Búp bê Bắc Kinh - Chương 33 - 34 - 35 - 36
33. RÀNG BUỘC
Tôi
gọi cho G và cho cậu biết chuyện đã xảy ra, cậu bảo sẽ đến gặp tôi. Chúng tôi
ngồi trên ghế băng gần ga tàu điện ngầm Lăng Công Chúa. Trời như sắp mưa, không
khí trở lên mát mẻ và G bảo mình đang bị cảm lạnh. Tôi bảo tôi không về nhà với
La Hy là vì tôi với cậu ta đã có ràng buộc. Sự thực thì tôi bắt đầu thấy tiếc
vì cam kết với G. Tôi không muốn bị ràng buộc. G không hiểu cái lô gích của
tôi, cho rằng tôi không biết đến tình yêu thực sự. Nhưng với tôi, tự do là điều
quan trọng, chẳng thế nào khước từ và bỏ qua. Con người sinh ra đã tự do. Tôi
không biết đã ai đã đặt cái tư tưởng đó vào đầu tôi, nhưng nó hợp với tôi dù
chẳng biết diễn đạt thành lời. Tôi chỉ có thể diễn tả thế nào là một sự kìm
nén.
“Hồi
còn nhỏ, ấn tượng của tôi về bầu trời trắng nhợt là những gì tôi còn nhớ được.
Tôi muốn nói lúc tôi gần bốn tuổi, bấy giờ còn rất nhỏ, còn chưa đến trường.
Buổi chiều, bố mẹ đi ngủ một giấc và mặc cho tôi chơi một mình ở phòng bên. Tôi
ghét những buổi chiều như thế, ngột ngạt như trong địa ngục, xung quanh là tĩnh
lặng, chỉ còn tiếng gù của chim câu, căn phòng ẩm ướt tối tăm gợi cảm giác lạnh
lẽo, tuyệt vọng, và đơn điệu. Vào lúc đó tôi còn chưa biết gì về cái chết, tất
cả những gì tôi cảm thấy là sự ngột ngạt.”
Mọi
người cùng lao về một hướng, giống như thủy triều, họ chạy cho kịp chuyến tàu
điện cuối cùng. G, bằng cái giọng để lộ vẻ xúc động, bảo tôi, “Lúc bấy giờ thì,
một bát mì ăn liền là ngon nhất, cộng với chai nước ngọt giá năm mươi xu.”
Sự
nhẹ nhàng của tuổi thơ cậu khiến tôi cảm động. Tôi vòng tay ôm lấy G. “Mình sẽ
không làm gì ngốc nghếch với ai nữa.”
Cậu
ra về, hài lòng.
34. KẺ HÈN NHÁT
Tôi
tới làm phóng viên cho một tạp chí thời trang. Một tạp chí mới đang chuẩn bị ra
số đầu tiên, chưa bán ngoài sạp. Tạp chí tên là Gen X. Họ tới tìm tôi, bảo rằng
họ thích bài viết của tôi. Cái hôm đi cùng G tới tòa soạn tạp chí, tôi mặc áo
màu xanh bó sát người, váy ngắn màu đỏ cùng đôi giày thể thao màu hồng. “Trông
em cứ như học sinh tiểu học. Xuân Thụ của chúng ta còn trẻ quá,” cô A tổng biên
tập nói vẻ ghen tị.
Người
đầu tiên tôi gặp là Lộ Dịch, một biên tập viên trạc tuổi tôi. Cô này thường tới
họp định kỳ vào sáng thứ Hai, trong bộ váy hồng thanh lịch làm hồng đôi má và
khiến cô trở nên quyến rũ không tả nổi. Bộ áo đó quá rực rỡ với tôi, nhưng rất
hợp với cô và tôi đoán rằng cô có cái gu đắt tiền hơn tôi. Cô đang viết một
cuốn sách, dự định xuất bản trong vài tháng tới.
“Hai
người đẹp đôi thật,” cô ta bảo với G và tôi. “Tôi thích cả hai.”
Tòa
soạn nằm trong Quận Tuyên Vũ. Tôi không phải đến đó hàng ngày, người ta chỉ yêu
cầu một tuần ba lần.
Khi
G ở trường, chúng tôi nói chuyện qua điện thoại vào buổi trưa, gần như hàng
ngày, rồi tôi đợi bên ngoài trường cậu vào buổi chiều để cùng tha thẩn ở một
khu mua sắm nào đó. Chủ nhiệm lớp cậu là thầy dạy Hóa. G nói ông là một người
khổ sở.
Tôi
không thích đường phố ồn ào quanh ngôi trường của G, nhưng lại thích đám cây
cối và những tòa nhà ở đó. Không khí có vẻ mát mẻ, dễ chịu. Vào lúc hoàng hôn
có đám người ra phố bán báo; những cái giọng nhẹ nhõm của họ vang lên, từ “Báo
đêm đây!” cho đến “Tâm điểm đây!” Tôi thường bắt chước cái giọng của họ: “Tâm
điểm đây!”
Đó
dường như là một kỳ nghỉ dài không dứt. Trong thời gian đó, chẳng ai bảo cho
tôi phải làm gì họăc không làm gì. Tôi có thể chơi bời vui vẻ như điên, chẳng
ai quan tâm: có thể hát, có thể đi chơi suốt đêm, dù sức mạnh của truyền thống
vẫn hiện hữu ngay bề mặt mọi thứ và níu tôi lại đôi chút. Tôi luôn luôn phải
đấu tranh với chính mình.
G
có một vài tin vui: Từ Quyên đã trở lại nhà bố mẹ. Bà ta sợ. Và Dương Hải Đào
đã hỏi G xem tôi có quen ai thuộc một cái hội kín nào không. G bảo ông ta rằng
tôi chỉ biết các ban nhạc rock. Nhưng như thế cũng đủ để họ hết hồn bởi vì đám
chơi nhạc rock hồi đó chẳng khác gì bọn lưu manh, chỉ có đồ ngu mới mơ hồ về
chúng.
Một
hôm tôi bảo G tôi muốn gặp thầy chủ nhiệm của cậu, thế là cậu dẫn tôi đến
trường. Các lớp vừa tan, từng đám học sinh phấn khởi lao ra cổng. Chúng tôi đi
ngược về phía họ. Tòa nhà trông khá cổ, trong tiền sảnh thì tối, nhưng tôi có
cảm giác còn đỡ hơn cái trường trung học dạy nghề mà tôi đã học. Một trường
trung học bình thường cho ta một đời học sinh “lành mạnh” hơn. G bảo thầy giáo
chủ nhiệm đang ở trong văn phòng chờ cậu. Tôi hơi lo lắng khi bước vào, vì đã
lâu chẳng đến trường, nữa là văn phòng giáo viên.
Thầy
dạy Hóa của G đen và gầy gò, giống người tốt nghiệp từ một trường đại học hạng
hai của Bắc Kinh rồi ở lại thành phố dạy trung học. Ông xuất thân từ một vùng
rừng núi nào đó. G bảo tôi ông vẫn còn độc thân, có lẽ bởi vì tất cả đàn bà đều
thấy ông không một xu dính túi. Ông biến văn phòng của mình thành một cái phòng
nội trú và hầu như đêm nào cũng ở lại. Cái vỏ chăn sặc sỡ của ông đã nói lên
hoàn cảnh khốn khó. Ông tỏ ra bối rối khi một học sinh của mình vào phòng cùng
với một cô gái không quen, nhưng rồi mau chóng hiểu ra: À, đây chính là cô nàng
đã qua đêm với G và là kẻ khó bảo với bố mẹ của G.
Tôi
đã quên những gì tôi, G và ông thầy chủ nhiệm nói hôm đó. Tất cả những gì còn
đọng lại là trong khi nói, tôi với G vẫn luôn tay trong tay. Những ngày đó,
chúng tôi thật sự gần gũi, như trong tiểu thuyết, như trên phim ảnh, hay trong
thơ ca, và tôi được trải nghiệm thứ tình cảm giàu có, ngọt ngào mà tôi chưa
từng được biết trong những quan hệ trước đây. Nắm tay nhau là điều chúng tôi
phải làm, ngay trong văn phòng của thầy giáo. Đó là điều nằm ngoài tầm kiểm
soát của chúng tôi. Chúng tôi mỉm cười luôn miệng và đắm đuối nhìn vào mắt
nhau.
Sau
một hồi, ông ta thấy thế là đủ: Dù gì thì, tôi vẫn là thầy giáo của em, và em
cần tỏ ra chừng mực khi tôi có mặt. Đó không phải là lỗi của ông thầy đáng
thương, ít ra tôi cũng nghĩ thế.
Trong
kỳ nghỉ kéo dài của tôi, tôi quyết định học tiếng Đức. Tôi không chọn tiếng
Pháp hay tiếng Ý, bởi vì tôi cảm thấy tiếng Đức xa xăm và mạnh mẽ hơn. Đó là
thứ tiếng được tắm mình trong dòng sông Rhine. Đó là một đất nước tuyệt vời cho
việc suy tưởng. Nhưng mẹ tôi thì không hài lòng. Với sự thiển cận điển hình, mẹ
nghĩ rằng học tiếng Đức là một quyết định vô lối. Tôi năn nỉ, năn nỉ, nhưng bà
từ chối khoản học phí. Sau việc đó, lòng tự trọng của tôi bị tổn thương đến độ
tôi bỏ luôn không tham dự khóa học nào nữa. Tôi muốn mẹ tôi hiểu rằng học hành
là một cái quyền chứ không phải là sự ban ơn.
Một
hôm G đi cùng tôi tới ngôi trường cũ. Mái tóc đỏ của tôi đã phai đi. Chúng tôi
ngồi xổm bên con đường trước trường và hút thuốc. Các lớp chưa tan nhưng một
vài học sinh đã chạy ra đổ rác. Họ mặc áo trắng, quần âu đen và thắt nơ. Trông
mới thân thuộc làm sao! Tôi ngắm họ với sự thờ ơ dễ chịu, cảm thấy mình đã đổi
thay nhiều trong nửa năm qua, còn họ vẫn thế, chẳng lớn lên tí nào. Chúng tôi
không vào vì đột nhiên tôi hết cả hứng thú. Tôi định đến để chuyện trò với vài
bạn lớp cũ, nhưng những gì đã thấy khiến tôi nhận ra chúng tôi chẳng có gì để
nói. G và tôi leo lên xe đạp, bỏ đi. Tôi về nhà và nhuộm đen mái tóc.
Một
hôm mẹ tôi tới Trường Trung học Tây X, và khi trở về bà truyền đạt hai tin tức
khiến tôi muốn nổ tung. Đầu tiên, tôi sẽ không được nhận vào lớp mười hai; muốn
trở lại trường thì tôi phải học lại lớp mười một. Điều thứ hai là cha mẹ G đã
tới trường, để hỏi về một học sinh tên là Lâm Gia Phù: cô này luôn quấy nhiễu
con trai chúng tôi, qua đêm ở nhà chúng tôi, hôm nay tóc xanh ngày mai tóc đỏ,
và nhà trường sẽ làm gì đây? Khi tôi hỏi chuyện đó xảy ra khi nào, thì được
biết là ngay lần đầu họ bắt gặp chúng tôi. Mặt tôi nóng bừng khi nghe mẹ nói
lại, hết sượng sùng đến hổ thẹn. Mẹ tôi muốn biết tôi đã làm gì phật ý họ, và
khi nào? Thế là tôi bật khóc òa lên và thấy nóng ran cả người. Nước mắt tôi
tuôn ra như suối, tôi giận dữ điên cuồng.
Lát
sau tôi gọi cho G và kể thật mau chuyện gì đã xảy ra.
“Chúng ta chấm hết, G! Họ đã tới trường và ăn thua đủ
với tôi! Tôi không thể tiếp tục như thế này! Giờ cậu hãy tới chỗ bố và mẹ cậu
và làm như họ đã bảo, vì cậu và tôi không còn là gì với nhau nữa!” Tôi cảm thấy
như máu đang phun ra khỏi cơ thể. Nước mắt tràn trề trong mắt tôi.
“Cậu nói thật đấy chứ?” Hồi lâu đằng kia mới có câu
trả lời.
Tôi đưa mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn thảm cỏ xanh, những
cái bóng của các tòa nhà cao, tia mặt trời sáng trắng, và đột nhiên tôi cảm
thấy mình sắp ngất.
Tâm trạng tôi trong những ngày đó giống như cọng củi
khô, gặp lửa là bùng lên, vì bất cứ chuyện gì. Có những lúc tôi chỉ muốn cầm
dao đi tìm hai kẻ đó. Tôi chưa từng giết ai, chưa từng thấy ai bị giết, nhưng
tôi cảm thấy mình đã tỏ ra kìm nén một cách đáng khen. Còn thái độ thụ động,
lãnh đạm của G chỉ làm tôi điên giận và lo lắng.
Đôi khi điện thoại vang lên trong đêm, và tôi bàng
hoàng thức giấc, tim đập thình thịch, sợ rằng đó là bố mẹ G, phải, họ đang trên
đường tới, muốn nói chuyện với gia đình tôi, để làm cho ra nhẽ. Tôi chẳng thể
làm gì nổi.
35. LẠI MỘT KẺ HÈN NHÁT NỮA
Sáng sớm, trời lạnh.
Tôi trông thấy Lộ Dịch bên ngoài tòa soạn, cô ta đeo
kính râm, có vẻ phấn khởi. Có gì lạ đâu: Cha mẹ thông cảm, bạn trai giàu có, là
kẻ nhẹ nhàng dễ dãi, mọi thứ đều xuôn sẻ theo ý cô, một kẻ thuộc cung Thiên
Bình điển hình.
Tôi không hiểu vì sao, nhưng đột nhiên cảm thấy trào
dâng mong muốn được đi học lại lớp mười một. Có thể tôi đang chạy trốn một điều
gì đó. Tôi bảo với mẹ rằng mình muốn đi học lại. Tôi gọi cho tất cả những người
quen để bảo rằng mình sẽ đi học lại, và tất cả họ đều kêu, “Tuyệt lắm!” Họ còn
bảo lẽ ra tôi phải làm thế lâu rồi, và tôi cần học những thứ mới, hay ít nhất
là lấy được cái bằng để làm cơ sở nếu tôi còn muốn tiếp tục sự học.
Chỉ có một người phản đối, đó là G. Cậu bảo, “Vì sao
cậu lại phải học ở cái chỗ đó? Hãy suy nghĩ cho kĩ trước khi quyết định.” Cậu
biết tôi ghét ngôi trường đó, và tôi phải suy nghĩ mọi chuyện cho thấu đáo.
Tôi lại còn gọi cho các bạn cùng lớp cũ và bảo họ
rằng tôi đang định trở lại trường. Đầu tiên là Tạ Tư Nghê, nhưng cô ta đi vắng,
đi vui vẻ ở đâu đó. Trần Húc thì có nhà, và cô ta khoe mình xếp thứ nhất ở kỳ
thi đầu vào của khóa đào tạo văn phòng. Tạ Tư Nghê, Thôi Hiểu Dịch cũng đã đỗ.
Đỗ Viện thi vào khoa thương mại. “Điểm cô ta như thế thì làm sao mà vào được
lớp văn phòng?” Trần Húc nói với vẻ khinh thị.
Tôi chờ 20 phút rồi quay lại số của Tạ Tư Nghê, cô ta
nhận ra ngay giọng tôi. “Gia Phù à…”
“Mình đấy,” tôi bảo. “Mình sẽ đi học lại.”
“Tớ biết là sẽ thế mà.”
“Tại
sao vậy?” Tôi hỏi.
“Chẳng
sao cả. Cậu trở lại, tuyệt lắm. Vào khoa nào?”
“Mình
chưa biết, chỉ biết là phải học lại năm lớp mười một.”
“Ê,
một khi đã trở về trường rồi, thì điều đó có nghĩa gì đâu? Thế này thì chúng
mình sẽ được gặp nhau luôn.”
Đêm
đó tôi mơ một giấc mộng, mơ toàn về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Tôi cứ
loay hoay chuyển từ trường nọ sang trường kia, nhưng chẳng thể nhớ được điều gì
về chúng, ngoại trừ một người, Tạ Tư Nghê. Cô ta là tất cả những gì tôi nhớ
được. Tôi thực sự mất trí. Tôi không thể nhớ gì, không thể nghĩ ngợi được gì,
ngoại trừ một nhân vật cứ choán hết tâm trí, Tạ Tư Nghê, Tạ Tư Nghê.
Một
tuần trước ngày trở lại trường, tôi tự nhủ với mình đã đến lúc phải bình tĩnh
lại. Tôi lôi ra đống quần áo tập thể dục, đồng phục, nơ, khăn trải bàn, những
thứ cần có ở trường. Tôi hình dung lại phải dậy từ lúc 6 giờ 30 hàng sáng.
Sáu
tháng qua cứ như một giấc mơ. Phiêu diêu. Tôi hi vọng đã không hoài phí thời
gian, rằng tôi đã hoàn thành được vài thứ mà tôi mong muốn.
Tôi
nghĩ tới những gì mình đã làm trong thời gian đó, những gì tôi được và những gì
tôi mất. Có vẻ tôi đã mất nhiều mà chẳng được bao nhiêu. Tôi nhuộm tóc, viết
vài ba bài luận, chưa biểu diễn buổi nào, chưa viết tiểu thuyết, bị chửi rủa,
trở nên mạnh mẽ, khó ngủ, lăn qua lăn lại trong đêm, hết giận dữ tới sợ hãi rồi
thù hận. Tôi đã nghiện McDonald, đã khám phá ra vài nhãn quần áo rất hợp với
mình, và biết rằng trong bộ trang điểm của mình vẫn còn thiếu bút chải mi và đồ
dưỡng tóc.
Ngay
trước khi tôi trở lại trường, trời đổ mưa phùn vài ngày không dứt. Tôi phải đi
làm vài cuộc phỏng vấn, lúc nào cũng ở những chỗ lạ. Tôi bẩm sinh là kẻ chẳng
có tí giác quan nào về phương hướng. Ngày cuối cùng, tôi ngồi bên cửa sổ tầng
hai, ngắm nhìn đám cây cối, những con tàu điện đang bò lại bò qua, ánh đèn của
chúng và những bóng người mờ ảo. Một bó lưu ly đỏ tía và một bông hồng ủ rũ
trang trí cho cái bàn. Vì lý do nào đó mà tôi chẳng bao giờ gặp may với đám hoa
đã cắt cuống. Tôi mua chúng hôm nay và ngày mai thì nhìn chúng héo.
***
Buổi
sáng đầu tiên trở lại trường, tôi mặc bộ đồng phục lùng thùng – áo trắng với
cái quần bắt buộc – tóc tôi trở lại màu đen, đương nhiên là nhuộm, chân mang
giày vải xanh. Tôi thấy mình có đi đâu, làm gì cũng được, chừng nào vẫn còn đi
giày vải Converse, tôi vẫn còn dễ chịu. Một lần nữa lại phóng xe đạp xuống
đường Vành Đai Ba, trong lòng ngập tràn cảm xúc; sáu tháng qua tôi ít đi con
đường này, cố tình tránh nó và tác động tình cảm của nó đối với tôi. Đường đang
sửa chữa, bụi bay mù.
Trường,
đó vẫn là nơi thật xa lạ, dù tôi thường nhớ đến nó trong mơ. Mọi thứ có còn như
cũ? Giống như lần đầu tiên, tôi dắt xe đạp qua cánh cổng. Chủ nhiệm Vương chỉ
vào tôi và bảo, “Em kia, đưa xe sang bên kia. Em là học sinh mới?” Khi nhận ra
đó là Đại Lão Vương, tôi gần như nín thở, không dám trả lời. Hi vọng ông nghĩ
tôi là người mới, tôi liền ngoan ngoãn làm theo. Tôi không được coi là một học
sinh kỉ luật, và các giáo viên có lẽ đã thấy tên tôi.
Tôi
gặp vài đưa bạn cùng lớp cũ, Trương Nham, Vu Đông, và họ nhìn tôi bằng cái nhìn
hài hước. “Gia Phù, cậu trở lại trường ư?”
Tôi
gật đầu và mỉm cười gượng gạo. “Phải, học lại lớp mười một.”
Họ
chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên quá, như thể đã biết. “Thế, lúc nào lên lớp bọn tớ
nhé! Ở tầng ba của nhà mới ấy.”
Mẹ
và tôi, kẻ trước người sau, cùng bước lên lầu. Tôi nhìn quanh, tất cả đều quen
thuộc. Đám con gái mặc đồng phục, đeo nơ đang quét tước trong sảnh; tôi đã từng
là một trong số đó, như thể tôi đến đây để lao động chứ không phải để học.
Chúng tôi bước vào Phòng Giáo dục Chính trị và nhập vào đám phụ huynh cùng học
sinh đang chờ đợi. Bà chủ nhiệm Lý đang đứng giữa cả đám, quá bận bịu để mà
nhận ra chúng tôi sau một thời gian dài. “Gia Phù,” cuối cùng bà ta gọi, kéo
dài giọng. Mẹ và tôi tiến tới trước người đàn bà lùn đang làm cái mặt dài ra và
nói tướng lên, “Tôi hôm nay rất bận, không có thời gian cho hai người được. Hãy
đến gặp tôi vào mùng hai tháng Chín, ngày bắt đầu năm học.” Tôi bước ra khỏi
văn phòng và thở ra nhẹ nhõm. Ít nhất ngày hôm đó tôi không phải ở lại trường.
“A,
kìa, phải Gia Phù không? Gia Phù!” Đó là hai cô bạn cùng lớp cũ, A và B. Trông
bọn họ thực sự vui mừng khi gặp lại tôi. “Này, Gia Phù, cậu trở lại ư? Cậu ở
lớp nào? Lớp mười hai à?”
“Không,”
tôi đáp, “lớp mười một. Nhưng mình chẳng biết thuộc khoa nào. Mình thấy thương
cho cái khoa nào vớ được mình đấy.”
Mẹ
và tôi trở lại Trường Trung học Tây X vào bảy giờ sáng ngày mùng hai tháng
Chín. Chủ nhiệm Lý bảo tôi được phân về lớp mười một số 7. “Đó là lớp tốt nhất
ở đây, và tôi để em vào đó với sự chiếu cố đặc biệt. Đó là lớp Đào tạo Nghiệp
vụ Thư ký Giao tế đối ngoại. Em phải học cho tốt học kỳ này,” bà nói nghiêm
nghị. “Và không được đến muộn hay vắng mặt.” Trong lúc cô nói, các giáo viên
vào phòng để viết báo cáo. Giáo viên Chính trị, tên là Tỉnh, bảo với Chủ nhiệm
Lý rằng buổi lễ khai giảng sắp bắt đầu. Ông này chẳng thay đổi gì cả, và bỏ đi
mà không nhìn tôi. Tôi nhận ra một chồng Sách Hướng dẫn Giáo viên Chủ nhiệm
trong góc phòng, đang chờ để được phát. Có một dòng trên bìa sách như sau: “Chủ
nhiệm nhỏ - Trách nhiệm lớn.” Tôi gượng gạo mỉm cười.
“Em
sẽ không được vi phạm những nội quy của nhà trường… Em kẻ lông mày à?”
“Em…”
“Khi
về thì phải lau đi, lần sau còn thế nữa sẽ bị trừ điểm. Bây giờ thì viết bản
cam đoan, điền vào cái mẫu cam kết để được nhận học. Em chờ ở đây đến khi tôi
trở lại.”
Tôi
đứng đó, lặng lẽ ngắm cái mẫu cam kết. trong đó nói rằng nhà trường có quyền
đuổi bất cứ học sinh nào vi phạm nội quy. Tôi đọc cẩn thận, rồi ký tên – Gia
Phù. Trong nửa năm qua tôi dường như quên hẳn cái tên thật của mình. Tên thật
của mình, bởi “Gia Phù” quá gắn với nhà trường, là nơi tôi muốn lánh xa càng
nhiều càng tốt, để khỏi phải nghĩ về những thứ khó chịu ở đó. Mẹ tôi đứng bên cửa
sổ, nhìn lá cờ được kéo lên biểu thị năm học mới bắt đầu, lắng nghe bài “diễn
văn dưới cờ.” Tôi tự hỏi mẹ đang nghĩ gì? Có lẽ bà đang nghĩ bọn trẻ nhà khác
tới trường trông mới tích cực và tràn trề sinh lực biết bao, trong khi con bà
lại là đứa như tôi. Tôi không biết mẹ đã đương đầu với sáu tháng vừa qua ra
sao, hay đã cùng bố tôi đau khổ thế nào?
Nghĩ
ngợi như thế, tôi viết hết bản cam đoan:
Kính
thưa cô Chủ nhiệm Lý và Ban Lãnh đạo nhà trường:
Em
xin hứa sẽ tuân theo mọi qui định và phép tắc của nhà trường, sẽ học tập chăm
chỉ, giữ gìn kỉ luật, đến lớp đúng giờ và không về sớm, quyết tâm thi đỗ tốt
nghiệp. Nếu vi phạm một trong những điều trên, em xin chịu mọi hình thức kỉ
luật của nhà trường.
Cô
Chủ nhiệm Lý trở lại cùng một phụ nữ trẻ mà cô giới thiệu là giáo viên ngữ văn
của lớp mười một số 7, tên là Miêu Thanh, chủ nhiệm mới của tôi. Cô này tóc
ngắn như con trai, người vừa bé vừa lùn, mỏng manh như không chịu nổi gió;
trông cô như cô giáo vườn trẻ, là điều mà sau này tôi thấy rất chính xác. Miêu
Thanh chằm chằm nhìn tôi bằng đôi mắt to của cô. “Em là Gia Phù, phải không?
Tôi đến để đón em vào lớp mười một số 7. Sao chúng ta không cùng về văn phòng
tôi nói chuyện?” Mẹ và tôi theo cô giáo ra khỏi phòng phó hiệu trưởng, tới
phòng giáo viên hướng nghiệp, nơi chúng tôi lại được vài giáo viên nữ khác dò
xét nhìn ngó.
“Xin
mời ngồi. Đây, em ăn kẹo này đi.” Miêu Thanh kéo hai cái ghế cho mẹ và tôi rồi
chìa ra một gói kẹo hỗn hợp. Cô nói đó là một cô giáo mới lấy chồng. Tôi biết
ngay là cô muốn gây thiện cảm với tôi, nhưng tôi hơi kháng cự. “Gia Phù, cô
nghe là em được vào lớp mười một từ học kỳ một. Vậy tại sao lại bỏ?” Thế có
nghĩa Chủ nhiệm Lý chưa bảo cho cô biết vì sao tôi bỏ học giữa năm.
Trước
khi tôi kịp đáp, mẹ tôi đã nhảy lên: “Ồ, đó là vì sức khỏe… Sức khỏe của cháu…”
“Thế
còn bây giờ?”
“Giờ
em đỡ rồi,” tôi nói.
“Ồ.”
Cô cũng chẳng xoáy thêm vào chuyện đó.
“Bác
mua sách cho cháu cho học kỳ này chứ?” Miêu Thanh hỏi, ngước nhìn mẹ tôi.
“Em
có thể dùng sách từ năm ngoái được không?” Tôi nói.
“Có
một vài thay đổi, vậy nên tốt nhất là bác nên mua một bộ sách mới,” Miêu Thanh
gợi ý, cái nhìn tỏ vẻ quan tâm.
“Vâng,
có lẽ vậy, nếu có những thay đổi...” Mẹ tôi không còn biết đằng nào mà lần, và
nhà trường chỉ còn nước mừng rỡ khi kiếm được ít tiền của một trong số học trò
của mình.
Ngữ
văn là tiết đầu của tôi, được cô chủ nhiệm dạy.
Chúng
tôi cùng lên tầng ba. Lớp cũ của tôi. Các học sinh ngừng làm mọi thứ và căn
phòng trở nên yên ắng khi tất cả nhìn chúng tôi chằm chằm.
“Tôi
xin giới thiệu với các em một bạn học sinh mới, Lâm Gia Phù. Gia Phù từng học
nửa năm ở lớp mười một số 6. Chúng ta cùng chào mừng bạn ấy.”
Cả
lớp vỗ tay mừng.
Tôi
bước tới cuối phòng và ngồi vào một cái bàn trống. Cô Miêu viết chương trình
của cả học kỳ lên bảng. Đó sẽ là một học kỳ chán ngắt. Chúng tôi sẽ phải học
ngữ văn, toán, tiếng Anh, chính trị, tài chính và kế toán (môn mới), rồi thì
học trên hội trường, họp lớp, kĩ năng thư ký, cắm hoa (môn mới), tin học, tiếng
Hán, thể dục, thư pháp, và những tiết kĩ thuật hàng ngày. Không lịch sử, không
âm nhạc, không vật lý, không hóa học.
Khi
hết giờ, mọi người đều vây lấy, hỏi tôi vì sao tôi không ở lớp trên. Tôi bảo họ
đó là bởi vì lúc đầu tôi định đi học nước ngoài, nhưng lại gặp rắc rối khi xin
visa, mất bao thì giờ khiến tôi phải học lại năm lớp mười một. Tôi cũng bảo họ
tôi thấy vinh hạnh biết bao khi được phân về một tập thể ưu tú và sẽ không làm
gì để ảnh hưởng tới danh tiếng của lớp, linh tinh linh tinh. Tôi có thể thấy họ
đều tin những gì tôi nói, thậm chí còn có vẻ ghen tị - lẽ ra tôi đã ở một
phương trời ngoại quốc nào đó nếu người ta không từ chối cấp visa cho tôi. Có
lẽ họ cũng sung sướng khi thấy tôi gọi lớp họ là một tập thể ưu tú.
Nói
ra sự thật không bao giờ là ý định của tôi.
Số
con trai trong lớp ít một cách trầm trọng so với năm trước của tôi, chỉ có hai.
Một tên là Hà Vũ, lớp trưởng; người kia là Triệu Nhất Nam, có chân trong đội
thể dục. Phải mất vài ngày tôi mới quen với họ. Ngồi bên trái tôi là một cô gái
hơi béo, tính tình trầm lặng, cô đeo kính và có làn da nhợt nhạt bất thường.
Bằng một cái giọng như tiếng muỗi vo, cô ta bảo tôi tên mình là Vương Tuệ.
Có
ba cô gái trong lớp muốn kết bạn với tôi ngay lập tức. Là Kỉ Tuyết Doanh hoạt
bát, Vương Tử Kỳ, người trông như con búp bê và chẳng bao giờ có chính kiến về
bất cứ chuyện gì, và Tống Lôi nhạt nhẽo. Họ cũng dễ thương, nhưng tôi không
khỏi nghĩ rằng học sinh lớp này chẳng bằng các bạn lớp cũ của tôi, cả về hình
thức lẫn cái đầu. Những người này chỉ thích những cửa hàng như Kim Tinh hay
Thiên Thành, và không bao giờ chán miệng với những câu như, “Gia Phù, đoán xem
cái ba lô kia giá bao nhiêu?”
Tôi
liếc nhìn nó, “Năm mươi chăng?”
Lắc
lắc cái túi một cách đắc thắng, họ kêu, “Sai. Hai mươi.” Rồi vài ngày sau, tôi
lại nghe thấy, “Gia Phù, đoán xem cái hộp bút này giá bao nhiêu?”
Tôi nhìn qua. “Hai mươi.”
“Sai,
năm tệ!”
Nếu
khi đó tôi hỏi, “Cậu mua ở đâu vậy?” – mọi người thảy đều kinh hãi. Ở Kim Tinh,
Thiên Thành hay Vạn Thông chứ còn đâu nữa! Một vài kẻ gàn dở hơn còn nghe
H.O.T., nhưng chẳng ai có đọc báo hay tạp chí. Nhớ lại lớp cũ của tôi, nơi tất
cả mọi người đều đọc Nhạc Hiện đại và Thụy Lệ… mà thấy buồn muốn khóc. Đó là
chưa kể tới Thôi Hiểu Địch, người còn mua cả tờ Cuối tuần Miền Nam và Thanh
niên Bắc Kinh Nhật báo. Làm thế nào mà tôi lại rơi vào một nơi ngớ ngẩn chết
tiệt như thế chứ?
Đến
buổi trưa, tôi lấy hộp cơm ra và đi xếp hàng ở nhà ăn cùng với mọi người. Đỗ
Viện, vẫn mặc đồng phục, đứng ở ngưỡng cửa để theo dõi kỉ luật. Giờ đây, cô ta
học lớp trên, và tôi nghe các cậu lớp mười một nói về cô ta, rằng cô là “hoa
khôi trong trường”. Tất cả đám con gái tuổi tôi thường kêu cô ta là kẻ dễ dãi.
Khi tôi đi ngang, cô nhìn tôi và thân mật gọi, “Ồ, cậu đấy à, Gia Phù.”
“Chào,”
tôi đáp. Trông cô lúc nào dễ chịu, cặp giò còn thon thả hơn trước. Lông mày cô
kẻ mảnh, mái tóc che kín nửa khuôn mặt.
Tôi
ngồi ăn trưa cùng Kỉ Tuyết Doanh, Vương Tử Kỳ và Tống Lôi. Những học sinh khác
cũng ngồi thành nhóm quanh nhà ăn, ngoại trừ Vương Tuệ, đang cúi đầu ngồi ăn
một mình. Tôi hỏi Kỉ Tuyết Doanh tại sao vậy, cô ta thì thầm rằng chẳng ai
thích ăn cùng Vương Tuệ, rằng cô này hơi lập dị. Cô ta chẳng mấy khi mở miệng
ra, Kỉ Tuyết Doanh rúc rích cười bảo.
Sau
bữa trưa, tôi xuống tầng xem bảng thông báo, xem danh sách các học sinh “ba
tốt”, ảnh các lớp tiên tiến và triển lãm kĩ năng hướng nghiệp. Có bức hình chụp
Đỗ Viện với Chủ nhiệm Vương, Chủ nhiệm Lý. Cô ta mặc cái áo choàng trắng muốt,
miệng tươi như hoa nở, thật trẻ trung. Phía dưới bức ảnh có viết: “Đỗ Viện, chủ
nhiệm câu lạc bộ văn học và nghệ thuật học sinh, người luôn tích cực tham gia
các hoạt động của nhà trường, luôn phấn đấu vì lợi ích của trường,” và cứ thế.
Cô ta đã thành ra cái thứ rác rưởi đó từ khi nào vậy?
Hai
tiết tin học đã được lên lịch cho buổi chiều, đó là môn tôi ghét nhất vì tôi gõ
ký tự trên máy tính rất chậm và bởi vì tất cả phải làm trên một mảnh máy móc vô
hồn. Thầy giáo mới của tôi không tồi, khả dĩ hơn cô Vương nhiều. Cô này đang
nghỉ đẻ, nếu không thì sẽ rắc rối to khi phải thấy cô. Tôi quyết định sẽ học
tập chăm chỉ.

