Charlie Bone (Tập 7) - Chương 07
Tấm lưới nhiễm độc
Phòng ngủ chung dài hút, lạnh lẽo chỉ
độc một ngọn đèn đã trở nên rất quen thuộc với Charlie… đến nỗi nó cảm thấy gần
như ở nhà. Nhưng tối nay nó không sao ngủ được. Một bên nó, Fidelio lớ mớ trong
giấc mơ, còn phía bên kia là Billy Raven trở mình, rên rỉ trong tấm trải giường
nhàu nát.
“Billy, em thức à?” Charlie thì thầm.
Billy thôi trằn trọc mà ngồi dậy. “Em
lo cho Rembrandt quá. Ai sẽ chăm sóc nó?”
“Em nghe Olivia nói rồi đó. Bà
Onimous không bị thương. Bà sẽ trở lại quán cà phê Thú Kiểng ngay mà. Anh cá
đấy.”
“Thế còn ông Onimous? Chắc ông ấy bị…
bị…” giọng Billy trượt đi.
“Sáng mai tụi mình sẽ hỏi bà bếp
trưởng. Thể nào bà ấy cũng biết chuyện.” Nó nhắm mắt lại nhưng sực nhớ bèn quay
qua hỏi. “Cuối tuần tới em về nhà anh chơi nhé?”
“Dĩ nhiên,” Billy nói.
“Vậy là xong.”
Fidelio vừa chui ra khỏi giấc mơ âm
nhạc và ngủ ngon lành. Mãi cuối cùng Billy cũng nằm im bất động, đáng ra
Charlie phải thấy dễ ngủ. Nhưng một câu hỏi khác nảy ra trong đầu nó.
Hà cớ chi Manfred lại quá sốt sắng
muốn Billy tới nhà Charlie? Có gì liên quan đến bức tranh xứ Badlock không?
Charlie nhớ ra mình chưa nói gì với Billy về bức tranh. Thấy Billy lo lắng cho
con chuột quá mức nên việc đó đã vuột khỏi tâm trí Charlie.
Ánh sáng dìu dịu của con bướm trắng
lập lòe phía trên Charlie, và nó quá vui sướng đã nhận ra con bướm đã theo mình
tới trường. Nhìn Claerwen lộn vòng chao liệng trong đêm tối, nó bắt đầu buồn
ngủ, nhưng đến khi nó vừa thiu thiu thì một giọng nói bật lên ong ong trong đầu
nó, hình như muốn cảnh báo rằng: Đừng để Billy vô xứ Badlock.
Từ chiếc giường cuối ở chung dãy với
Charlie, Dagbert Endless nhìn theo con bướm trắng nhảy múa trên trần. Nó thọc
tay xuống gối lấy ra một con cá vàng nhỏ và năm con cua vàng bé xíu. Nắm chặt
chúng trong tay, nó lẩm bẩm “Linh vật biển” và một nụ cười quét ngang mặt nó.
Thế rồi những bức tường trống trơn của
phòng ngủ chung tắm đẫm màu xanh lục và xanh lá cây, lợn gợn những ánh bạc. Khi
những sắc thái tựa như nước dội xuống người Dagbert, nó nghĩ về mẹ. Những linh
vật biển này mẹ nó đã cho nó một tháng trước khi chết. Bà ta đã tìm thấy rất
nhiều vàng từ những con tàu đắm sâu thăm thẳm dưới đáy đại dương, sâu đến nỗi
người ta tuyên bố là chúng mất tích vĩnh viễn. Nhưng đối với một người như mẹ
Dagbert, một nhân ngư, thì chúng không hề vĩnh viễn mất tích, và với bà ta biển
là nhà - ở biển hệt như ở trong lâu đài mà chồng bà ta xây tặng. Bà tà lấy vàng
dưới đáy biển làm nhẫn, xuyến, dây chuyền. Nhưng năm con cua và con cá này là
những bùa đặc biệt, sẽ truyền cho thằng con thiên tài của bà ta sức mạnh có thể
thắng áp đảo cha nó. Còn một con nhím biển bằng vàng nữa, đang nằm đâu đó trong
đống đồ đạc của Tancred. Người Bão Tố đã tịch thu con nhím biển nhằm làm yếu uy
lực của Dagbert.
Khi Dagbert năm tuổi, mẹ nó bị sa
lưới đánh bắt và bị đè chết dưới hàng tấn cá, những sinh vật mà bà ta luôn coi
là bạn.
Dagbert hé lộ dần những sinh vật biển
khỏi những ngón tay nó. Sự thể mất con nhím biển khiến nó điên tiết. Vụ đánh
cắp đó chỉ là một vết mờ trong đầu nó so với ký ức về mẹ. Nhưng nhìn con bướm
đêm của Charlie Bone khiến nó chợt lóe lên một ý. Manfred muốn con bướm trắng
đó, bởi vì, nếu không có con bướm, Charlie Bone sẽ không thể chu du. Nhưng nếu
Dagbert bắt con bướm đó tức là Dagbert cũng sẽ tự giúp mình. Dagbert nghĩ, có
thể Tancred sẽ phải trả bùa lại cho mình để đổi lấy con bướm của Charlie.
Dorcas Loom sẽ làm cho mình một tấm lưới… con bé đó khéo tay. Chẳng bao lâu nữa
cả bọn sẽ biết đứa nào hùng mạnh nhất.
Ngày hôm sau Charlie bắt được cơ hội
nói với Billy về Hạt Đậu. Billy hay lang thang thơ thẩn tới khu đổ nát trong
rừng. Thằng bé cảm thấy an toàn đằng sau những bức tường đỏ đồ sộ, với bầu trời
bao la trên đầu và cảm giác vỗ về rằng có lẽ Vua Đỏ và hoàng hậu đang ở gần đâu
đây.
Charlie nhìn Billy hướng về phía cuối
sân thì dợm bước đi theo. Nó thấy Billy ngồi trên một tảng đá giữa hai trong số
năm cổng vòm dẫn sâu vô lâu đài. Thằng bé tóc trắng đang ngó chong chong một
phiến đã khổng lồ bị nứt bể ở chính giữa và có đất mới viền quanh. Khi Charlie
lại gần, Billy nói. “Đó là chỗ mụ Tilpin tìm thấy Gương Thần phải không?”
Charlie nhìn phiến đá. “ Đúng rồi. Là
nơi cái bóng đã chôn tấm gương.”
“Anh nghĩ mụ ta sẽ cố sử dụng nó lần
nữa để đưa cái bóng trở lại à?”
“Ừ.” Charlie ngồi xuống bên cạnh
Billy. “Có việc này em cần biết, Billy.”
“Hả?” Đôi mắt hồng ngọc của Billy mở
to ra đoán. “Anh lại chu du vô trong tranh nữa chứ gì?”
“Sao em đoán được?”
“Nhìn anh là biết chứ sao. Lúc trước
em không nhận ra vì em đang mải nghĩ về Rembrandt. Em vẫn chưa thấy bà bếp
trưởng.”
“Con chuột của em sẽ không sao đâu.
Này Billy, em cần phải viết tất cả mọi chuyện đã xảy ra hồi cuối tuần rồi, kẻo
anh không có dịp nói cho em biết trước ngày thứ Sáu.”
“Em muốn biết mà,” Billy nói.
Thế là Charlie kể cho Billy nghe tuốt
tuột: từ khoảnh khắc nó nghe thấy tiếng gió thở ra từ bức tranh, đến sự hiện
diện của Hạt Đậu ở xứ Badlock. Billy rùng mình kêu hốc lên, nó kéo mũ trùm đầu,
co rúm người lại, như cố ngăn chặn mình khỏi lời nói của Charlie nhưng vẫn ham
muốn nghe thêm. Khi Charlie mô tả đến đoạn đào tẩu khỏi bức tranh nhờ sự trợ
giúp của Claerwen, Billy thở phù ra nhẹ nhõm, “Vậy là may rồi. Nhưng tốt hơn là
anh không nên léo hánh đến gần bức tranh đó nữa, Charlie.”
“Không được. Anh không thể bỏ mặc Hạt
Đậu. Nó bị kẹt lại vùng đất hãi hùng đó mà không ai trong chúng mình biết
cách…”
“Anh có thể thấy nó à?” Billy hỏi.
“Ừ. Kinh khủng lắm. Nó đang tru.”
“Có lẽ, em, à, liên lạc được với nó,”
Billy đề nghị.
Charlie lưỡng lự. “Có thể sẽ nguy
hiểm cho em đấy, Billy.”
Billy im lặng một lúc. Nó đung đưa
cặp giò và nhìn qua khung cửa vòm lớn tới những hình hài được nhìn thấy từ đằng
xa, đang chạy quanh sân chơi. “Benjamin chắc là buồn khủng khiếp,” nó nói.
“Buồn chứ,” Charlie thừa nhận. “Anh
nghĩ phải đến chừng nào anh cứu được con chó ra thì nó mới tha thứ cho anh.”
Billy lộ vẻ trầm ngâm. “Em vẫn được
về nhà với anh chứ, Charlie? Cho dù em không nhìn vô bức tranh đó?”
“Đương nhiên.”
Khi hai đứa rời khỏi khu đổ nát, con
bướm trắng bay ra khỏi túi áo Charlie và đậu trên vai nó.
"Tụi mình sẽ không sao đâu nếu
có con bướm của anh đi cùng," Billy cười toe.
Charlie không đáp. Claerwen đã cứu nó
khỏi xứ Badlock, nhưng Claerwen đã không thể nào làm điều tương tự với Hạt Đậu.
Khi tiếng tù và rúc lên vang động sân
chơi, hai thằng liền cắm đầu chạy trở về trường. Không đứa nào trông thấy
Dagbert Endless thò đầu ra khỏi gốc cây gần lối vô lâu đài.
Giờ học kèn trumpet của Charlie luôn
kết thúc sớm. Xê-nho Alvaro bây giờ phụ trách tất cả học trò ban Kèn đồng, và
thường thành công mỹ mãn. Thầy trẻ tuổi, vui tính, với bộ ria mép thú vị và cái
cười ánh trong đôi mắt hình quả hạnh. Theo quan điểm của thầy Alvaro, nếu
Charlie chịu để tâm trí vào việc học hành thì có thể chơi kèn một cách khả dĩ.
Nhưng thằng bé có mái tóc rối này không biết cách làm thế nào để tập trung.
Hôm nay Charlie vui mừng vì được thả
ra sớm mười phút trước bữa trưa.
"Em nghĩ tuần này em có thể dành
chút thời gian tập luyện được không?" Thầy Alvaro hỏi một cách hài lòng.
"Dạ, được, thưa thầy,"
Charlie nói, đầu óc nó đang lấn bấn xem làm sao có thể tìm được khoảnh khắc nói
chuyện riêng với bà bếp trưởng.
"Gracias." Thầy Alvaro nói
với theo khi Charlie phóng như bay ngược hành lang.
Hóa ra tìm bà bếp trưởng không khó
như Charlie tưởng. Bà đang ngồi trên một chiếc bàn trong căn-tin xanh da trời,
uống trà với một người đàn ông tóc trắng phau, trông tầm thước: giáo sư
Saltweather.
"Chúng ta đến sớm hơn giờ ăn
trưa đấy nhỉ, Charlie Bone?" Giáo sư Saltweather nhận xét. "Sao trò
không tiếp tục ở trong lớp học?"
"Xê-nho Alvaro cho con ra đó ạ.
Tại con chưa tập luyện đủ," Charlie thú nhận.
Giáo sư Saltweather thở dài. Là
trưởng khoa Nhạc thầy cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm cho sự thiếu tiến bộ
của Charlie. Cha của Charlie là tay đàn organ chơi cho nhà thờ, một nghệ sĩ
thiên tài, nhưng Charlie dường như chẳng thừa hưởng chút gì từ tài năng của
cha. Tuy nhiên giáo sư Saltweather đánh giá cao tài phép khác thường của Charlie
và đôi khi cũng du di cho thằng bé này.
"Con muốn hỏi thăm bà bếp trưởng
về ông Onimous," Charlie nói.
"Ông Onimous," gương mặt
vốn hồng hào của bà bếp trưởng thoáng âu lo. "Ông ấy không khỏe lắm,
Charlie à. Đang nằm trong bệnh viện. Bị choáng. Bà Onimous tội nghiệp luôn túc
trực bên ông ấy."
"Còn… còn lũ thú ạ?"
Charlie hỏi.
"À, những con mèo lửa có thể tự
lo cho mình," bà bếp trưởng tự tin nói, "con hãy bảo với Billy rằng
con chuột của nó an toàn. Nó đang ở chỗ bà Kettle."
"Còn con trăn?" Charlie
nói.
"Cũng ở cùng một nơi, Charlie.
Tiệm Ấm."
Giáo sư Saltweather đứng dậy, kéo ghế
cặp vô bàn. "Tôi nghe nói quán cà phê Thú Kiểng đã bị đóng cửa."
Bà bếp trưởng gật đầu. "Các bạn
đáng thương của tôi. Hội đồng viên Loom phải chịu trách nhiệm."
"Một việc đáng xấu hổ."
Giáo sư Saltweather sải bước ra cửa. "Phải làm gì về việc đó mới
được," thầy nói oang oang.
Giọng nói sang sảng của ông thầy dạy
nhạc khiến Charlie nhen nhóm hi vọng. "Bà có nghĩ rằng giáo sư Saltweather
làm sẽ được gì đó cho quán cà phê?" Nó hỏi bà bếp trưởng.
"Chắc chắn ông ấy sẽ cố. Nhưng
ông sẽ phải chống lại những người rất quyền lực, ta không muốn ông ấy tự đặt
mình vô nguy hiểm." Bà bếp trưởng cầm hai ca đi tới quầy, Charlie đi theo
cầm ấm trà và hai cái đĩa không. "Có những người nào đó trong thành phố
này đang chực chờ để xóa xổ quán cà phê Thú Kiểng," bà bếp trưởng tiếp.
"Họ không thích đám trẻ tụ tập ở đó vào cuối tuần rồi âm mưu này
kia."
“Tụi con không âm mưu gì,” Charlie
phẫn nộ.
“Không ư? Nghĩ mà coi, Charlie. Ồ, ta
biết tất cả kế hoạch của các con đều có lí do chính đáng, nhưng bọn họ không
thích thế.”
“Nhưng quán cà phê Thú Kiểng là một
nơi rất hay, bà bếp trưởng à. Nơi đó vui lắm. Còn nơi nào khác cho lũ thú nuôi
gặp nhau và thưởng thức đồ ăn ngon? Nơi đó không chỉ hữu ích cho tụi con mà còn
có hàng trăm người rất yêu mến nó.”
“Con không cần phải nói với ta về một
điều như vậy, Charlie.” Bà bếp trưởng mở vung nồi cá hầm đặt trên quầy và hít
hơi. “Ta phải vô bếp đây, xem các cô phục vụ chuẩn bị bữa ăn tới đâu rồi.”
Charlie đứng bên quầy, kiên nhẫn chờ
ai đó đến múc món hầm ra cho nó. Bọn học trò khác của khoa Nhạc bắt đầu kéo tới
đúng lúc một cô phục vụ hiện ra , và một hàng dài hình thành lập tức đằng sau
Charlie.
Khi đồ ăn của nó được múc xong,
Charlie tới cái bàn ưa thích ở góc căn-tin. Không lâu sau đó có Gabriel tới
nhập bọn, rồi cả Billy và Fidelio. Món hầm loáng cái đã hết bay, và chúng lại
xếp hàng nhận bánh pudding. Fidelio nhận xét sao Dagbert Endless đâu không
thấy.
“Chắc cuối tuần nó ăn quá nhiều cá
rồi,” Gabriel bình luận.
Charlie chắc hẳn đã không phá ra cười
ngặt nghẽo nếu như nó biết Dagbert đang mưu mô cái gì. Đúng vậy, nếu biết thì
nó đã không cười được tí nào.
Không phải đến tận lúc hết giờ làm
bài tập về nhà Charlie mới bắt đầu nhớ tới con bướm của nó. Con bướm thường biến
đi đâu mất vài giờ, chắc là ngủ trong nếp gấp của một tấm rèm nào đó, hoặc nghỉ
ngơi đằng sau một khung ảnh. Charlie không bao giờ biết. Nhưng buổi tối thể nào
con bướm cũng bay ra đâu lên cánh tay hoặc trên vai Charlie một chút như để đảm
bảo là nó vẫn luôn ở bên Charlie, sau đó lại bay đi.
Lần này sự vắng mặt của Claerwen
khiến Charlie nhấp nhổm không yên. Khi rời phòng Nhà Vua nó hỏi Billy xem có
nhìn thấy con bướm không.
“Em không thấy nó từ lúc nó đậu trên
tay anh hồi sáng,” Billy trả lời.
Gabriel không thấy nó, rồi cả Emma
cũng không.
“Nó sẽ trở lại mà.” Lysander trấn an.
“Chắc chắn là nó đi kiếm nhện ở đâu đó ăn thôi.”
“Hoặc bị ăn bởi một con dơi,” Tancerd
đùa tếu.
Lysander chọc vô sườn Tancerd một
cái. “Im đi, Tanc. Charlie yêu con bướm đó lắm.”
Dagbert Endless nín thin thít đi qua
bọn chúng. Charlie để ý thằng đó hơi nhếch mép cười. Liệu nó có nghe thấy tụi
mình nói chuyện với nhau không?
Dagbert không đi thẳng lên phòng ngủ
chung như những đứa khác. Nó lỉnh xuống cầu thang chính và băng qua tiền sảnh.
Giáo sư Saltweather chọn đúng thời
điểm đó để rời phòng giáo viên. “Trò đi đâu đó, Dagbert Endless?” Thầy hỏi lớn.
“Tôi đi gặp thầy Giám sát Tài
phép có chút việc,” Dagbert đáp tỉnh bơ.
“Thế thì nhanh lên,” giáo sư
Saltweather nói. “Mười lăm phút nữa là Đèn Tắt.”
“Vâng, thưa thầy.” Dagbert chạy
xuôi hành lang dẫn tới phòng học của nó. Tới cái bàn học cuối
phòng và mở nắp bàn ra. Trong hộc bàn có cái gì trông tự như chiếc
khăn tay mỏng màu trắng. Dorcas đã hoàn thành công việc rất tốt. Theo
yêu cầu của Dagbert, con này đã vô phòng may trong giờ ăn trưa và may
một tấm lưới tinh xảo. Tấm lưới đó được may bằng vải mút-xơ-lin gắn
vô một que tre dài, do gã Weedon sốt sắng tìm giúp. Để bảo đảm cho
tấm lưới hoạt động đúng như những gì Dagbert dự định, Dorcas đã tẩm
vô miếng vải mít-xơ-lin nước cốt của một loại thảo mộc hiếm: hèm
ủ. Con nhỏ chưa bao giờ sủ dụng loại thảo mộc này và đang háo hức thử
xem nó có tác dụng như thế nào.
Phải nói là nó rất hiệu
nghiệm. Con bướm ở bên trong lưới nằm im lìm đến độ cứ như đã chết
rồi.
“Mày bắt được nó rồi à?” Dorcas
ló qua khung cửa dòm vô.
“Dễ ẹc,” Dagbert nói. “Tao lấy
que tre ra rồi. Đến đây xem này.”
Dorcas ục ịch đến bàn của
Dagbert. Thằng này nhấc tấm lưới mút-xơ-lin lên và trải vô lòng bàn
tay. Bên trong lưới đôi cánh của con bướm trắng dựng lên rồi rơi xuống,
chỉ một lần, như thể nó vừa trút hơi thở cuối cùng.
“Vậy là nó chưa chết,” Drocas
nói, thất vọng phủ trùm cái mặt phèn phẹt của nó.
“Không lâu nữa đâu,” Dagbert bảo.
Nó để tấm lưới xuống bàn và ra chỗ tủ đựng văn phòng phẩm. Thầy
Carp, giáo viên dạy tiếng anh, để có một cái cốc pha lê dày ở kệ
trên cùng để sử dụng riêng.
Dagbert mang cái cốc trở lại bàn
nó và úp vàng lưới quanh miệng cốc. Con bướm trắng rơi xuống cốc.
“Đó,” Dagbert nói. “Giờ tao sẽ
mang nó tới cho Manfred.”
“Mày phải bảo anh ấy là tao
giúp mày nghe chưa?” Dorcas dặn. “Phải nói rõ là tao làm ra cái lưới,
tẩm thuốc độc các thứ này kia.”
“Dĩ nhiên tao sẽ nói, Dorc. Mày
giỏi đấy, mày có biết không?”
“Biết chứ.” Một nụ cười làm lộ
cắp lúm đồng tiền trên má con nhỏ.
Dagbert đậy cái cốc lại bằng
tấm vải mút-xơ-lin rồi cầm nó đi ra cửa. Dorcas chạy xộc lên trước
mở của cho Dagbert, thằng này lướt qua miệng lẩm bẩm “cám ơn” rồi đi
tiếp trên hàng lang. Dorcas lại chạy vượt tớn lên trước và mở cánh
cửa nhỏ cổ xưa dẫn vô chái phía tây.
“Mày sẽ nói với anh ấy chứ?”
Dorcas van nài.
“Tao đã bảo là tao sẽ nói rồi
mà,” Dagbert đáp, bước tọt vô hành lang tối đằng sau cánh cửa. “Khôn
hồn thì đi ngủ đi, Dorc, không bà giám thị tới bắt mày bây giờ.”
“Và Manfred sẽ nói về tao với cô
Fairy Tilpin chứ nhỉ?” Dorcas vẫn tiếp. “Cô ấy sẽ hài lòng lắm cho mà
xem.”
“Đúng!” Dagbert nện cho cánh cửa
một cú đá hậu, cánh cửa đóng rầm vô mặt Dorcas.
Bọn học trò hiếm khi nào tới
Cánh Tây. Đó là nơi ở của gia đình Bloor, mà họ thì không thích giáo
viên hay học trò xâm phạm nơi này. Ở cuối hành lang có thể thấy một
ngọn đèn tù mù trong căn phòng ở tầng trệt của Tháp Nhạc. Dagbert
lần mò đi về phía có đèn sáng ấy. Những bức tường hai bên bốc ra
mùi ẩm mốc của gạch cũ và rong rêu mọc đầy trong các kẽ đá phiến.
Ở quãng giữa hành lang có một
kệ sách đựng trong một hốc nhỏ. Giữ chặt cái cốc vô người bằng bàn
tay trái, Dagbert dùng tay phải đẩy hai quyển sách ra khỏi một ngăn
kệ. Nó gõ vô mảng gỗ trơn đằng sau hai quyển sách.
“Ai đó?” Một giọng cất lên.
“Dagbert, thưa ngài. Tôi có thứ
cho ngài.”
“Ờ, cái gì,” Manfred nói với
giọng chán nản.
“Một con bướm.”
“Con bướm?” Manfred có vẻ quan
tâm. “Mày vô đi.”
Kệ sách mở vung về phía sau, để
lộ một thư phòng nhỏ. Manfred Bloor đang ngồi sau một cái bàn viết,
trên bàn lỉnh kỉnh chai lọ màu xanh lá cây, hũ bằng đất nung, hộp
thiếc gỉ và những thếp giấy vàng ngà được xếp thành từng nhóm.
“Ta hy vọng là con bướm đó,
Dagbert Endless,” Manfred vẫy Dagbert lại gần. “Ta bận cực kỳ, như trò
thấy đó.”
“Đúng chính xác là con bướm đó,
thưa ngài.” Dagbert xoay cái cốc trong cả hai bàn tay và đặt nó úp
ngược xuống trước mặt Manfred. Giờ thì không thể phân biệt được đôi
cánh của con bướm với miếng vải mút-xơ-lin màu trắng lót bên dưới.
Manfred ghé mắt dòm qua bàn thủy
tinh dày. “Mi chắc không?”
“Nhìn đôi cánh bạc kia chưa? Tôi
biết nó là con bướm của Charlie. Tôi đã bắt được nó ở Hành lang Chân
dung. Mặc dù nó khôn dễ sợ, chui vô đậu trên một chùm hoa loa kèn
trắng. Tưởng là không bị nhìn thấy.” Dagbert cười khụt khịt mũi.
“Cái người trong bức chân dung đó trông thật tức cười.”
Manfred thẩy cho nó một cái nhìn
băng giá. “Người trong bức chân dung đó là bà tằng-tằng-tằng tổ
Donatella của ta, một phụ nữ can trường. Bà đã vô tình bị điện giật
chết trong khi đang làm thí nghiệm.”
“Xin lỗi,” Dagbert nói.
“Có ai giúp mày làm vụ này
không?” Manfred gõ gõ cái cốc.
“Không, thưa ngài.” Dagbert cảm
thấy đôi mắt đen của Manfred đang khoan xoáy vô mình, và nó phải dựa
vô bàn để giữ thăng bằng. “Chỉ có… Dorcas. Cô ấy đã làm tấm lưới
độc đó.”
“Con bé đó là một tài năng phi
thường,” Manfred nói với vẻ mãn nguyện. “Mày có thể đi được rồi,
Dagbert.” Hắn đứng lên và chỉ ra cửa.
“Còn về con bướm,” Dagbert nói.
“Tôi biết ngài muốn nó để Charlie Bone không thể chu du an toàn, nhưng
tôi không phải chỉ bắt nó vì việc đó.”
“Không ư?” Manfred nhìn con bướm
bị nhốt.
“Không. Tôi muốn mặc cả bằng con
bướm ấy. Tancred Torson đã ăn cắp con nhím biển của tôi, và không có
nó thì tôi không thể… không thể…”
“Dìm chết người?” Manfred mớm.
“Không hẳn.” Dagbert nhăn mặt. “Tôi
chỉ không là tôi nếu không có đủ tất cả linh vật biển của mình.”
“Ố, ta có thể đối phó với
Tancred Torsson. Đừng lo, ta sẽ trả con bướm lại sau khi ta đã nghiên
cứu nó một chút. Nhưng hãy bảo đảm là Charlie Bone không bao giờ có
nó nữa.” Hắn phẩy một bàn tay vô Dagbert. “Giờ đi đi. Mày sẽ lấy lại
được bùa của mày mà, đừng sợ.”
Charlie đang đứng trong phòng tắm,
cảm thấy buồn nôn. Nó tự hỏi hay có ai đã chuốc thuốc độc mình. Nó
bám vô thành bồn tắm trong khi căn phòng quay quay quanh nó. Đầu tiên
là một chiều sau đó là ngược lại.
“Em ổn chứ, Charlie?”
Một giọng nói xuyên qua bức màn
u u đầu Charlie. Nó xây xẩm quay đầu lại và thấy Fidelio đang đứng
cạnh cửa phòng tắm.
“Cảm thấy khó chịu lắm,” Charlie
nói. Nó lảo đảo qua cửa và Fidelio dìu nó vô giường.
Đúng lúc Dagbert Endless vô đang
đứng dòm sựng Charlie. “Không khỏe à?” Nó hỏi.
Charlie ngoảnh đi tránh đôi mắt
sửng sốt màu nước biển của Dagbert. Nó cảm thấy sức mạnh rời bỏ
mình. Người nó lả đi đến nổi hầu như không nhấc nổi cánh tay. Những
hình thù lờ mờ chuyển động trong làn sương che phủ thị giác của nó
và nó nghe tiếng Fidelio gọi, “Bà giám thị, Charlie bị bệnh.”
Cái cụm từ “bà giám thị” dội
bum bum vô tai nó, tựa như âm thanh mơ hồ sâu dưới nước. “Cố lên được
không, Charlie? Không gì mà một giấc ngủ đêm ngon lành không chữa
khỏi.”
Đèn phụt tắt. Charlie nằm trong
bóng tối trong khi những hình ảnh quen thuộc lộn tùng nhào trong đầu
nó: một hiệp sĩ áo chùng xanh lá cây, một con quỷ lùn bằng đá, một
mặt biển xám dậy sóng. Nhưng hoàn toàn vắng bóng hiệp sĩ đội mũ
giáp bạc cắm chùm lông chim đỏ lấp loáng. Và tất cả những gì còn
lại của chiếc thuyền là chóp cột buồm đang chìm dần xuống mặt biển
dữ tợn. Sau đó Charlie trông thấy Clearwen nằm trong một cái vòm thủy
tinh ánh bạc đã phai khỏi đôi cánh trắng của nó. Bằng tất cả sức
lực còn lại, Charlie nhổm chống cùi chỏ lên và thét “CLAERWEN!”.
Nguyên cả đám con trai đang ngủ
trong phòng ngủ chung đã thức dậy ráo rọi. Những đứa nào chưa ngủ
thì bắt đầu hét lên om tỏi.
“Câm mồm!” “Nó mắc chứng gì
đó?” “Nó mất trí rồi!” Một trong những thằng học sinh lớp Một rên
rẩm, “Anh ấy bị sao vậy?” Đứa nào đó òa khóc.
“Bình tĩnh mọi người,” Fidelio
trấn an. “Charlie chỉ bị ác mộng thôi. Ai chả có lúc vậy. Em không sao
chứ, Charlie?”
Charlie ngồi dậy. Tiếng ù ù
trong đầu nó đã hết. Cơn chóng mặt cũng đã qua. Nó cảm thấy trở về
trạng thái như cũ. “Em ổn rồi, cảm ơn. Em thấy khỏe, rất khỏe.”
Manfred Bloor đã cất dọn hết cái
hộp thiếc đựng ốc sên sấy khô của ông tằng-tằng-tằng tổ của hắn,
những lọ đựng dầu dương và nước mắt khỉ, những hũ táo biển và cà
độc, những thếp giấy vàng chở đầy những nét chữ bay bướm cầu kỳ.
Manfred đã hy vọng chúng sẽ hữu ích trong việc hàn gắn vết nứt của Gương
Thần Amoret, nhưng chẳng thấy có dòng chữ nào của bà Bertram Bloor
viết về việc sửa chữa gương. Hắn quan tâm đến việc phát minh sáng
chế hơn là phục hồi và làm mới lại.
Manfred khóa cửa chiếc tủ bằng
gỗ sồi chạm trổ do những tổ tiên hắn để lại và thảy chìa khóa vô
túi áo. Trở lại bàn viết, hắn bắt đầu nghiên cứu con bướm trong cái
cốc thủy tinh. “Tao bắt được mày rồi, con bướm, đũa phép, hay bất kể
mày là cái giống gì.”
Con bướm có vẻ đang nhạt nhòa
đi. Đôi cánh bạc đã mất ánh ngời, cái đầu nó hơi nhàu.
“Chết,” Manfred tuyên bố. “Nhưng
bọn tao vẫn có thể sử dụng mày.”
Một âm thanh xáo động từ cái
cốc bật ra. Một tiếng tách rất nhỏ. Manfred ngồi xuống. Híp mắt
lại, hắn quét khắp cái cốc tìm một vết nứt hay vết nẻ nhỏ. Hắn
vừa định nhìn gần hơn thì một tiếng rắc đinh tai vang lên, cái cốc
bể toang. Hàng chục mảnh vỡ sáng lóa bay vút ra cửa sổ. Thủy tinh
dày đâm xuyên qua tấm kính và cái cốc rơi thành một cơn mưa thủy tinh
trút xuống mảnh sân gạch bên ngoài tòa nhà.
Miếng vải mút-xơ-lin màu trắng
nằm trống trơ trên bàn viết của Manfred. Con bướm đã thoát rồi.

