nhau, biểu thị phòng để áo khoác
xanh lá cây.
Trong lúc đi Charlie để ý tiền
sảnh hôm nay vắng vẻ hơn thường ngày. Và rồi nó nhận ra không hề có
một bóng áo chùng tím nào cả. Đám học trò khoa Kịch biến đâu mất
sạch.
Mãi cho đến giờ nghỉ giải lao
thứ nhất chúng mới biết chuyện gì đang xảy ra. Ngoài sân chơi rộng
băng giá đằng sau học viện, bóng áo chùng tím giờ đã được trông
thấy ở những đứa trẻ chạy nhảy quanh sân, tụ nhóm chuyện trò hoặc
chơi đá banh ở góc đằng xa. Áo chùng Học viện Bloor được may bằng
vải len dày, có mũ trùm ấm đặc biệt dễ chịu cho những sáng mùa
đông lạnh lẽo. Olivia, cái mũ trùm tím đội khéo lên mái tóc quăn lọn
rất hợp, chạy ào đến Charlie và Fidelio, với Emma dí theo sát nút.
Olivia vừa thở hổn hển vừa báo
tin cho tụi nó. “Có một tai nạn. Kinh khủng. Ông bà Onimous đang đi xe
đạp. Đằng ấy biết họ đi xe kiểu nào rồi. Bà Onimous ngồi đằng trước
đạp xe, ông Onimous ngồi trên cái yên nhỏ đằng sau bà. Hờ, một kẻ lái
mô tô bí hiểm tông vô họ và cả hai té xuống đất. Chiếc mô tô biến
mất, nhưng một chiếc xe hơi, cố tránh họ, đụng trúng đằng sau xe
buýt. Kính vỡ tứ tung, và tụi này phải xuống đi bộ tới trường.”
“Nhưng còn ông bà Onimous!” Charlie
thốt lên.
“Hờ, bà Onimous đứng lên. Tớ
trông thấy,” Olivia thở hì hụi. “Bà hơi run, nhưng không sao cả, tớ
nghĩ vậy. Nhưng tớ không chắc về ông. Ông vẫn nằm im như cục đá.”
Gabriel và Billy đã nhập bọn với
chúng. Billy vặn vẹo hai tay vào nhau, kêu lên, “Thế còn con chuột của
em thì sao? Ai sẽ cho nó ăn?”
Olivia nghiêm sắc mặt. “Chị chắc
chắn con chuột của em dư sức tự lo liệu lấy. Ông bà Onimous tội
nghiệp mới là những người chúng ta phải nghĩ đến. Chúng ta thậm chí
còn không biết ông Onimous có còn sống hay không nữa kìa.”
Billy ngượng ngùng nhìn tịt
xuống bàn chân nó mà lẩm nhẩm, “Em xin lỗi. Em vừa trải qua một cuối
tuần tồi tệ.” Lời than thở của Billy khiến lương tâm của Charlie bị
cắn rứt. Đáng ra nó phải rủ Billy về nhà mình. Nó vừa định bảo
Billy về kế hoạch cuối tuần tới thì tiếng tù và rúc vang khắp sân.
Giờ nghỉ giải lao đã hết.
Nhóm tụi nó bắt đầu đi về phía
cánh cửa vô trường, Fidelio nói, “Điều chúng ta phải tự hỏi là, ai đã
tông ngã chiếc xe đạp của ông bà Onimous?”
“Và tại sao?” Emma thêm. “Bà
Onimous đi xe đạp rất giỏi.”
Charlie định bảo Norton Cross,
người gác cửa quán cà phê thú kiểng, có một chiếc mô tô. Nhưng ý
nghĩ Norton có thể gây ra tai nạn đó thật phi lý.
Ngay khi Charlie sắp sửa bước chân
vô lớp tiếng Pháp thì nó bị giật thô bạo qua bên. “Tao muốn có lời
với mày,” Manfred Bloor cất tiếng.
“Nhưng em trễ giờ tiếng Phá…”
Charlie bắt đầu.
“Không phải bây giờ,” Manfred cắt
ngang. “Hãy tới phòng Nhà Vua sớm năm phút trước giờ làm bài tập về
nhà.”
“Vâng thưa ngài.” Charlie toài
người thoát khỏi cú gắp đau đớn của Manfred và ù té vô phòng học
tiếng Pháp. Cô Tessier mới bắt đầu bài học và Charlie lỉnh vô cái
bàn cuối cùng, may mắn thoát được đôi mắt người Pháp tinh tường của
cô.
Suốt ngày còn lại, tâm trí
Charlie cứ chờn vờn về cuộc gặp gỡ sắp tới với Manfred. Con trai ông
hiệu trưởng bây giờ là thầy giám sát tài phép. Hắn từng là huynh
trưởng hồi Charlie mới vào trường cách đây mười tám tháng. Một huynh
trưởng hay dùng phép thôi miên để khủng bố bọn trẻ. Charlie từng là
một trong những nạn nhân của hắn. Nhưng dần dần công lực của Manfred
bị suy yếu cho tới khi Charlie cảm thấy hầu như an toàn khi nhìn vô
cặp mắt đen như than đó. Tuy nhiên hôm nay nó nhận thấy một vẻ quái
đản lóe trong mắt Manfred và nó bắt đầu lo ngay ngáy cho buổi tối
phía trước.
“Sao vậy, Charlie? Em không muốn ăn
bánh nhân cá à?” Fidelio hỏi.
Charlie lắc đầu. “Anh ăn đi. Em
cảm thấy mắc ói.”
Chúng đang ngồi bên một trong
những chiếc bàn dài bằng cả chiều dài sảnh ăn tối. Bữa tối ngon
khỏi chê. Bánh gạo nở phồng và giòn rụm. Xung quanh Charlie nghe rào
rạo những tiếng “Ưưm” “Chà,” “Aaaah!” đầy thỏa mãn sung sướng. Những
chiếc đĩa vét sạch trơn và một hay hai đứa trẻ len lén liếm đĩa.
Nhưng Charlie thấy chẳng muốn ăn. Ánh mắt nó liên tục đảo tới bàn giáo
viên ở bục cuối phòng, nơi Manfred đang ngồi giữa thầy Paltry dạy sáo
và cô Marlowe dạy kịch.
“Charlie! Charlie!” Phải định thần
Charlie mới nhận ra Billy, ở phía bên kia nó, đang nói thầm với nói.
“Em vừa nói gì vậy?” Charlie hỏi.
Billy cố không động đậy môi, thì
thào. “Mụ Tilpin vẫn còn ở đây.”
Fidelio nghe lỏm được tụi nó. “Em
nói là mẹ của Joshua, mụ phù thủy á?”
“Suỵt!” Billy van vỉ. “Em đã bị
rắc rối rồi. Bọn chúng chửi em là dò la chúng.”
“Ai?” Charlie nói.
“Dorcas, Dagbert, chị em sinh đôi
Branko và Joshua chứ còn ai. Chúng ở trong một căn phòng cũ, tối hù
dưới tầng hầm. Sau đó Manfred đi vô.” Billy lấm lét nhìn ra bàn giáo
viên. “Em nghĩ bọn họ liên kết làm gì đó, ý em là mụ Tulpin với
Manfred.”
Charlie rên lên một tiếng. “Manfred
muốn gặp một mình em sau bữa tối.”
“Để anh đi với em, nếu em muốn,”
Fidelio đề nghị.
“Không được,” Charlie ủ dột. “Anh
không được ban phép thuật. Em phải gặp hắn ở phòng Nhà Vua, mà anh
thì không được phép lại gần đó.”
Fidelio nhăn nhó. “Xời. Hắn không
thể ăn thịt em được đâu, Charlie.”
“Có lẽ không. Nhưng em có cảm
giác hắn sẽ thôi miên em.”
Cố trì hoãn cuộc gặp cũng
chẳng hay ho gì. Charlie biết nó sẽ bị cấm túc nếu tới trễ. Sau bữa
tối, nó thu lượm sách vở khỏi bàn học và lê bước tới phòng Nhà
Vua. Những đứa trẻ được ban phép thuật khác sẽ tới ngay thôi, nó
nghĩ, vì vậy Manfred không đủ thời gian để làm gì quá khó chịu.
Trong căn phòng hình tròn ở lầu
ba có một bức chân dung Vua Đỏ treo giữa những kệ sách cổ xưa. Nét
mặt Nhà Vua hầu như không phân biệt được trong bức tranh mờ, đấy những
vết rạn ấy, nhưng chiếc vương miện bằng vàng lấp lánh phía trên mái
tóc đen cùng tấm áo chùng nhung đỏ ngài khoác trên người lại trông
như thật.
“Charlie Bone,” Manfred gằn giọng
khi Charlie vừa lách qua cánh cửa cao màu đen.
Manfred đang ở phía đối diện
Charlie, phía bên kia cái bàn tròn. “Ngồi xuống Chalie!” hắn ra lệnh.
Charlie lại chỗ chiếc ghế gần
nhất và ngồi xuống, đối mặt với Manfred. Thầy Giám sát Tài phép
vẫn còn đứng, ngay lập tức Charlie cảm thấy mình bị thất thế.
“Tại sao tuần rồi mày không mời
Billy Raven về nhà với mày?” Manfred hỏi.
Charlie ráng cố hiểu tại sao hắn
lại hỏi một câu đơn giản như vậy. Có ẩn ý gì nằm đằng sau?
“Mày bỏ rơi Billy rồi à?” Manfred
truy sát.
“Không.”
“Mày muốn mời Billy về nhà.”
Manfred đặt hai tay lên bàn, chúi người về trước. “Vậy có gì trục
trặc, hả?”
“Em… không có gì.” Charlie rối
trí. “Chỉ tại em quên.”
“Mày quên?”
Quên rủ một người bạn về nhà
là tội ác hay sao? Giờ thì Charlie nghi ngờ lắm rồi.
“Lần tới mày sẽ không quên nữa
chứ, Charlie?” Mắt Manfred quắc lên. Hai con ngươi đen như than nhoa nhóa
những vằn sáng.
Charlie cảm thấy đau căng thốn ở
trán. Việc gì hắn phải làm thế? Nó tự hỏi. Hắn đâu cần phải thôi
miên mình. Đằng nào mình cũng rủ Billy về nhà mà. Tình thế bị ép
buộc phải chống cự tia nhìn của Manfred khiến Charlie nổi giận.
Chuyện này trước đã từng xảy ra và Charlie đã khám phá rằng mình
có khả năng khóa chặn kẻ thôi miên này. Nó cần phải nhìn vượt qua
ánh mắt đen thui đó và đi sâu vô tâm trí của Manfred Bloor.
Những hình ảnh bơi bơi trước mắt
Charlie: một hiệp sĩ khoác áo chùng xanh lá cây, một tên quỷ lùn
bằng đá, và cuối cùng, phía xa, xa xăm trên mặt biển xám nổi sóng dữ
dội, một con thuyền buồm nhỏ xíu.
“Không!” Charlie thét hoảng. Cơn
đau trong đầu nó tăng dần. Charlie nghĩ nó không thể chịu đựng lâu hơn
được nữa. Chắc nó phải buông xuôi mất.
“Mày sẽ…” có những tiếng nói.
“Mày sẽ…”
“Sẽ… gì?” Charlie lầm bầm. Nó
cảm thấy đầu nó chúi tới trước. Và rồi một hình ảnh khác cắt xoẹt
bóng tối trong đầu nó: một hiệp sĩ cưỡi ngựa trắng, dải lông chim
đỏ phấp phới trên mũ giáp bạc, và một thanh gươm sáng tựa như những
tia nắng mặt trời.
Hình hài đen ở phía bên kia bắt
đầu chìm đi. Charlie nghe thấy một tiếng vọng vẳng xa, rồi cánh cửa
đôi đằng sau nó xịch mở và nó bị bao quanh bởi những hình thù
chuyển động, nói rì rầm. Charlie ngồi thẳng lên, dụi mắt.
“Em ổn chứ, Charlie?” Tancred hỏi,
ngồi xuống chiếc ghế cạnh nó.
“Dạ,” Charlie nói đầy tự tin. “Em
rất ổn.” Nó nhìn qua Manfred, hắn đã ngã xuội xuống ghế. Đầu oặt
tới trước như ngủ gật.
Dorcas và chị em sinh đôi bu quanh
thầy Giám sát Tài phép. Joshua vỗ vai Manfred và hắn ngẩng đầu lên.
Hắn bíu chặt vô cạnh bàn, cố đứng dậy. “Tiếp tục làm bài tập về
nhà,” hắn nói. Giọng hắn gằn và líu nhíu. Tránh ánh mắt của
Charlie, Manfed loạng choạng ra khỏi phòng.
Dorcas, Joshua và chị em sinh đôi
ngồi vô chỗ thường lệ của chúng, đối diện Charlie. Một thoáng sau,
Emma, Lysander và Gabriel tới ngồi cạnh nhau, bên kia Tancred. Billy hộc
tốc tuôn thẳng vô và trám cái chỗ trống bên phải Charlie. Thằng bé
có vẻ hớt hải và nhớn nhác hơn ngày thường. Sách vở cứ văng tóe ra
khỏi tay nó, mắt kính trễ khỏi mũi, lật đật đẩy kính lại như cũ,
ghế của nó nghiêng chênh lên và nó té nhào xuống sàn.
Charlie không nghi ngờ gì, chị em
sinh đôi nhà Branko đang cà khịa. Chúng thường hạnh hạ Billy bằng sức
mạnh động năng của chúng. Thằng bé là nạn nhân dễ ợt. Joshua và
Dorcas ré lên cười nhạo.
“Đáng khinh!” Lysander trừng mắt
nhìn chị em sinh đôi. “Đó là cách tụi bay ra oai đấy hả? Tra tấn
người không thể tự vệ? Dám thử lên tôi coi, Idith. Nào, Inez thử tốc
ghế của tôi xem nào.”
Chị em sinh đôi cụp mắt xuống và
mở tập ra. Những chiến binh châu Phi mà Lysander có thể gọi lên không phải
là điều chúng muốn đối đầu.
Dagbert Endless tới trễ. Nó ngồi
một mình, ở giữa nhóm. “Thầy Giám sát Tài phép đâu?” nó hỏi.
“Ngài ấy không khỏe, khi Charlie
Bone ở riêng với ngài ấy,” Dorcas đáp.
“Thế à?” Dagbert nhìn Charlie với
vẻ thích thú.

