Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa - Chương 01 - 02 - 03
1
Các từ
được viết bằng bút chì lên một mẩu giấy, đặt trên tử thi. Chỉ có ba từ. Erlendur
thấy thật khó hiểu.
Đó là xác
một người đàn ông tầm bảy mươi tuổi. Nạn nhân nằm nghiêng về bên phải trên sàn
nhà, quay lưng lại với cái ghế sofa trong phòng khách nhỏ. Ông ta mặc một chiếc
sơ mi màu xanh da trời và quần nhung kẻ sọc màu nâu vàng, chân đi dép lê, tóc
đã bắt đầu thưa dần, gần như ngả sang màu xám tro. Mái tóc ấy bết lại vì máu
chảy ra từ một vết thương rộng hoác trên đầu. Trên sàn nhà, cách xác chết không
xa là một cái gạt tàn lớn bằng thủy tinh với những góc sắc nhọn. Nó cũng dính
đầy máu. Cái bàn uống nước đã bị lật đổ.
Căn hộ đó
nằm dưới tầng trệt của một tòa nhà hai tầng ở Nordurmýri. Căn nhà nằm trong một
khu vườn nhỏ có ba mặt được bao quanh bởi một bức tường đá. Cây cối đã rụng hết
lá, tạo thành một tấm thảm trên nền đất trong vườn, những cành cây khẳng khiu
chĩa thẳng lên nền trời tối kịt. Trên con đường trải sỏi dẫn đến gara, nhân
viên Cục điều tra hình sự Reykjavík đang đến hiện trường. Người ta đang chờ
nhân viên y tế quận, ông ta sẽ kí vào giấy chứng tử. Xác chết được báo cáo là
tìm thấy khoảng 15 phút trước đó. Thám tử Erlendur cùng với cảnh sát Reykjavík
là một trong số những người đến hiện trường sớm nhất.
[Chúc bạn đọc sách vui
vẻ tại www.
gacsach. com - gác nhỏ
cho người yêu sách.]
Hoàng hôn
tháng Mười bao trùm lên toàn thành phố và cơn mưa ập xuống trong làn gió mùa
thu. Ai đó đã bật chiếc đèn trên bàn trong phòng khách khiến cho không gian
quanh nó nhuốm một thứ ánh sáng ảm đạm. Ngoài ra, không có một thứ gì khác
trong hiện trường bị chạm đến. Đội pháp y đang đặt những bóng đèn huỳnh quang
lên một cái giá ba chân để thắp sáng căn phòng. Erlendur chú ý đến một giá sách
và bộ đồ gỗ đã mòn, chiếc bàn uống nước bị lật nhào, một chiếc bàn cũ kỹ ở góc
nhà và tấm thảm trên sàn thấm máu. Phòng khách thông ra gian bếp và bếp lại
thông ra một phòng làm việc nhỏ, tiếp đến là một hành lang nhỏ, ở đó có hai
phòng và một nhà vệ sinh.
Chính
người hàng xóm sống ở tầng trên đã báo cho cảnh sát biết về cái xác. Sau khi
đón hai đứa con trai của mình từ trường học trở về nhà, anh ta lấy làm lạ khi
thấy cửa căn phòng dưới tầng trệt mở rộng. Nhìn vào bên trong căn hộ của ông
hàng xóm, anh ta thử gọi to xem có ai ở nhà không. Tuy nhiên không ai trả lời. Anh
ta ngó vào nhà và gọi thêm lần nữa nhưng vẫn không có ai đáp lại. Gia đình anh
ta đã sống ở căn hộ tầng trên được mấy năm nhưng họ không thân với ông hàng xóm
ở tầng dưới nhiều lắm. Đứa con trai cả mới lên chín tuổi không được thận trọng
như bố, nhanh như chớp nó xộc thẳng vào phòng khách. Một lúc sau, thằng bé trở
ra và nói rằng có một người đàn ông chết trong phòng, dường như chẳng có vẻ gì
là hoảng sợ trước cảnh tượng đó cả.
“Con đã
xem quá nhiều phim ảnh rồi đấy!” Người bố nói và thận trọng bước vào, và rồi
anh ta thấy ông hàng xóm đang nằm chết trong phòng khách. Nhìn lên chuông cửa, Erlendur
đã biết tên người chết. Tuy nhiên, để tránh mắc phải sai lầm ngớ ngẩn, ông đeo
găng tay cao su rồi thò tay vào túi áo khoác của nạn nhân treo trên cái mắc gần
cửa ra vào và lấy ra một cái ví. Trong đó có một thẻ thanh toán có dán ảnh. Người
đàn ông đó tên là Holberg, sáu mươi chín tuổi. Chết tại nhà. Có lẽ là bị giết.
Erlendur
đi quanh nhà và đặt ra những câu hỏi đơn giản nhất. Công việc của ông là điều
tra những gì mắt thấy rõ ràng. Phần bí ẩn thuộc trách nhiệm của đội pháp y. Ông
không thấy có dấu hiệu đột nhập cả ở cửa sổ cũng như cửa chính. Thoạt nhìn, dường
như nạn nhân đã mời hung thủ vào nhà. Những người hàng xóm tầng trên đã để lại
dấu chân nơi tiền sảnh và trên thảm khi họ đi từ ngoài trời mưa vào trong căn
nhà. Chắc hẳn hung thủ cũng vậy - trừ khi hắn đã tháo giày ra trước khi bước
vào trong. Về phía Erlendur, dường như ông đã quá vội vã đến mức quên cả tháo
giày.
Đội pháp
y đã mang vào một cái máy hút bụi để thu thập những mẩu đất đá cũng như những
dấu vết nhỏ nhất nhằm tìm ra manh mối. Họ tìm các mẫu vân tay và dấu bùn không
thuộc về ngôi nhà. Họ đang tìm kiếm những điều bất thường - những gì có thể gây
ra cái chết.
Tất cả
những gì mà Erlendur có thể thấy là nạn nhân đã không mấy hiếu khách với người
khách của mình. Ông ta còn chưa pha cà phê. Rõ ràng là máy pha cà phê trong bếp
chưa được dùng đến trong vòng vài giờ qua. Không có dấu hiệu nào cho thấy họ đã
uống trà, vì không có tách trà nào được lấy ra từ tủ. Mấy chiếc cốc cũng nằm
nguyên tại vị trí cũ. Nạn nhân thuộc tuýp người rất ngăn nắp, đồ đạc được xếp
gọn gàng và sạch sẽ. Có lẽ ông ta không biết rõ lắm về người khách của mình. Có
lẽ hắn đã tấn công nạn nhân ngay từ đầu, khi ông ta vừa mở cửa. Tấn công lúc
hắn vẫn chưa cởi giày.
Ta có thể
giết một người cao ngang tầm mình không?
Erlendur
nhìn xung quanh và tự nhủ phải sắp xếp các suy nghĩ cẩn thận hơn. Bất luận thế
nào, hung thủ cũng đã rất vội vàng. Hắn còn không buồn đóng cửa sau khi đi ra. Cú
đánh có dấu hiệu vội vã, như thể nó hoàn toàn bất ngờ và không có báo hiệu từ
trước. Không có dấu hiệu vật lộn trong phòng. Có vẻ như nạn nhân đã ngã ngay
tại cửa, va phải cái bàn và xô đổ nó, còn các đồ đạc khác dường như chưa bị
đụng chạm đến. Erlendur không thấy dấu hiệu nào chứng tỏ căn hộ đã bị ăn trộm. Tất
cả các tủ ly đều được đóng chặt, ngăn kéo cũng vậy, chiếc máy tính khá mới và
một dàn âm thanh cũ vẫn còn nguyên đó, chiếc ví vẫn nằm trong túi áo khoác nạn
nhân treo trên móc gần cửa ra vào, trong ví có một tờ 2000 cua-ron và hai thẻ
thanh toán: một thẻ ghi nợ và một thẻ tín dụng.
Dường như
tên sát nhân đã chộp ngay lấy vật đầu tiên trong tầm với và đánh vào đầu nạn
nhân. Cái gạt tàn làm bằng thủy tinh dày, màu xanh và nặng ít nhất 1,5 kg, Erlendur nghĩ. Một vũ khí giết người có sẵn.
Hung thủ khó có thể mang chiếc gạt tàn đầy máu theo người, do vậy hắn để nó lại
trên sàn phòng khách.
Có hai
chứng cứ đã rõ ràng: người đàn ông đã mở cửa và mời người khách vào nhà, hoặc
ít nhất là đã đi cùng hắn vào phòng khách. Có thể ông ta biết người khách của
mình, cũng có thể là không. Ông ta bị tấn công bằng một chiếc gạt tàn, một cú
đánh mạnh, và tên sát nhân nhanh chóng tẩu thoát, để cửa mở. Chỉ đơn giản có
thế.
Ngoại trừ
lời nhắn để lại...
2
Lời
nhắn được viết trên một tờ giấy khổ A4 giống như bị xé ra từ một cuốn sổ có gáy
xoắn. Đó là manh mối duy nhất mà tên sát nhân đã chủ ý để lại đây. Nó chứng tỏ
rằng hắn đã vào nhà với mục đích giết người từ trước. Hắn không bị kích động
đột ngột đến nỗi phải giết người ngay lúc đứng trên sàn phòng khách. Hắn bước
vào căn hộ với ý đồ giết người có sẵn trong đầu. Ba từ, Erlendur không hiểu một
chút gì. Phải chăng hắn đã viết ba từ đó trước khi đến đây? Erlendur đi đến
chiếc bàn ở góc phòng. Trên đó là một đống ngổn ngang các tài liệu, hóa đơn, thư
từ và giấy tờ. Trên đống giấy đó có một cuốn sổ gáy xoắn, một góc trang bên
trong đã bị xé ra. Ông tìm chiếc bút chì mà hung thủ có thể đã dùng để viết lời nhắn nhưng không thấy. Nhìn
quanh, ông thấy có một chiếc dưới gầm bàn. Tuy nhiên, Erlendur không động chạm
vào bất cứ thứ gì, ông chỉ nhìn và suy nghĩ.
“Đây
không phải là một vụ giết người theo kiểu Iceland điển hình của ông sao?” Thám
tử Sigurdur Óli cất tiếng hỏi Erlendur. Anh ta vừa bước vào căn hộ mà ông không
để ý, lúc này anh ta đang đứng bên tử thi.
“Sao cơ?”
Erlendur hỏi, ông còn đang mải mê với những suy nghĩ của mình. “Bẩn thỉu, vô
mục đích, phạm tội mà không cần che giấu, thay đổi manh mối hoặc che đậy chứng
cứ.”
“Đúng vậy,”
Erlendur trả lời, “một vụ giết người đặc sệt kiểu Iceland.”
“Trừ khi
ông ta ngã vào cái bàn và đập đầu vào cái gạt tàn,” Sigurdur Óli tiếp. Nữ đồng
nghiệp Elínborg cũng ở đó với anh ta. Erlendur cố gắng hạn chế các động thái
của cảnh sát, của đội pháp y và đội trợ y trong khi ông đi quanh nhà, đầu cúi
xuống.
“Và viết
một lời nhắn khó hiểu khi ông ta ngã xuống?” Erlendur hỏi.
“Có thể
nạn nhân đã cầm tờ giấy trong tay.”
“Anh có
hiểu gì về lời nhắn đó không?”
“Có thể
đó là Chúa,” Sigurdur Óli nói, “có thể đó là tên sát nhân, tôi không chắc. Việc
nhấn mạnh vào chữ cái cuối cùng thật lạ lùng. Chữ HIM được viết hoa toàn bộ.”
“Theo tôi
lời nhắn đó không phải được viết vội. Từ cuối cùng được viết hoa nhưng hai từ
đầu tiên lại viết tháu. Kẻ viếng thăm đã không vội vàng gì khi viết lời nhắn
này. Nhưng hắn lại không đóng cửa khi đi ra. Điều đó có nghĩa gì? Tấn công một
người đàn ông và tẩu thoát, nhưng lại viết một lời nhắn khó hiểu và cất công
nhấn mạnh vào từ cuối cùng sao?”
“Chắc hẳn
nó phải ám chỉ ông ta,” Sigurdur Óli khẳng định. “Ý tôi là xác chết. Nó không
thể ám chỉ ai khác được.”
“Tôi
không biết,” Erlendur nói. “Mục đích của hắn khi để lời nhắn đó lại và đặt nó
trên xác chết là gì? Hắn đang cố gắng hé lộ điều gì cho chúng ta chăng? Hay là
tên sát nhân đang nói với chính mình? Hay hắn nói với chính nạn nhân?”
“Một kẻ
giết người khát máu,” Elínborg vừa nói vừa cúi xuống nhặt mẩu giấy lên. Erlendur
ngăn cô ta lại. “Có thể chúng có nhiều hơn một người,” Sigurdur Óli nói, “ý tôi
là những kẻ tấn công ấy.”
“Nhớ đeo
găng tay vào, Elínborg,” Erlendur nói với cô như thể với một đứa trẻ. “Đừng phá
hỏng chứng cứ chứ.”
“Lời nhắn
được viết trên chiếc bàn đằng kia,” ông nói thêm và chỉ tay về phía góc phòng. “Tờ
giấy bị xé ra từ một cuốn sổ ghi chép của nạn nhân.”
“Chắc hẳn
chúng có đông hơn một người,” Sigurdur Óli nhắc lại. Anh ta cho rằng mình đã
nảy ra một ý tưởng thật thú vị.
“Phải, phải,”
Erlendur nhận xét, “có thể là như thế.”
“Hơi máu
lạnh một chút,” Sigurdur Óli nói. “Đầu tiên anh giết một ông già, sau đó anh
bình tĩnh ngồi xuống để viết một lời nhắn. Điều đó không đòi hỏi phải có thần
kinh thép hay sao? Chẳng phải là một kẻ đáng ghê tởm mới có thể làm được điều
ấy sao?”
“Hoặc là
một kẻ không biết sợ là gì,” Elínborg nói.
“Hoặc một
kẻ tự cho mình là đấng cứu thế,” Erlendur nhận định.
Ông dừng
lại để cầm lấy mẩu giấy và nghiền ngẫm nó trong yên lặng.
“Một đấng
cứu thế vĩ đại,” ông thầm nghĩ.
3
Mưa như trút nước lên người Erlendur và Sigurdur Óli khi họ
ra khỏi xe rồi chạy nhanh về khu chung cư ở Stigahlíd. Họ định đợi đến khi cơn
mưa ngớt, nhưng Erlendur thấy chán quá nên nhảy ra khỏi xe trước. Không muốn bị
bỏ lại một mình, Sigurdur
Óli liền theo sau. Loáng một cái họ đã bị ướt sũng. Nước mưa từ tóc Sigirdur
Óli chảy tong tong xuống lưng, anh liếc sang Erlendur khi họ bấm chuông và chờ
cửa mở.
Trong
cuộc họp sáng hôm đó, những cảnh sát tham gia điều tra đã cân nhắc các khả năng
có thể xảy ra. Một giả thuyết đưa ra là vụ giết Holberg không có động cơ nào cụ
thể và kẻ tấn công đã lảng vảng quanh khu vực đó một thời gian, có thể là trong
nhiều ngày, như kiểu một tên trộm tìm kiếm chỗ nào đó để đột nhập vào nhà. Hắn
thử gõ cửa nhà Holberg để kiểm tra xem có ai ở nhà không, khi thấy chủ nhà ra
mở cửa thì hắn hoảng sợ thực sự. Lời nhắn hắn để lại chỉ nhằm để đánh lạc hướng
cảnh sát. Nó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì cụ thể.
Cùng ngày
Holberg bị giết, người dân sống ở khu chung cư tại Stigahlíd đã báo lại rằng có
hai phụ nữ lớn tuổi - vốn là chị em sinh đôi - đã bị tấn công bởi một gã trai
mặc áo quân phục màu xanh lục. Ai đó đã đưa hắn đến cửa trước và hắn gõ cửa căn
hộ của hai chị em nọ. Chủ nhà vừa mới ra mở cửa, hắn liền xông vào, đóng sầm
cửa lại rồi đòi tiền. Khi họ từ chối không đưa, hắn lấy tay thoi một quả đấm
vào mặt một người rồi đẩy người kia ngã xuống sàn nhà, đá bà ta vài phát trước
khi chuồn đi.
Một giọng
nói vang lên trong hệ thống điện thoại nội bộ, Sigurrdor Óli đọc tên của mình. Cánh
cửa ầm ì mở ra, rồi họ bước vào trong. Cầu thang tối tăm và bốc mùi khó chịu. Khi
họ lên đến tầng trên, một người phụ nữ đang đứng chờ họ ở cửa.
“Các ông
đã bắt được nó chưa?” Người phụ nữ hỏi.
“Thật
tiếc là chưa,” Sigurdur Óli lắc đầu đáp, “nhưng chúng tôi muốn nói chuyện với
bà về...”
“Họ đã
bắt được hắn chưa?” Một giọng nói khác vang lên từ trong nhà, và sau đó một
người phụ nữ trông giống hệt người kia bước ra. Cả hai tầm bảy mươi tuổi, đều
mặc váy đen và áo len đỏ. Trông họ đều đẫy đà với mái tóc bồng màu xám, khuôn
mặt bầu ánh lên cái nhìn rõ ràng là kỳ vọng.
“Vẫn chưa,”
Erlendur trả lời.
“Nó là
một kẻ đáng thương,” người phụ nữ thứ nhất tên Fjóla nói. Bà mời Sigurdur Óli
và Erlendur vào.
“Chị
không việc gì phải xót thương nó như thế,” người phụ nữ thứ hai tên Birna nói
rồi đóng cửa lại. “Kẻ cục súc đó đã đánh vào đầu chị, vậy mà chị còn nghĩ nó
một kẻ đáng thương sao?”
Hai thám
tử ngồi trong phòng khách, hết nhìn hai người phụ nữ rồi lại nhìn nhau. Đó là
một căn hộ nhỏ. Sigurdur Óli chú ý đến hai phòng ngủ sát vách nhau. Từ phòng
khách ông có thể thấy căn bếp nhỏ.
“Chúng
tôi đã đọc bản tường trình của các bà,” Sigurdur Óli nói, anh đã xem qua nó
trên đường đến đây. “Hai bà có thể mô tả kỹ hơn về người đàn ông đã tấn công
mình không?”
“Người
đàn ông á?” Bà Fjóla trả lời. “Nó là một thằng nhóc thì đúng hơn.”
“Nhưng
cũng đủ lớn để tấn công chúng ta rồi,” Birna thêm vào. “Nó đủ lớn để đẩy tôi
xuống sàn và còn đá tôi nữa cơ đấy!”
“Chúng
tôi không có tiền,” Fjóla nói.
“Chúng
tôi không để tiền ở đây,” Birna giải thích, “và chúng tôi nói với nó thế.”
“Nhưng nó
không tin chúng tôi.”
“Và nó
còn tấn công chúng tôi nữa.”
“Nó có vẻ
điên cuồng!”
“Và đáng
nguyền rủa - cái cách mà nó gọi chúng tôi ấy!”
“Nó mặc
một cái áo khoác xấu xí màu xanh lục. Giống như một tên lính vậy.”
“Nó cũng
đi loại giày cao cổ có dây buộc như thế này, màu đen, trông có vẻ nặng.”
“Nhưng nó
không làm đổ vỡ gì cả.”
“Đúng vậy,
nó chỉ chạy đi thôi.”
“Hắn có
lấy đi thứ gì không?” Erlendur hỏi.
“Nó như
thể bị mất trí ấy,” Fjóla nói, cố gắng hết sức để tìm ra một vài điểm có thể
tha thứ được của kẻ tấn công. “Nó không làm hỏng đồ đạc gì, cũng không lấy đi
thứ gì. Nó chỉ tấn công chúng tôi khi biết rằng không thể lấy được của chúng
tôi xu nào. Thật là một kẻ đáng thương.”
“Một kẻ
điên khùng thì đúng hơn,” Birna thốt lên. “Đáng thương ư?” Bà ta quay sang chị
gái. “Đôi lúc chị như là một người ngốc nghếch thực sự vậy. Nó bị điên mới đúng.
Chị nhìn vào mắt nó mà xem. Đôi mắt cay nghiệt và đờ đẫn. Nó còn vã mồ hôi nữa
chứ.”
“Vã mồ
hôi à?” Erlendur hỏi lại.
“Ròng
ròng trên mặt nó ấy. Mồ hôi ấy.”
“Đấy chỉ
là nước mưa thôi mà!” Fjóla phản đối.
“Không. Hắn
còn run rẩy toàn thân nữa.”
“Là mưa
thôi,” Fjóla nhắc lại và Birna ném cho bà một cái nhìn khó chịu.
“Nó đã
đánh vào đầu chị đấy, Fjóla. Đó là thứ cuối cùng chị cần nhớ đấy.”
“Chỗ nó
đá vào em có còn đau không?” Fjóla ân cần hỏi, và bà ta nhìn sang Erlendur. Ông
thề là đã thấy đôi mắt bà ta ánh lên sự hả hê.
Erlendur
và Sigurdur đến Nordumýri lúc trời vẫn còn sáng sớm. Những người hàng xóm của
Holberg sống ở tầng trệt và tầng một đang đợi họ. Cảnh sát đã lấy lời khai của
gia đình người đàn ông phát hiện ra xác Holberg, nhưng Erlendur vẫn muốn hỏi
thêm họ vài điều. Một phi công sống ở tầng trên cũng cho biết anh ta đi từ
Boston về đây vào đúng buổi trưa hôm Holberg bị giết. Anh ta ngủ cả buổi chiều
và đến khi cảnh sát gõ cửa thì mới dậy.
Họ bắt
đầu với viên phi công trước - anh ta ra mở cửa trong bộ dạng râu ria lởm chởm, mặc
độc áo lót với quần đùi. Anh ta tầm ba mươi tuổi, sống một mình trong căn hộ
trông như một đống rác: quần áo vứt bừa bộn khắp nơi, hai vali mở tung trên một
cái ghế sofa bằng da khá mới, vỏ chai rượu bày ngổn ngang trên bàn còn vỏ bia
thì không chỗ nào là không có. Viên phi công nhìn hai cảnh sát rồi đi vào nhà
mà không nói năng gì, sau đó anh ta ngồi sụp xuống ghế. Hai người đứng trước
mặt anh ta, không biết tìm ra chỗ nào để ngồi. Erlendur nhìn quanh căn phòng và
tự nhủ rằng ngay cả trong tưởng tượng ông cũng sẽ không bao giờ đi cùng một
chuyến bay với viên phi công này.
Chẳng
hiểu sao, viên phi công lại bắt đầu kể về vụ ly hôn của mình, băn khoăn không
biết cảnh sát có quan tâm đến điều đó hay không. Mụ vợ lẳng lơ bắt đầu ngoại
tình trong lúc anh ta đi bay. Một hôm, khi trở về nhà từ Oslo, anh ta đã phát
hiện ra vợ mình đang dan díu với một người bạn học cũ. Thật khốn nạn, anh ta
nói thêm, và hai cảnh sát không biết viên phi công đó thấy điều gì là khốn nạn
hơn, vợ anh ta không chung thủy hay việc anh ta phải ở Oslo.
“Về vụ án
mạng trong căn nhà dưới tầng trệt...” Erlendur chặn ngang đoạn độc thoại líu
nhíu của viên phi công.
“Các ông
đã bao giờ đến Oslo chưa?” Viên phi công hỏi.
“Chưa,”
Erlendur trả lời. “Chúng tôi không định nói về Oslo!”
Đầu tiên
viên phi công nhìn Erlendur, rồi lại nhìn sang Sigurdur Óli, cuối cùng hình như
anh ta cũng đã hiểu ý.
“Tôi
chẳng biết gì về ông ta cả,” anh ta nói. “Tôi mua căn hộ này cách đây bốn tháng,
theo tôi được biết thì không ai sử dụng nó trong một thời gian dài trước đó. Tôi
gặp ông ta vài lần, chỉ ở bên ngoài thôi. Có vẻ như ông ta cũng được.”
“Cũng
được là sao?” Erlendur hỏi.
“Ý tôi là
nói chuyện với ông ta cũng được.”
“Hai
người nói những chuyện gì?”
“Về việc
bay. Hầu hết là thế. Ông ta rất thích bay.”
“Ý anh là
sao, thích bay?”
“Máy bay,”
viên phi công trả lời rồi mở một lon bia vừa lấy ra từ cái túi nhựa. “Các thành
phố,” anh ta nói thêm và nuốt nhanh một ngụm bia. “Các nữ tiếp viên,” anh ta
nói và ợ lớn. “Các anh biết đấy, ông ta hỏi rất nhiều về các tiếp viên.”
“Không, tôi
không biết,” Erlendur nói.
“Ở các
trạm tạm dừng khi đi ra nước ngoài ấy mà.”
“Tôi hiểu
rồi.”
“Chuyện
gì xảy ra, họ có nóng bỏng không, những chuyện đại loại như vậy. Ông ta nghe
được những chuyện phóng túng... trên các chuyến bay quốc tế.”
“Lần cuối
cùng anh gặp ông ta là khi nào?” Sigurdur Óli hỏi.
Viên phi
công nghĩ ngợi một lúc. Anh ta không nhớ ra được.
“Vài ngày
trước đây,” cuối cùng anh ta cũng nói.
“Anh có
để ý thấy ai đến thăm ông ta dạo gần đây không?” Erlendur hỏi.
“Không, tôi
không ở nhà nhiều lắm.”
“Thế anh
có thấy ai lảng vảng quanh khu này, có hành vi khả nghi, hay chỉ đứng quanh
quẩn ở đây không?”
“Không.”
“Anh có
thấy ai mặc áo quân phục màu xanh lục không?”
“Không.”
“Một
thanh niên trẻ đi giày quân đội?”
“Không. Là
hắn đấy à? Các ông có biết ai làm chuyện đó không?”
“Không!”
Erlendur trả lời, rồi bước ra khỏi căn hộ trong lúc giẫm phải hàng đống vỏ bia.
Người phụ
nữ quyết định đưa con đến nhà bà ngoại mấy hôm và đã sẵn sàng cho chuyến đi. Cô
ta không muốn các con ở lại ngôi nhà sau tất cả những gì đã xảy ra. Chồng cô ta
đồng ý. Đó là điều tốt nhất cho họ. Rõ ràng hai vợ chồng ấy bị sốc nặng. Họ mua
căn nhà này cách đây bốn năm và rất thích sống ở Nordurmýri. Đây là một nơi lý
tưởng đối với đôi vợ chồng và hai đứa trẻ.
“Thật
kinh khủng khi chứng kiến ông ấy bị như vậy,” người chồng nói, giọng chỉ vừa đủ
nghe, rồi nhìn các con. “Chúng tôi nói với các con rằng ông ta đang ngủ,” anh
ta nói thêm, “nhưng...”
“Chúng
cháu biết là ông ấy đã chết rồi,” thằng anh lên tiếng.
“Bị giết,”
đứa em bổ sung.
Hai vợ
chồng cười ngượng nghịu.
“Chúng
hiểu điều đó rõ lắm,” người mẹ nói và bẹo vào má thằng anh.
“Tôi
không ghét ông Holberg,” người chồng nói. “Chúng tôi cũng thỉnh thoảng nói
chuyện với nhau bên ngoài. Ông ấy sống trong ngôi nhà này khá lâu rồi, chúng
tôi nói về vườn tược và chăm sóc cây cối, những thứ đại loại như vậy. Cũng
giống như ông thường nói với hàng xóm của mình thôi mà.”
“Nhưng
không thân mật cho lắm,” người mẹ nói. “Ý tôi là quan hệ giữa chúng tôi và ông
ta. Tôi cho là mối quan hệ đó không nên gần gũi quá. Ông biết đấy, sự riêng tư
mà.”
Họ không
thấy có người nào bất thường quanh ngôi nhà và cũng không thấy ai mặc áo quân
phục màu xanh quanh quẩn ở đó cả. Người vợ đang rất nóng lòng muốn đưa hai con
đi.
“Ông
Holberg có nhiều khách đến thăm không?” Sigurdur Óli hỏi.
“Tôi chưa
từng thấy ai cả,” người vợ trả lời.
“Ông ấy
làm người khác có cảm giác là ông ấy cô đơn,” người chồng nói thêm.
“Căn hộ
của ông ấy có mùi khó chịu lắm,” thằng con cả lên tiếng.
“Có mùi
rất khó chịu,” thằng con út đồng thanh.
“Ở tầng
trệt bị ẩm ướt liên tục,” người chồng nói một cách ngại ngùng.
“Đôi lúc
nó lan cả lên đây,” người vợ nói. “Sự ẩm thấp ấy.”
“Chúng
tôi đã nói với ông ấy chuyện đó.”
“Ông ta
cũng đã định để mắt đến nó.”
“Nhưng đó
là chuyện đã xảy ra cách đây hai năm rồi.”