Ngôi nhà có ma - Chương 1 - 2

1.

Loài chuột nhắt chẳng bao giờ ý thức được cái bẫy
khi chúng lọt vào. Liệu có bao giờ chúng sa bẫy nếu chúng biết là người ta đã
giăng sẵn một cái chờ chúng hay không? Và ngay cả khi chúng bị mắc bẫy rồi mà
dường như chúng cũng không hiểu nổi chúng đang ở đâu và vẫn tiếp tục giãy giụa,
điên cuồng, thò cái mõm nhỏ xíu đầy râu ria của chúng ra khỏi những cái then sắt,
kêu chít chít chói tai trong một cố gắng tuyệt vọng hòng kiếm đường tẩu thoát.

Trái lại, khi con người bắt đầu tranh tụng, hắn hiểu
rất rõ rằng hắn đang bước vào một cái bẫy sập. Nhưng trong khi con chuột tranh
đấu thì con người lại bất động - dĩ nhiên chỉ thân thể bất động mà thôi; bên
trong - nghĩa là tinh thần - hắn hành xử giống hệt con chuột nhắt, nếu không tệ
hơn thế.

Quả thực đó là điều đang xảy ra với cái đám thân chủ
kia, người đầm đìa mồ hôi và bị ăn tươi nuốt sống bởi bầy ruồi nhặng và nỗi buồn
chán, đang ngồi vào buổi sáng oi nồng ấy trong phòng đợi của luật sư Zummo, chờ
đến phiên mình tham vấn ông ta.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com – gác
nhỏ cho người yêu sách.]

Không người nào rời khỏi ghế ngồi, nhưng những cái
nhìn đầy hờn căm sôi sục họ trao đổi với nhau khiến người ta không còn hồ nghi
gì về tâm tư họ. Người nào cũng muốn độc quyền giành luật sư cho riêng mình, và
người nào cũng cảm thấy rằng, với bao nhiêu là thân chủ thế kia để phải thẩm vấn
thì thời giờ dành cho tất cả bọn họ có được bao năm. Vả lại, với cái đám đông
lúc nhúc kia phải đương đầu, với cái nóng khiếp đảm 90 độ F trong bóng rợp này,
với biết bao nhiêu điểm dị biệt phải tranh luận, liệu tâm trí luật sư có còn
sáng suốt như vụ kiện đòi hỏi chăng?

Mỗi lần viên thư ký đang ngồi ở bàn ghi ghi chép
chép với một tốc độ điên khùng, liếc nhìn cái đồng hồ lớn trên tường, thì vài
ba thân chủ lại buồn bã thở dài, trong khi những người khác, mệt lả vì hơi nóng
và sự chờ đợi đằng đẵng, vẫn cứ dán mắt vào những kệ sách bụi bặm chồng chất giấy
tờ pháp lý - tai họa và sự tán gia bại sản của biết bao nhiêu gia đình bất hạnh.
Những người khác nữa, cố gắng tỏ ra lãnh đạm thờ ơ hờ hững thản nhiên, nhòm qua
những tấm màn che cửa sổ màu xanh ngoài đường phố nơi người ta đi lại vui vẻ và
vô tư lự trong khi đó thì họ lại… Phì! - và với một cử chỉ giận dữ họ điên tiết
gạt phăng những con ruồi mà hơi nóng và mồ hôi dầm dề đã làm cho chúng trở nên
man dại và hăng máu hơn bao giờ.

Nhưng lộn xộn hơn cả bầy ruồi là đám con trai nhỏ của
luật sư, một thằng nhóc lên mười, chân đi đất, đầu bù tóc rối, hiển nhiên vừa từ
căn nhà kế cận chạy qua để làm vui cho thân chủ của papa.

“Tên em là gì?” “Cái hộp nhỏ đeo ở cổ đó là cái gì vậy?”
“Làm sao mở nó?” “Ở trong đó có gì vậy?” “Một lọn tóc à?” “Tóc của ai thế?” “Tại
sao em lại giữ nó?”

Thế rồi, vừa nghe thấy tiếng papa đang tiến lại gần
cửa để tiễn một người khách quan trọng nào đó, thằng bé vội chui tọt xuống gầm
bàn, trốn sau chân người thư ký.

Mọi người trong phòng đợi đều tất bật đứng dậy, mỗi
thân chủ đều khẩn khoản nhìn luật sư, ông này vừa giơ cả hai tay lên vừa nói:

- Kiên nhẫn, các bạn, từng người một.

Người may mắn thì khúm núm đi theo, khép cửa phòng lại
trong khi những người khác lại ngồi xuống trong sự chờ đợi cáu kỉnh và ngột ngạt.

Riêng có ba thân chủ, có vẻ là chồng, vợ và con gái,
lại không tỏ một dấu hiệu nóng ruột nào cả. Người chồng - một người trạc độ sáu
mươi - có một vẻ mặt u buồn, gần như tang tóc. Ông ta khăng khăng không chịu bỏ
cái mũ rộng vành nhăn nhúm, màu xanh lợt mà chắc ông ta coi như một thứ phụ
tùng thích hợp nhất cho cái áo choàng nặng nề, cổ lỗ nồng mùi băng phiến. Rõ
ràng là cái áo đó đã được kính cẩn chọn lựa cho dịp trọng đại này, một cuộc hội
kiến chính thức với một luật sư.

Ấy thế mà ông ta không vã mồ hôi.

Da dẻ cực kỳ
xanh xao, trông ông ta gần như không có tí máu huyết nào cả, cằm và má phủ một
lớp lông mốc meo xam xám mỏng. Cặp mắt xám nhạt của ông ta, trổ ra sát gần một
cái mũi to tướng, có một cái nhìn le lé, và, cúi khòm trên ghế, với cái đầu ủ
rũ và hai bàn tay vịn trên một cây gậy, trông ông ta hầu như đang bị đè bẹp bởi
một sức nặng cơ hồ không chịu nổi nào đó. Ngồi bên cạnh ông ta, với một sự
thách thức toát ra từ sự ngu si rành rành, là mụ vợ.

Mạnh mẽ và phì nộn, với một bộ ngực đẫy đà, mụ dường
như không thể rời khỏi trần nhà với cặp mắt hạt huyền xinh đẹp đăm đăm nhìn từ
khuôn mặt đỏ au hơi râu ria của mụ.

Kế bên mụ là cô con gái của họ - gầy, xanh và lé như
cha - gần như tàn tật. Ngắm cả bộ ba, người ta gần như có cảm tưởng rằng, có lẽ
chỉ nhờ có sự hiện diện của mụ đàn bà đẫy đà mạnh mẽ kia giữa người cha và cô
con gái mới có thể đỡ được họ khỏi đổ nhào xuống đất.

Bộ ba đã gợi sự tò mò chăm chú của những thân chủ
khác, bởi ba lần những kẻ tội nghiệp kia đã nhường cho những người mới tới lượt
của họ, viện cớ rằng vụ của họ quan trọng lắm, nó đòi hỏi một cuộc hội kiến rất
lâu với luật sư.

Chuyện gì đã xảy ra cho họ? Kẻ nào đang đe dọa họ?
Có lẽ một cuộc trả thù hay một vụ sát nhân? Có lẽ sự khánh tận tài chính?
Không, không thể là sự kiệt quệ tài chính. Người vợ đeo đầy ắp những vàng là
vàng; đôi bông tai lớn lủng lẳng từ trái tai mụ; một sợi dây chuyền hai vòng siết
cổ mụ muốn tắt thở; một cái hộp vàng lớn phập phồng trên ngực mụ: một sợi dây
vàng cột cái quạt của mụ cho khỏi rơi, và những chiếc cà rá mắc tiền phủ đầy những
ngón tay chuối mắn của mụ. Vậy thì cái gì đã điệu họ đến đó để tham vấn luật sư
Zummo?

Nhẩn nha tất cả mọi thân chủ đều được luật sư tiếp
kiến, nhưng bộ ba vẫn ù lì ngồi đó - bất động và bất cảm - chìm đắm trong những
suy tư riêng của họ. Chỉ thỉnh thoảng người vợ mới phe phẩy cái quạt hoặc người
đàn ông mới nghiêng qua cô con nhắc nhở.

- Tinina… hãy nhớ cái đê (đệm lót ngón tay để may
vá).

Một vài thân chủ đã hết sức cố gắng đẩy thằng nhóc
con luật sư về phía bộ ba, nhưng ngay cả đứa trẻ - kinh hãi vì những bộ mặt đưa
đám ấy - cũng không có gì để làm với họ.

Và khi - vào khoảng giữa ngọ - mọi thân chủ đã ra về
hết rồi ấy thế mà bộ ba vẫn còn ngồi ì ra đó, bất động và câm nín như tượng,
dính chặt vào ghế ngồi.

- Kìa, bộ ngồi đó ngủ ấy à? Sao không vô đi, còn chờ
chi nữa? - Người thư ký ngẩng đầu, sốt ruột kêu lên.

- Chúng ta được phép ạ? - Người đàn ông hỏi như xin
lỗi trong khi cả ba đứng dậy.

- Đương nhiên là các người được phép; lẽ ra các người
phải vô trước rồi mới phải.

Người thư ký trách mắng.

- Lão có biết là gần như tới giờ ăn trưa của người
ta rồi không? À, mà này, lão tên gì?

Người đàn ông lúc bấy giờ mới chịu giở cái nón cao
ra, bày ra đồng thời các cực hình mà món phụ tùng nặng nề đã gây ra cho lão. Từ
cái sọ đỏ hồng, nghi ngút bốc hơi những suối mồ hôi ròng ròng chảy xuống, đầm
đìa phủ kín khuôn mặt không huyết sắc, tái mét của lão. Cúi gập mình về phía
viên thư ký, lão thì thầm một cách trịnh trọng:

- Bẩm, Piccirilli Serafino ạ.

2.

Vị luật sư tưởng rằng công việc buổi sáng của ông ta
đến đây đã mãn - đang sắp xếp lại bàn giấy và sửa soạn đi thì thình lình bị đối
diện bởi ba thân chủ xa lạ.

- Các người là ai? - Ông ta hỏi một cách khó thương.

- Bẩm Piccirilli Seranno ạ, - người đàn ông nói nhẹ
như thở, vừa cúi xuống thật thấp vừa liếc nhìn hai người đàn bà đang khuỵu gối
chào kiểu cách như lão đã chỉ dạy họ.

- Ngồi xuống, - luật sư vừa nói vừa đăm đăm ngó những
thân chủ bất thường, - nhưng phải mau gấp lên mới được, bởi người ta đang chờ
tôi ăn trưa đấy.

Bộ ba ngồi dọc theo hàng một đối diện bàn giấy, kinh
hãi luýnh quýnh. Piccirilli gượng cười nhưng mặt lão trông thật thảm hại. Hiển
nhiên là lão đã quên không còn biết cười thế nào nữa.

- Ngài coi... - lão bắt đầu.

- Chúng tôi tới để hỏi... - Cô con gái xen vào.

- Chuyện không thể tin được. - Bà mẹ bỗng thốt lên,
mắt dán vào trần nhà.

- Một người nói một. - Luật sư cau mày. - Tôi đã nói
với các người là tôi đang vội mà? Các người cần gì tôi nào?

- Dạ chuyện như thế này, - Piccirilli vừa nói vừa nuốt
ực một cái. - Chúng tôi đã nhận được trát tòa.

- Tội sát nhân, thưa ngài, tội sát nhân, - mụ vợ ngắt
lời.

- Má, xin má, - cô con gái nói, cố làm cho mẹ bình
tĩnh.

Piccirilli nhìn mụ vợ và với tất cả uy quyền mà thể
chất khốn khổ của lão cho phép, lão cầu khẩn:

- Để tôi nói, Mararo.

Đoạn quay sang luật sư:

- Chúng tôi đã nhận được một cái trát của tòa. Chúng
tôi bị bắt buộc phải rời căn nhà mà chúng tôi đã ở bởi vì...

- Tôi hiểu, - luật sư ngắt lời. - Lệnh tống xuất.

- Thưa ngài, không phải ạ, - Piccirilli nói như xin
lỗi. - Hoàn toàn không phải thế, trái lại chính chúng tôi bỏ đi, chúng tôi bắt
buộc phải ra đi mặc dầu chủ nhà không muốn thế. Bây giờ ông ấy đòi bồi thường
thiệt hại vì vi phạm giao kèo và bởi vì ông ấy nói chúng tôi đã làm cho căn nhà
bị tai tiếng...

- Thế nhưng bằng cách nào? - Zummo nói, mặt ông ta
sa sầm lại và lần này quay sang phía bà vợ. - Các người đã rời bỏ căn nhà, các
người đã làm cho căn nhà bị tai tiếng và bây giờ chủ nhà... Hãy nói cho rõ ràng
nào; các người có thể nói với một luật sư như với một linh mục... Các người có
dùng căn nhà để buôn bán một cái gì vô luân chăng, thí dụ vậy?

- Chắc chắn là không, - Piccirilli vội vã đáp, đặt
tréo cả hai tay lên ngực, - Không có thứ đó. Không có buôn bán một cái gì hết.
Chúng tôi không phải là dân buôn bán. Quả thiệt vợ tôi thỉnh thoảng có cho vay
vài món tiền lặt vặt... kín đáo lời lãi phải chăng...

- Tôi hiểu, - luật sư nói, - điều kiện thông thường.

- Đúng như vậy, - người đàn ông xác nhận, - điều kiện
mà ngay cả nhà thờ cũng đồng ý, nhưng cái đó không ăn nhằm gì tới vụ của chúng
tôi. Signor Granella - chủ nhà - nói rằng chúng tôi đã làm ô danh nhà ông bởi
suốt trong ba tháng mà chúng tôi sống ở đó chúng tôi đã thấy những điều khiến
tôi rùng mình mỗi lần nghĩ tới.

- Cầu Chúa quan phòng đừng để ngay cả những kẻ tội lỗi
xấu xa nhất cũng đừng phải chứng kiến điều chúng tôi đã thấy, - mụ vợ bật nói
to với một tiếng thở dài lớn, đứng lên và làm dấu Thánh Giá.

- Hành hình, đúng là một sự hành hình, - cô con gái
nói nhỏ.

- Hoàn toàn đúng, không có gì khác hơn sự hành hình,
- ông bố nói thêm. - Không có chữ nào khác. Ròng rã suốt ba tháng chúng tôi đã
là nạn nhân của một sự hành hình trong ngôi nhà đó.

- Hành hình bởi ai? - Luật sư mất kiên nhẫn hét lên.

- Bởi... bởi ma, - sau khi nín lặng một hồi lâu
Piccirilli vừa thì thầm vừa nghiêng mình về phía bàn giấy và lấy tay che miệng
sợ mình nói to quá. - Vâng, ma, thưa ngài.

- Bởi ai?... - Luật sư gặng hỏi, tưởng mình nghe lầm.

- Ma, ma! - Mụ vợ la lớn, khoa tay lên thách thức.

Luật sư đứng dậy sửng cồ.

- Vô lý, đừng chọc cười tôi! Bị ma hành hạ! Đi ra
đi! Để tôi đi ăn trưa, đừng làm mất thì giờ của tôi.

Nhưng bộ ba, nhảy nhỏm ra khỏi ghế ngồi, kéo lại gần
bàn giấy hơn, van xin:

- Xin đừng đi, đừng đi! Ngài không tin chúng tôi,
nhưng chính mắt chúng tôi đã nhìn thấy ma, chúng tôi đã nhìn thấy chúng và nghe
thấy chúng - chúng đã hành hình chúng tôi suốt ba tháng trời.

Họ cùng nói một lượt, trong một sự ồn ào hỗn loạn
ghê gớm khiến luật sư càng điên tiết.

- Đủ rồi, - ông ta gầm lên, - các người là lũ điên
khùng; các người phải tới một nhà chuyên môn về bệnh tâm thần, không phải một
luật sư.

- Nhưng chúng tôi đã nhận được trát tòa. -
Picciralli khấn khoản, tay lão chắp lại như cầu nguyện.

- Thế là phải lắm. - Zummo quát vào mặt lão.

- Ông khuyên chúng tôi thế à? - Mụ vợ vừa nói vừa gạt
chồng con qua một bên.

- Đó là cách ông đối xử với những người cần giúp đỡ
à? Ông sẽ không nói như vậy nếu ông bị hành hạ như chúng tôi đã bị hành hạ, nếu
ông nhìn thấy ma như chúng tôi đã nhìn thấy chúng.

- Vậy thì thực sự là các người đã nhìn thấy ma, có
phải không? - Luật sư nhạo báng.

- Dĩ nhiên là chúng tôi đã nhìn thấy chúng, - người
cha xen vào. - Chính mắt tôi nhìn thấy.

- Và chính mắt tôi cũng nhìn thấy. - Cô con gái
thêm.

- Phải mà, với những con mắt đó thì quá phải rồi. -
Luật sư phá lên cười, chỉ vào những cặp mắt lé của họ.

- Thế còn mắt tôi thì làm sao? - Mụ vợ hét lớn, xòe
bàn tay mặt đặt trên ngực và hết sức giương cặp mắt to đen của mụ ra.

- Những con mắt này ngay thẳng, lạy Chúa tôi, và đủ
lớn để nhìn! Và chúng đã nhìn thấy những con ma đó cũng rõ ràng như chúng đang
nhìn thấy ông bây giờ vậy.

- Chắc không, bà có chắc chắn không? - Zummo châm chọc.

- Rất chắc chắn, - người đàn bà thở dài. - Nhưng nếu
ông vẫn không tin chúng tôi thì chúng tôi có thể đưa ra nhân chứng, nhiều người
sẽ đến đây và nói cho ông nghe những điều mà chính mắt họ cũng đã thấy nữa...

Vị luật sư cau mày, hiển nhiên là ông ta bị khích động.

- Bà nói sao, nhân
chứng à?

- Thưa ngài vâng,
những người đã nhìn thấy và đã nghe thấy.

- Chẳng hạn nhìn thấy
cái gì?

- Nhìn thấy những
cái ghế di chuyển đây đó mà không có ai mó tới chúng cả.

- Những cái ghế?

- Thưa ngài vâng,
ghế.

- Cái gì, ghế thường
như cái ghế trong góc kia ấy à?

- Chính phải, một
cái ghế thường, chân chỏng gọng lên trời, nhào lộn quanh phòng, như những thằng
bé con chơi ngoài phố và rồi - biết nói thế nào đây - một cái gối để găm kim
hình trái cam của con gái tôi, lại bị liệng thẳng vào mặt chồng tôi in hệt như
nó bị ném đi bởi một bàn tay vô hình. Ồ! Rồi một cái tủ áo rung lên và kêu chát
chúa như thể đang lên cơn và từ bên trong... từ bên trong... (mới chỉ nghĩ tới
đó mà tôi đã nổi da gà)... những tràng cười rộ sắp bung ra.

- Những tràng cười
rộ. - Cô con gái nói thêm.

- Những tràng cười
rộ, - ông cha xác nhận. Nhưng bà vợ, không để mất thì giờ kể tiếp. - Mấy chục
người hàng xóm đã nhìn thấy tất cả những cái đó và sẵn sàng chứng nhận, như tôi
đã nói với ông, trong khi ba chúng tôi còn nhìn thấy và nghe thấy nhiều hơn thế
nhiều.

- Tinina, cái đê. -
Người cha ngắt lời.

- Dạ, - cô gái nhỏ
bắt đầu lên tiếng với một tiếng thở dài. - Tôi có một cái đê khâu nhỏ bằng bạc
- quà mà bà tôi cho (xin Chúa ban phước lành cho linh hồn bà!). Tôi thích cái vật
nhỏ bé này kinh khủng, nhưng một hôm nó biến mất. Tôi kiếm cùng khắp nhà suốt
ba ngày mà cũng không thấy đâu cả, cho đến một đêm kia, trong lúc tôi đang ngủ
trong mùng...

- Cái nhà đáng ghê
tởm đó còn đầy những muỗi là muỗi. - Bà mẹ xen vào.

- Và nhìn xem chúng
lớn cỡ nào. - Ông cha công nhận, lắc đầu.

- Tôi nghe thấy tiếng
động của một cái gì đó nhảy trên nóc mùng. - Cô con kể tiếp.

- In hệt một trái banh cao su nẩy từ sàn lên,
- ông cha ngắt lời, giơ tay chặn con gái. - Thế rồi thình lình một vật nhỏ bé -
chính là cái đê khâu của tôi bị ném thật mạnh lên trần và rớt xuống đất - sứt mẻ!

- Sứt mẻ, - bà mẹ
công nhận.

- Sứt mẻ, - ông cha
lặp lại.

- Tôi bò ra khỏi
giường, run rẩy, lượm nó lên, và ngay khi tôi cúi xuống thì từ trần nhà phát
ra...

- Những tràng cười
rộ, cười rộ, và cười rộ... - bà mẹ kết thúc.

Vị luật sư đứng lặng
một lúc, cúi đầu, tay chắp sau lưng.

- Những con ma vui
nhộn! - Ông ta nói sau một lúc im lặng, tay gãi đầu, cố gắng xem xét kĩ lưỡng,
đãi lọc sự thực của câu chuyện khó tin này. - Tiếp tục, tiếp tục đi thú vị nhất
đấy.

- Vui nhộn? Không
vui nhộn chút nào, thưa ngài, - người đàn bà bẻ lại. - Quái quỷ, chắc ông muốn
nói thế. Những con ma kéo nệm trải giường của chúng tôi liệng xuống đất, ngồi chễm
chệ trên bụng chúng tôi ban đêm, vỗ vai chúng tôi, nắm cánh tay chúng tôi, xô
lay đồ đạc bàn ghế của chúng tôi, rung chuông như thể động đất đang xảy ra, đầu
độc thức ăn của chúng tôi, ném tro than vào xoong chảo của chúng tôi, thế mà
ngài cho là vui nhộn à. Ngay cả vị linh mục với nước thánh cũng không thể ngăn
nổi chúng, thế mà khi chúng tôi nói với Granella ngài có biết ông ta đã trơ
tráo trả lời sao không? - Chuyện bá láp, cứ ăn no ngủ kỉ và chữa trị thần kinh
của các người đi.

- Chúng tôi năn nỉ
ông ta tới và nhìn tận mắt nhưng ông ta không chịu. Đã thế, ông ta còn dọa
chúng tôi. - Ăn nói phải giữ mồm giữ miệng nếu không ta sẽ kết liễu cuộc đời của
các ngươi, chính miệng ông ta nói thế đấy.

- Và ông ta đã kết
liễu đời chúng tôi, - người chồng kết luận một cách chua chát. - Giờ đây, thưa
ngài, tính mệnh chúng tôi là ở trong tay ngài. Ngài có thể tin chúng tôi. Chúng
tôi là những người khả kính, và chúng tôi biết sẽ phải đền đáp ngài thế nào.

Vị luật sư, như thường
lệ, giả đò không để ý tới câu cuối cùng. Trong một lúc khá lâu ông ta đứng lặng
bên bàn giấy, kéo râu mép, chìm đắm trong tư tưởng. Đoạn ông ta nhìn đồng hồ. Gần
một giờ. Thân nhân của ông đã chờ ông ngót một tiếng đồng hồ rồi và bữa ăn trưa
của ông đã quá giờ từ lâu.

- Đây là một vụ
quái dị, - cuối cùng ông nói. - Chắc các người cũng biết rõ rằng tôi không thể
chấp nhận câu chuyện ma quỷ của các người được, cùng lắm tất cả những gì mà các
người kể có thể chỉ là tưởng tượng... chuyện ngồi lê đôi mách tầm phào... nhưng
tôi sẽ cân nhắc khía cạnh pháp lý của vấn đề. Các người nói các người đã thấy...
hừm! Tôi không thích danh từ ma... các người đã thấy một cái gì đó... ta sẽ nói
sau. Và các người có nhân chứng để chứng minh rằng các người không thể tiếp tục
sống trong ngôi nhà đó vì... à... vì một thứ... chúng ta sẽ nói tới... ừ...
à... hành hình kỳ dị... tôi phải công nhận vụ này mới lạ và hào hứng. Tôi có thể
cảm thấy có khuynh hướng muốn đảm nhận vụ này... có lẽ sẽ có thể tìm thấy một
vài chứng lý tranh biện thuận lợi cho các người. Để tôi suy nghĩ trước khi tôi
quyết định. Bây giờ thì đã hơi trễ rồi, nhưng nếu các người trở lại ngày mai ta
sẽ cho các người biết ta có thể làm gì cho các người!

Gần như vô ý thức,
ý nghĩ về vụ kiện lạ lùng này cứ xoay tới xoay lui trong tâm trí viên luật sư tựa
một cái cối xay gió. Trong bữa ăn trưa ông không thể ăn; sau bữa trưa - khi ông
nằm trên giường để ngủ trưa như ông vẫn thường làm trong suốt những tháng hè -
ông cũng không ngủ nổi. - Ma - ông tự nhủ với một tiếng cười khẩy khinh bỉ,
trong khi hình ảnh của ba bộ mặt hài hước đã thề sống thề chết là đã nhìn thấy
ma vụt trở lại tâm trí ông.

Rất nhiều lần khi
ông còn thơ ông đã được nghe kể nhiều chuyện về ma, những chuyện khiến ông kinh
hoàng và đã khiến ông trải qua nhiều đêm mất ngủ. - Linh hồn, - ông vừa thở dài
vừa duỗi tay dưới đỉnh mùng và để chúng nặng nề rơi trở lại giường. - Linh hồn,
cái linh hồn bất tử... - Dĩ nhiên, ông nhìn nhận, muốn tin ma quỷ thì người ta
bắt buộc phải tin vào sự bất tử của linh hồn, điều đó hiển nhiên rồi, nhưng liệu
ông có tin không đã? Ông luôn luôn tuyên bố rằng ông không tin thế thì bây giờ
làm thế nào ông có thể nhìn nhận ngay cả một sự hoài nghi? Liệu ông có thể trở
lại niềm tin xưa cũ của mình? Ông biết rằng người ta thường tự dối lòng, rằng
người ta thường sợ không dám thăm dò thám hiểm chính bản ngã của mình, vì e khi
khám phá thấy rằng họ thật khác hẳn với kẻ mà họ ao ước, hoặc khác hẳn với kẻ
mà họ muốn được đời biết tới. Nhưng có bao nhiêu kẻ nghiêm trang suy tưởng về vấn
đề linh hồn? Cuộc sống quá thu hút con người đến nỗi người ta gần như không có
thì giờ để suy xét về những vấn đề đó; song chúng phải quan trọng hơn tất cả mọi
vấn đề khác. Một người bạn chết - giống như một con thú bướng bỉnh - chúng ta
khước từ nghĩ tới hắn bên kia giây phút từ trần, hoàn toàn thỏa mãn với hoài niệm
về quá khứ, và chỉ hút một điếu thuốc để đánh tan nỗi muộn phiền. Ngay cả khoa
học, như điều đang xảy ra, cũng không đi quá hiện sinh con người, không biết tới
cái chết và từ chối khảo sát nó. - Đừng lo âu về sự chết - khoa học nói - hãy
gánh vác những phận sự hàng ngày, nghĩ tới cuộc sống hiện tại, tới nghề nghiệp
của bạn. Hoàn toàn đúng. Vị luật sư cũng vậy, từ trước tới nay, cũng thoái thác
băn khoăn về cái chết, nhưng bây giờ nó đây; cái linh hồn bất tử - hay là ma -
như chuyện đã xảy ra, đang gõ cửa ông, buộc ông phải bận tâm về chúng.

- Nhà ngươi muốn lờ
bọn ta đi - dường như chúng nói với ông. - Nhà ngươi muốn lờ cái chết nhưng
chúng ta đã tới đây, từ vương quốc của người chết trở về gõ cửa nhà của những kẻ
đang còn sống, nhạo báng mi, làm bàn ghế nhảy nhót quanh phòng, làm thân chủ của
mi kinh hãi, cười nhạo chúng từ đáy một tủ quần áo cũ, làm mi bối rối hôm nay -
hỡi tên luật sư trí thức - và mai mốt sẽ làm bối rối cả một cơ cấu gồm các quan
tòa cũng trí thức không kém, nhưng kẻ sẽ phải xét xử một vụ tố tụng mới mẻ nhất
chưa từng nghe thấy trong bất cứ một pháp đình nào, một vụ tố tụng đòi bồi thường
thiệt hại mà bị cáo là những con ma! - Liệu ông ta còn có thể không biết tới
chúng được không?

Nhảy ra khỏi giường,
lòng đầy phấn khích, Zummo trở lại thư phòng và tìm những cuốn sách tham khảo của
ông ta. Các điều 1575 và 1577 của bộ Dân Sự Tố Tụng dường như cung cấp một vài
cơ sở lý lẽ cho vụ của ông.

Chúng thiết định -
interalias - rằng người ta thuê một căn nhà được quyền có - sự hưởng dụng an lạc
- bất động sản trong suốt thời gian khế ước và rằng - chủ cho thuê phải chịu
trách nhiệm với người thuê nhà về bất cứ một sự phiền nhiễu không được tiết lộ
nào có thể giảm thiểu hay cản trở cho sự hưởng dụng đầy đủ căn nhà cho mướn.

Luật pháp rất minh
bạch, nhưng đây là then chốt của vụ kiện - cần phải chứng minh sự hiện hữu của
ma quỷ và sự hiện diện của chúng trong ngôi nhà đó. Ông đã có những chứng từ và
những nhân chứng để chứng thực cho câu chuyện của các thân chủ của ông, nhưng
những bằng chứng này đáng tin cậy tới mức nào?

Làm cách nào ông có
thể trích dẫn các khoa học gia để củng cố những chứng từ kia? Sau khi đã tái thẩm
vấn gia đình Piccirilli, luật sư hứa sẽ nhận lãnh vụ kiện và sửa soạn vụ tranh
tụng với tất cả tài năng xảo diệu nhất của ông.

Trước hết ông đọc lịch sử đại cương l của chủ thuyết duy linh, từ những nguồn gốc của thần thoại
tới hiện đại; kế đó ông tham khảo tác phẩm của Jacolliot và những pháp thuật dị
thường của các ấn sĩ thác-bát-tăng (fakir); và rồi ông đọc tất cả những gì đã
được viết về vấn đề bởi những chuyên gia lớn nhất và đáng tin cậy nhất, từ
Crookes tới Wagnel, từ Aksafof tới Gibier và Zeller, từ Jaaet tới Rochad, từ
Richet tới Morselli. Do đó mà ông được biết - quá cả sự kinh ngạc của ông rằng
ngay cả những con người hoài nghi nhất của khoa học cũng đã phải tuyên bố rằng
cái gọi là những - hiện tượng tâm linh - không thể bị đặt vào vùng nghi hoặc được.

Ông phấn khởi tinh
thần.

- Bây giờ - ông tự
nhủ - sự việc bắt đầu có vẻ sáng sủa hơn nhiều. - Chừng nào mà những hiện tượng
này còn bị báo cáo bởi những người tầm thường, như vợ chồng cái nhà Piccirilli
thì ông, một người có học vấn sâu đầy và có căn bản khoa học thực nghiệm, có dư
quyền để cười vào mặt chúng. Ngay cả nếu ông đã nhìn thấy những hiện tượng này
bằng chính mắt của mình đi chăng nữa ông vẫn có thể tin rằng chúng chỉ là kết
quả của một ảo giác nào đó. Nhưng đằng này khi những con người của khoa học như
Lombroso hay Richet đã công nhận sự hiện hữu của chúng thì vấn đề lại hoàn toàn
khác hẳn.

Báo cáo nội dung xấu