Búp bê Bắc Kinh - Chương 36 - 37 - 38 - 39 - 40
36. TRÊN BẦU TRỜI VÀNG
Sau
buổi học hôm đó, tôi trông thấy một cậu trai trẻ nhuộm tóc đi xuống phố, bộ ván
trượt khoác sau lưng. Tôi phân vân không biết có quen cậu ta không, thế là tôi
đi chậm lại, khi tôi quay sang nhìn thì cậu ta cũng nhìn thẳng vào tôi. Đó là
một cậu Nhật Bản, nước da trắng với những vệt sẫm quanh mắt. Bỗng chốc, tôi
thấy muốn nói hay làm một điều gì đó, dù không biết là gì, thế là tôi phóng đi.
Pha
lê, tay trống của chúng tôi, đã bỏ đi. Biến mất, tan biến vào một chốn xa xôi.
Giữa hiện thực và lý tưởng, anh đã chọn hiện thực. Đó là tính cách anh, và có
lẽ anh đúng, nhưng đó không phải là lựa chọn của một con người mơ mộng. Chuyện
đó chẳng có gì sai, chỉ là anh không giống chúng tôi.
Những
ngày đầu tiên trở lại trường chậm chạp trôi qua. Các thầy cô của tôi thì phiền
phức, ngột ngạt và mô phạm, chẳng ai trong số họ gây cho tôi chút hứng thú.
Miêu Thanh dạy ngữ văn – đúng hơn là cô giết ngữ văn. Trong tất cả các tiết văn
mà tôi đã học, từ khi còn là một đứa trẻ và có hàng ngàn tiết như thế, tôi chưa
bao giờ phải học thứ gì buồn chán hơn! Mỗi tiết bắt đầu bằng việc đọc từ mới,
sách giở ra trước mặt theo yêu cầu. Trong quá khứ, các giáo viên văn thường để
tôi làm những việc khác trong giờ của họ, như đọc truyện, viết báo, cùng những
thứ tương tự, khi họ thấy tôi biết hết bài giảng và thường đứng đầu trong thi
cử. Tôi đã nghĩ cô Miêu Thanh cũng thấy tôi có khả năng trong môn văn mà chừa
tôi ra. Nhưng tôi ngạc nhiên quá khi lần đầu lôi ra một quyển tạp chí trong
lớp, để dưới gầm bàn và bắt đầu đọc thì cô liền nhìn tôi không dứt và bảo rằng
chúng ta phải cùng làm những gì cả lớp đang làm và không được vi phạm nội quy…,
điều làm tôi phát tởm. Từ giây phút đó, tôi chả còn hi vọng gì về cô.
Tôi
đã không đến trường nhiều ngày khi nhận ra có chuyện gì đó buồn cười giữa Miêu
Thanh và lớp trưởng Hà Vũ. Không phải việc cậu này là cánh tay phải hay trái
của cô, nhưng họ như có quan hệ riêng tư. Bên cạnh đó, “tập thể ưu tú” này còn
có những phép tắc, lề luật khiến đầu bạn muốn vỡ tung: Lớp mười một số 7 không
bao giờ mất điểm hàng tuần về nền nếp, lúc nào cũng đứng thứ nhất, là niềm cảm
hứng cho tất cả. Học sinh của lớp thà ngồi bàn học cả ngày còn hơn mất đi một
điểm. Hà Vũ là kẻ được ngợi khen nhất vì thái độ mẫu mực này. Cậu ta và Miêu
Thanh là hai người duy nhất có quyền lãnh đạo và phát ngôn cho lớp. Bảo rằng
một ngày ở lớp này dài bằng một năm e rằng nói quá, nhưng nói một tháng bằng
một năm thì chẳng quá tí nào. Tôi bắt đầu nhớ năm học đầu tiên của tôi ở trường
trung học; nếu được trở lại thì tôi sẽ kiên nhẫn hơn… nhưng không. Thế thì đã
không phải là tôi nữa.
***
Trở
lại trường, tôi lại phải lần nữa trải qua khóa học quân sự dài cả tháng, cứ mỗi
học kỳ một lần của Trung học Tây X.
“Kể
từ hôm nay, phải đến trường lúc 7 giờ 30, ai trực nhật thì trước 7 giờ mười.
Chúng ta tập trung dưới nhà.”
Tôi
thấy xây xẩm cả người.
Nhưng
tôi vẫn tuân thủ, sáng dậy đúng 7 giờ 15, rồi đi xuống tầng cùng với lớp để tập
đội ngũ. Tôi không bỏ buổi nào, đây là khóa quân sự đầu tiên của tôi. Chủ nhiệm
Lý ắt phải hài lòng khi thấy tôi với quyển sách mở ra mỗi lần đi kiểm tra bài
mỗi sáng. Khối mười một do cô quản học kỳ này, và có lẽ tôi là vấn đề lớn nhất
của cô trong số tất cả học sinh, dù tôi rất cố không gây phiền cho cô.
Nhưng
tôi ngạc nhiên thấy Miêu Thanh chẳng hề hài lòng. Cô có lẽ không biết tới những
rắc rối trước đây của tôi. Có thể hoặc bởi cô cứng nhắc không thể tưởng được.
Cô không thích rằng tôi cứ phút cuối cùng mới đến trường, dù thế chẳng có gì
sai, và lớp số 7 cũng chẳng vì thế mà mất điểm. Cô có thói quen – nói chuyện
này nhưng lại cay cú chuyện khác. Tất cả mọi người trong lớp hiểu tôi là mục
tiêu, nhưng cô chẳng báo giờ gọi đích danh cái con bé hư hỏng ấy, học sinh mới
của lớp.
Chúng
tôi không được phép mang ở bên ngoài vào trong lớp. Và chúng tôi không được gục
đầu lên bàn trong giờ tự học. Không được viết thư. Không đọc tạp chí. Hà Vũ đảo
mắt khắp lớp hết lượt này rồi đến lượt khác. Nhục nhã quá chừng. Mấy hôm sau,
Miêu Thanh gọi tôi ra, bảo không nên đi giày vải màu đỏ, hồng hay vàng, và rằng
nhà trường quy định chỉ đi giày đen, trắng, xanh cùng các màu giản dị khác.
Trước đây không ai nói gì về giày vải của tôi, và tôi chợt nhớ tới hình ảnh đám
học sinh trong đôi giày Triều Tiên đỏ thật nổi mà họ vẫn đi hàng ngày. Nhưng đã
rơi vào một cái trường như thế, tôi còn có gì để nói?
***
Một
hôm Vương Tuệ viết cho tôi:
Chúng
mình nói chuyện tí đi.
Cậu
kể rằng cậu đã phỏng vấn vài người đua xe, điều đó khiến mình nhớ tới một người
bạn cùng lớp học trung học, một người ghiền xe đạp đến mê mẩn. Cậu bảo họ chẳng
đẹp trai, nhưng mình nghĩ bạn mình trông không tồi. Cậu ấy bảo mọi người tập xe
bằng những chiếc xe tốt, nhưng cậu ấy thì cưỡi một cái vừa cũ vừa xộc xệch đến
long cả xương ra. Điều đó chẳng dễ tự dàng gì. Trong một buổi hội lớp, cậu ấy
đã biểu diễn kĩ năng cho chúng mình xem. Cậu thì đã được xem nhiều tay đua nhào
lộn. Mình cuộc là trông họ rất ngoạn mục.
Mình
còn nghĩ cậu được sống một cuộc sống phong phú hơn mình. Cậu có ban nhạc riêng… Nhưng cậu lúc nào cũng kêu
chán, và rằng sống trong thế giới này buồn chán kinh khủng. Đó là một cách nhìn
đời ảm đạm. Về cái trường này thì mình biết… cậu có quan điểm riêng, và mình
cũng khá đồng tình. Nhưng ngoài kia còn có bao điều vui và thú vị, cậu có thấy
không? Như ban nhạc của cậu ấy. Rời trường, cậu lại là người tự do. Đồng ý rằng
đây là một nơi vô vị, nhưng ai có thể làm gì được?
Tôi
viết lại cho cô, và chúng tôi bắt đầu trao đổi thư từ gần như hàng ngày. Một
hôm, Vương Tuệ giơ ra một quyển sổ mới tinh và đề nghị tôi viết vào đó. Chúng
tôi bắt đầu ăn trưa cùng nhau, và cô không còn lẻ loi nữa.
Mình
thấy rằng ai cũng có vấn đề. Mình cố học vì mình muốn thi đại học. Trong cái xã
hội này, không có bằng cấp thì chẳng đâu người ta nhận. Thật ra mẹ mình không
muốn mình đi thi. Cha mẹ mình ly dị nhau cho nên lương mẹ phải nuôi cả hai, còn
học phí thì cao quá. Nhưng rồi mẹ cũng bảo cứ đi thi thử. Mẹ là người tốt, mình
thì thấy có lỗi bởi tất cả gánh nặng của mình đổ lên vai mẹ.
Vương
Tuệ bảo rằng cô và mẹ sống được, vui vẻ hơn trước đây, dù giờ đây cô béo lên và
không gầy đi được. Cô nói cô là một cô gái nhạy cảm, việc gì cũng để trong
lòng. Cô không phải là người thích im lặng suốt, nhưng bởi vì xã hội cứ lợi
dụng những người không nói cái điều mà họ cần nói.
Nói
chuyện với Vương Tuệ (chúng tôi chỉ trao đổi vài câu mỗi ngày, nhưng thường
xuyên viết trên giấy cho nhau), tôi biết được rằng chúng tôi cùng tuổi, và hồi
còn nhỏ cô đã nghỉ học vì bệnh nặng, rằng cô thích thư pháp, và là người hướng
nội. Tôi hỏi cô nghĩ gì về lớp ta và nhà trường nói chung.
Mình
từng cố thi vào trường trung học thường, nhưng không đỗ, thế là phải vào đây.
Mình đã muốn bỏ, nhưng nhà mình đã mất quá nhiều tiền cho mình ở đây. Mình ghét
cái trường này. Và mình không nghĩ đám bạn lớp này tử tế bằng các bạn thời cấp
hai của mình. Một vài còn ích kỉ. Có vài người tốt, nhưng chẳng nhiều.
Năm
ngoái cô Miêu Thanh và Hà Vũ mới làm cùng nhau (khi cậu ta là học sinh năm thứ
hai), mình nghĩ họ còn hơn là bạn bè. Đó là những gì mình nghĩ về cái lớp này,
nhưng làm gì được?
Tôi
mơ tôi giết Từ Quyên, ngay trong phòng học, có người nhìn thấy. G cũng ở đó.
Tôi ghét bà ta, và chửi rủa trong khi thọc dao vào cổ bà ta. Cái đầu bà ta gục
xuống sàn. Tôi rất khích động. Tôi chạy tới chỗ G và bảo, “Cuối cùng tôi đã
giết bà ta, bởi ghét bà ta quá, tôi sẵn sàng hi sinh đời mình để kết liễu đời
bà ta!” G hoan hô tôi. Cả lớp cũng làm theo cậu. Tôi cười sung sướng.
Tôi
gọi cho G và kể cho cậu nghe về giấc mơ, không sót điều gì. Thoạt đầu cậu chẳng
nói gì, cuối cùng thầm thì, “Chúng mình sẽ mãi mãi bên nhau.” Đó là điều cậu
muốn, nhưng chỉ nói thế thì chẳng làm tôi thanh thản.
Đó
là điều tôi ghét ở cậu, cái thái độ thụ động ấy. “Một ngày nào đó cậu sẽ hiểu
những gì mình phải chịu đựng vì chúng ta,” cậu nói. “Có những thứ thay đổi,
nhưng con người thì vẫn vậy.”Cậu đã phải trải qua điều gì vậy? Cậu ấy? Có phải
là sự nhẫn nhục và lặng im không cần thiết.
Cơn
mưa thu đầu tiên đã rơi.
Trong
cơn mưa đầu đó, tôi nhớ tới ánh nắng vàng ở quê tôi, phản chiếu trên những hạt
lúa vàng, những cánh đồng vàng và đám hoa cải vàng. Trong ký ức của tôi, quê
luôn có màu vàng, chan hòa ánh nắng và là nơi chốn hạnh phúc. Từ tuổi ấu thơ,
tôi đã mơ tới màu vàng đó, mong được nó sưởi ấm cơ thể…
Tôi
không biết làm thế nào tìm lại những đam mê đã mất, bởi những giấc mơ của tôi
chưa thành hiện thực, nên tôi vẫn còn là một kẻ non dại.
37. CỰC KỲ VÔ VỊ
Thứ
Ba là ngày hội thao của chúng tôi. Một ngày buồn chán nữa, như bạn có thể tưởng
tượng ra, may mà tôi còn có thể nghe nhạc bằng tai nghe. Để thi thử, chúng tôi
phải đến trường lúc 7 giờ 15, các ngôi sao điền kinh thì gần như phát cuồng.
Tôi đến trường đúng giờ, vẫn đang nhai cho xong. Sau hội thao, lịch trình lại
thay đổi để các tiết bắt đầu vào lúc 7 giờ 30. Tôi không hiểu vì cái quái quỷ
gì mà phải đến trường sớm thế, vì bài học sáng thường chỉ bắt đầu lúc 7 giờ 45.
Kỳ
nghỉ Quốc khánh của chúng tôi bắt đầu từ mùng một tháng Mười và tuần nghỉ của
tôi như sau: ngày một, đi chơi, vui vẻ; ngày hai, tập ban ở Huyện Thông; ngày
ba, đi chơi, dạo quanh Tây Đơn, đến tối cùng bạn đi mua loa; ngày bốn, một ngày
khốn khổ chết tiệt, chờ người gọi điện hay đến chơi, đến tối đi Phương Chu, gặp
Nước Nóng; ngày năm… tôi quên mất đã làm gì; ngày sáu, tập, G chán nản, tôi
cũng thế; ngày bảy, tới tòa soạn tạp chí.
Tôi
thực lòng ao ước được trở lại thời gian. Tôi sắp mười bảy, tuổi nhiều thêm lên,
và mọi đam mê của tôi cứ dần tan biến. Tôi tha thiết nhớ tới những lúc mình
mười một, mười hai, khi tôi còn là một đứa bé con. Tôi không biết lúc nào thì
mình thực sự là mình.
Vài
người đã hỏi tôi mơ đến điều gì nhất, và một lô những thứ điên rồ liền lóe lên
trong tâm trí: tiền bạc, việc làm, du lịch, nổi tiếng… nhưng tôi bảo rằng, “Tôi
mong được trở lại tuổi thơ.”
***
Tôi
có một giấc mơ điên rồ nhất. G và tôi đang đứng ở đường Nan Lễ Sĩ, bỗng một
trận gió thổi đổ xe đạp của chúng tôi và một cái ô tô lăn lên người tôi. Chúng
tôi chửi bới người lái xe, và bạn biết không? Đó là xe cảnh sát, và chúng tôi
lại phải trốn tránh luật pháp. Thế rồi một anh công an trẻ mê tôi, tôi cũng mê
anh. Hừm, một giấc mơ lãng mạn. Tôi cũng mơ tôi được trở lại thời gian. Trở lại
làng quê tôi, thấy ông bà mình là một đôi còn trẻ và tôi hỏi họ hôm nay là ngày
nào. Họ cho tôi biết ngày. Tôi lại hỏi đây là năm nào, họ đáp là năm 1922. Tôi
đã quay ngược đồng hồ! Phấn khởi quá, tôi chạy vào trong nhà, nơi anh tôi đang
ngồi trên cái giường lò, anh cùng một vài họ hàng nữa. Họ đang ăn tối. Tôi cầm
tay anh, và bảo, “Cuối cùng em đã trở lại thời gian, lúc này đây em đang nghĩ
đến anh. Em đã vặn ngược đồng hồ lại!” Xúc động, anh tôi bắt đầu khóc, và cả
hai chúng tôi đều cố cầm nước mắt. Khi tỉnh dậy vào buổi sáng, tôi chẳng thể
nào ra khỏi giường.
38. BỎ HỌC VĨNH VIỄN
Đến
mùa đông thì tôi lại muốn bỏ học. Tôi gọi cho Tiểu Thẩm, và anh ta rất phản
đối, không cần biết gì hết. Nhưng tôi thật sự muốn nghe ý kiến thẳng thắn của
anh. G bảo tôi nên bỏ, vì có thế nào tôi cũng chẳng học được gì ở đó.
Đó
là một quyết định thực sự khó khăn, và người Trung Quốc hay tránh phải quyết
định, ngay cả khi cuộc đời họ phụ thuộc vào đó, vì làm một quyết định thay đổi
số phận mình thì mệt hơn là nhắm mắt và chờ cái chết tới mang đi.
Tôi
nghĩ mình có quyền chọn một trong hai thứ: Sống tự do hay Chết.
Điều
đáng ngạc nhiên là cậu bạn Nhật của tôi, người có cái tên Trung Quốc là Thôi
Thần Thủy, gọi điện báo rằng tôi có thể ở chỗ cậu ấy. Điều đó thổi bùng lên
chút hi vọng còn lại trong tôi. Tim tôi xốn xang, một phần bởi cái dự định
tuyệt vời không thực tế, một phần bởi lòng tốt và sự quan tâm của cậu. Tôi bảo
Vương Tuệ có thể tôi sẽ thôi học và chuyển tới ở với một người bạn, rằng nếu
hôm sau không thấy tôi đến lớp thì đó là kế hoạch của tôi đã thành hiện thực. G
có vẻ không thích thấy tôi ở xa đến thế, nhưng tôi còn chọn lựa nào? Cậu không
thể giữ được.
Tinh
mơ ngày thứ Hai, tôi lăn ra khỏi giường, nhặt vài thứ quần áo, đôi giày vải
xanh mới, và bước ra, mặc đồng phục nhà trường, vai khoác ba lô, trong đó thậm
chí vẫn còn sách vở của ngày hôm đó. Tôi thay quần áo trong toilet của cửa hàng
McDonald và xịt tí nước hoa, nhưng trống ngực vẫn đập liên hồi. Tôi nhìn xuống
đống quần áo vô dụng trong tay và tự hỏi không biết có nên đưa ai đó giữ hay
chỉ đơn giản ném chúng vào thùng rác.
Tôi
thấy mình không thể nào suy nghĩ cho sáng suốt, đó là điều làm tôi chán nản.
***
Thôi
Thần Thủy đứng bên trái tôi, nghiêng người theo chuyển động của xe buýt, G đứng
bên phải, tay ôm ngang hông tôi. Đèn bên trong đã tắt, và ánh đèn ngoài phố cùng
những biển hiệu neon chiếu sáng khuôn mặt của tất cả hành khách. Những đường
nét trên mặt Thôi Thần Thủy mờ mờ. Cậu ta đang nói về một người bạn chung, kể
cho chúng tôi anh ta mới tuyệt làm sao, anh ta yêu bạn gái mình biết bao, rằng
khi đi đây đi đó anh ta đã viết vào nhật ký rằng, “Em, ngôi sao sáng nhất trong
các vì sao trên trời…” Thôi Thần Thủy diễn tả lại sự lãng mạn vô vọng của anh
kia khiến tôi bật cười.
“Còn
cậu là cái thứ rác rưởi gì?” Tôi mắng cậu ta.
“Cách
đây không lâu, tớ có cô bạn đến ở chung. Trời ơi, thật là kỳ dị,” cậu ta nói
bằng âm điệu Nhật. “Cô ta uống thuốc như điên, và lúc nào không có bạn trai thì
cô ta có liền gã khác… bạn trai cô yêu cô đến quẫn trí, và nếu biết cô đang làm
gì, anh ta sẽ phát điên.”
Thôi
dẫn chúng tôi đến khu nhà cậu ta, và nơi ở của cậu một trăm lần tốt hơn là tôi
tưởng. Nó đầy đủ mọi thứ, mọi tiện nghi của một ngôi nhà.
Buổi
sáng hôm sau, Thôi và G rời nhà lúc 6 giờ, trước khi đi, cậu bảo tôi có thức ăn
trong tủ lạnh. Tôi ngủ tới 8 giờ và không ngủ tiếp được nữa, dù vẫn nằm trên
giường, cảm thấy chán. Cuối cùng khi dậy, tôi không quên gấp chăn và vuốt phẳng
ga trải giường. Những người Nhật vốn ngăn nắp khủng khiếp trong hầu hết mọi
thứ. Đêm trước, sau khi tôi và G tắm xong, Thôi liền vào cọ rửa nhà tắm một hồi
lâu. Tôi rút kinh nghiệm. Tôi định sẽ giữ cho chỗ của cậu ta sạch sẽ gọn gàng
trong thời gian ở đó.
Tôi
xem trong bếp – chỉ có mì ăn liền và một ít mứt hoa quả. Tôi nhúng một gói mì
Ông Khang vào tô nước và làm một tách cà phê. Ăn xong bữa sáng nhanh, tôi chẳng
nhớ nổi phải làm gì tiếp.
Tôi
bật ti vi lên, lướt qua các kênh mà chẳng thấy cái gì đáng xem. Chán. Tôi nhìn
qua cửa sổ xuống mặt đất, và tất cả màu trắng đó khiến tôi nhẹ đầu. Tôi nghĩ
tới chuyện xuống tầng và đi dạo, nhưng rồi thấy chẳng hấp dẫn, thế là tôi nghĩ
tới việc gọi Thôi nhưng lại không biết nói gì với cậu ta.
Căn
hộ lạnh lẽo, vì lò sưởi chưa được bật lên. Tôi không chịu được lạnh, cái thứ
lạnh cứ lặn vào dưới da từng tí một. Nó làm tôi kinh hãi, khiến tôi co rúm lại.
Tôi muốn nghe một chút nhạc, nhưng lại không biết bật radio, đầu video hay dàn
điện tử của Thôi. Tôi cảm thấy như người bị đi đày, ngập tràn trong cảm giác vô
vọng bất hạnh, hay cái gì đó không diễn tả nổi thành lời. Tôi bắt đầu khóc cay
đắng.
Tôi
muốn về nhà.
G
trở về khoảng 7 giờ tối hôm đó. Cậu bắt đầu cằn nhằn từ khi bước vào cửa. Xe
buýt quá đông, đi mất hai giờ, và cậu thấy kiệt sức. Nếu không phải vì tôi thì
đã không mệt thế này…
Tôi
bảo G tôi muốn về nhà. “Đã nghĩ kĩ chưa?” cậu hỏi.
“Rồi,
tôi không thể ở trong căn phòng này lâu hơn nữa. Tôi sẽ phát điên. Chẳng có ai
để nói, chẳng có gì để nghe.”
“Với
bố mẹ cậu thì sao?”
“Tôi
không biết. Về đến nhà hẵng hay,” tôi đáp.
Tôi
để lại trên bàn ăn cái giấy cảm ơn Thôi Thần Thủy, cầm ba lô lên và bước ra.
39. NGƯỜI ĐÀN BÀ LO LẮNG
Đêm
đó tôi mở cửa nhà bằng cái chìa khóa của mình và đi thẳng về phòng. Bố mẹ đang
ngủ, không có ai dậy để la mắng tôi, đứa con gái hoang tàng. Tôi tự hỏi vì sao
ít ra họ không cố hiểu những phức tạp trong nội tâm tôi. Họ chẳng hề hay tôi đã
sợ hãi, đã tuyệt vọng ra sao.
Buổi
sáng đến, tôi nằm trong giường, đắm mình trong hơi ấm của chăn đệm. Hôm nay
chẳng đến trường đâu, tôi nghĩ. Nhưng tôi biết rằng cứ lang thang khắp thế giới
chỉ làm tôi suy nhược thêm, đến độ không còn đường trở lại.
“Mở cửa ra, Minh Minh.” Một tràng gõ cửa dồn dập lôi tôi
ra khỏi cơn mơ màng. Mẹ tôi đang gọi tôi bằng cái tên hồi nhỏ.
“Minh Minh, mở cửa, mẹ muốn nói chuyện với con.” Cánh cửa
nặng trĩu. Tôi không thể chịu nổi cái nhìn u tối trong mắt mẹ.
“Tí nữa mẹ sẽ đến trường con, thế con định ra sao? Mẹ sẽ
nói gì với họ?...”
Mẹ đã nói nhiều hơn nữa, nhưng tôi không nghe, có lẽ là
một phản ứng tâm lý. Đôi chút tôi nghe được cũng đủ để giết tôi. Tôi không thể
diễn tả được cái cảm giác bối rối, có tội mà tôi cảm thấy với người phụ nữ âu
lo đang đứng bên kia cánh cửa. Trước khi có thể nghĩ ngợi đâu ra đó, tôi đã
khiến cuộc sống của người khác trở nên khốn khổ.
“Mẹ bảo họ là con không đến. Chúng ta có thể tìm một lớp
tư thục mở rộng trong vài ngày tới.”
“Nhưng đó chỉ là ngắn hạn thôi. Con định làm gì sau đó?”
Tôi nhận ra nỗi buồn ẩn sâu trong câu hỏi của mẹ.
“Đến lúc đó hẵng hay.”
Bước chân mẹ lùi xa, cánh cửa sập lại, mẹ đã bỏ đi.
Tôi nằm lại và lo lắng nhìn ra bầu trời âm u ngoài cửa sổ
như một khuôn mặt mơ hồ, nhợt nhạt: một ngày mùa đông Bắc Kinh điển hình. Tôi
nhớ đến chuyện đã không được lãng phí một giây trong buổi sáng đến trường, trời
vẫn tối đã ra khỏi giường, và cái dải màu xanh vẫn còn chưa xuất hiện trên bầu
trời mãi tới những tiết học sau.
Không biết bao giờ thì mẹ về. Tôi nghĩ tới một người tên
là Trương Đông Húc, người đang viết một cuốn sách sắp xuất bản. Anh ta và tôi
trạc tuổi, cùng học trung học, và anh ta đã viết xong cuốn tiểu thuyết. Mọi
người sẽ mua và đọc nó, trong số đó sẽ có ít nhất một người thực sự thích nó.
Còn tôi thì bỏ học và bỏ nhà đi, chỉ để thấy rằng, lúc
nào cũng vậy, tôi chỉ là một kẻ tay trắng, cùng đường. Có một câu của Lỗ Tấn đã
nói lên tất cả: “Đời người khổ nhất là tỉnh cơn mơ để rồi thấy tương lai không
còn đường quay bước.” Làm thế nào ông ấy lại viết ra một điều đau lòng đến
thế?... Không có đường thì tôi sẽ tạo ra đường.
Tôi tự hỏi không biết mình có thể viết văn để sống?
40. CÔNG VIÊN HOA HỒNG
Khi tôi gọi cho Trương Đông Húc để hỏi về chuyện viết
lách, anh ta bảo tôi rằng mới chỉ viết lách lằng nhằng từ trong năm nay, đầu
tiên là những hình vẽ punk mà giờ đây anh thấy rằng khá ngốc nghếch. “Hoan hô
Punk: anh thậm chí còn phun dòng đó lên cái tủ cốc trong lớp!”
“Thật ư?” Tôi biết ở trường tôi mà làm thế thì sẽ bị đuổi
ngay. Dù mỉm cười nhưng tay tôi tê cóng, và tôi tự hỏi tại sao lại gọi cho anh
ta vào một ngày lạnh giá như thế? Chẳng có sự gần gũi hay hiểu nhau nào ta có
thể có được qua điện thoại – cố mà hình dung ra cuộc sống của ai đó sau một tấm
màn luôn là thứ làm bạn thấy bất lực và cô đơn. Trời lạnh khổ sở, gió dữ dội
thổi tới từ chân trời, khiến những cành cây giòn kêu răng rắc. Đột nhiên tôi
thấy rối bời tâm trí, khi tự hỏi không biết ở ngoài kia có gì có thể an ủi được
mình?
Đêm dần xuống, đêm mang đến sợ hãi và bóng tối, nhưng đôi
khi cũng mang đến cả những dấu vết bình yên.
Tôi cẩn thận bôi một chút dưỡng môi trong bóng tối, rồi
từ hình dung mình đánh giá mình qua con mắt một người đàn ông, một trò mà tôi
thấy say mê dù biết như thế mình là kẻ yêu mình quá đáng. Từ hồi còn nhỏ tôi đã
thích trang điểm bằng son phấn của mẹ và ngắm nhìn mình trong gương. Tôi thích
bôi những thứ kỳ diệu đó lên khuôn mặt, ngắm nó từ từ biến đổi thành một cái gì
độc đáo. Tôi thích những sắc thái sáng sủa đó, say mê những đồ của nước Mỹ thập
kỉ bảy mươi, một cầu vồng huyền ảo, những vệt sáng mượt mà, lấp lánh màu, xa
xăm, kỳ dị: kẻ mắt xanh lục, chải mi, phấn hồng với vàng, dầu bóng móng lấp
lánh. Tôi yêu và ngưỡng mộ chúng.
***
Trong ngày tôi còn gọi điện cho một người tên là T đang
cộng tác với tạp chí Gen X, người này trước đây là nhạc sĩ và nay viết phê bình
âm nhạc. Chẳng vì cái gì, chỉ là thấy muốn nói chuyện với anh ta.
Không ngờ anh ta có giọng nói rất dễ nghe, trong trẻo và
nhẹ nhàng. Chúng tôi nói chuyện về nhạc một hồi, anh hỏi tôi thích ban nhạc
nào, tôi làm gì, những thứ đại loại như vậy. Anh khen bài viết của tôi, rằng
anh đã đọc truyện ngắn “X X X” của tôi trong số ra mắt tạp chí. “Tôi thích
truyện đó, không tồi, không tồi chút nào.”
“Ồ, đó là của một cô khác, bài của tôi nằm bên phải
truyện đó,” tôi lịch sự cải chính.
“Thế ư? Tôi thực xin lỗi…”
“Không sao.”
Chúng tôi lại nói chuyện năm phút nữa, rồi anh bảo, “Sao
em không cho tôi số điện thoại nhỉ, lát sau tôi sẽ gọi điện, được không?”
T gọi lại khoảng tám giờ tối hôm đó.
Chúng tôi lại nói chuyện một lúc, và anh ta nói ra trò.
Tôi cứ nhìn đồng hồ khi nó chỉ từ tám tới mười giờ. Mỗi lần anh ngừng nói, tôi
lại liếc đồng hồ và thấy rằng ít nhất 15 phút nữa lại trôi qua. Tôi cảm thấy
anh ta có ấn tượng về tôi.
“Rồi em có nhớ đến tôi không? Ngày mai ấy?” anh ta hơi
lắp bắp, bóng gió về sự chờ đợi đơn côi.
“Em nghĩ là có,” tôi đáp. “Chúng mình hãy giữ liên lạc.”

