Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa - Chương 04 - 05 - 06
4
Hai vợ
chồng ở Gardabaer nhìn Erlendur với ánh mắt đầy đau đớn. Đứa con gái bé bỏng
của họ đã bị mất tích. Họ không nhận được tin gì về con bé từ ba ngày nay, chứ
không phải từ đám cưới mà nó bỏ trốn. Con gái bé bỏng của họ. Erlendur đã kịp
hình dung ra một cô bé con tóc xoăn vàng trước khi họ nói rằng con bé đã hai
mươi ba tuổi và đang theo học khoa Tâm lý của trường Đại học Iceland.
“Đám
cưới à?” Erlendur nhìn quanh phòng khách rộng thênh thang và hỏi. Nó gần như
rộng bằng cả tầng nhà nơi ông ở.
“Đám
cưới của nó!” Ông bố
thốt lên như thể ông ta vẫn chưa hiểu ra chuyện này. “Con bé trốn khỏi đám cưới
của chính nó!”
Bà mẹ khẽ
đưa chiếc khăn tay nhàu nhĩ lên chặm mũi.
Lúc đó đã
là giữa trưa. Vì con đường từ Reykjavík đang bị sửa chữa nên Erlendur mất nửa
tiếng đồng hồ mới đến được Gardabaer, và sau khi tìm một hồi ông mới thấy ngôi
nhà xây tách biệt ấy. Nó gần như bị che khuất hẳn nếu nhìn từ đường vào, bao
quanh là khu vườn rộng trồng tất cả các loại cây cao phải đến sáu mét. Hai vợ
chồng chủ nhà gặp ông trong trạng thái sốc tột cùng.
Erlendur
nghĩ rằng chuyện này thật phí thời gian. Còn rất nhiều việc quan trọng hơn đang
đợi ông, tuy nhiên, dù ông có không nói chuyện với vợ cũ trong suốt hai thập kỷ
qua, ông vẫn muốn giúp đỡ bà ta một điều gì đó.
Bà mẹ mặc
một chiếc váy màu xanh nhạt và thanh nhã, còn ông bố mặc bộ quần áo màu đen. Người
bố nói rằng ông càng lúc càng lo lắng về con gái của mình. Ông ta biết rằng
cuối cùng con bé sẽ trở về, an toàn và lành lặn - ông không muốn tin vào điều
gì khác - nhưng ông ta vẫn muốn hỏi ý kiến cảnh sát, mặc dù chẳng có lý do gì
để phải nhờ đến đội tìm kiếm và đội cứu hộ ngay hay gửi thông báo lên đài báo
và ti vi cả.
“Con bé
chỉ biến mất thôi,” bà mẹ nói. Hai vợ chồng trông hơi già hơn Erlendur một chút,
có lẽ họ chừng sáu mươi tuổi. Họ quản lý một công ty chuyên nhập khẩu quần áo
trẻ em. Công ty này cung cấp cho họ tất cả những gì cần thiết của một lối sống
giàu sang. Những kẻ mới phất. Thời gian đã cư xử với họ thật tử tế. Erlendur để
ý thấy hai chiếc xe mới coóng bóng loáng ở trước gara đôi.
Bà mẹ lấy
hết sức mình và bắt đầu kể lại cho Erlendur nghe câu chuyện. “Chuyện xảy ra vào
ngày thứ Bảy - ba ngày trước đây, lạy Chúa, thời gian trôi qua nhanh quá. Hôm
đó quả là một ngày đẹp trời. Đám cưới của chúng được tiến hành bởi một mục sư
rất nổi tiếng.”
“Chả ích
gì,” ông bố nói. “Ông ta vội vội vàng vàng bước vào, phát biểu mấy câu sáo rỗng
rồi lại xách va li biến mất. Tôi không thể hiểu tại sao ông ta lại nổi tiếng
đến thế.”
Vợ ông ta
không muốn để bất cứ điều gì làm hỏng sự lộng lẫy của đám cưới.
“Hôm ấy
tuyệt vời lắm! Có cả nắng trong tiết trời thu mát mẻ. Riêng trong nhà thờ đã
phải có đến hàng trăm người. Con bé có rất nhiều bạn. Thật là một cô gái được
nhiều người yêu mến. Chúng tôi tổ chức hôn lễ tại một hội trường ở đây, Gardabaer.
Nơi đó tên là gì ấy nhỉ? Lúc nào tôi cũng quên.”
“Gardahort,”
ông bố nói.
“Đó thật
là một nơi ấm áp tuyệt vời,” bà ta tiếp. “Hội trường chật kín. Có nhiều quà cáp
lắm. Và sau đó... sau đó... khi...”
“Bọn trẻ
chuẩn bị nhảy điệu đầu tiên,” ông bố tiếp tục nói khi vợ ông ta bắt đầu òa khóc.
“Và có một thằng ngu ngốc nào đó đang đứng trên sàn nhảy. Chúng tôi gọi Dísa
Rós nhưng con bé không xuất hiện. Chúng tôi bắt đầu đi tìm nhưng mọi chuyện
diễn ra cứ như thể là sàn nhà đã mở ra và nuốt chửng con bé vậy.”
“Dísa
Rós?” Erlendur hỏi lại.
“Hóa ra
là con bé đã lấy chiếc xe cưới.”
“Chiếc xe
cưới à?”
“Chiếc
limousine. Với tất cả hoa và nơ. Cái xe đã đưa chúng đến nhà thờ. Con bé đã
trốn khỏi đám cưới. Không hề có một báo hiệu nào! Không có lấy một lời giải
thích!”
“Trốn
khỏi đám cưới của chính nó!” Bà mẹ gào lên.
“Vậy ông
bà không biết tại sao cô ấy lại hành động như thế à?”
“Chắc
chắn là con bé đã thay đổi quyết định,” bà mẹ nói. “Con bé đã hối hận về tất cả
mọi chuyện.”
“Nhưng
tại sao lại thế mới được chứ?”
“Xin ngài,
ngài có thể tìm con bé về cho chúng tôi được không?” Ông bố hỏi. “Con bé vẫn
chưa liên lạc lại, và ngài có thể thấy chúng tôi đang khổ sở lo lắng đến độ nào.
Bữa tiệc thực sự đã thất bại thảm hại. Đám cưới đã bị hủy. Còn chúng tôi thì
hoàn toàn bất lực. Và con gái bé nhỏ của chúng tôi thì mất tích.”
“Thế còn
chiếc xe cưới, có ai tìm thấy nó chưa?”
“Rồi. Ở
Gardastraeti.”
“Tại sao
nó lại ở đó?”
“Tôi
không biết. Con bé chẳng quen biết ai ở đó cả. Quần áo nó để lại trong xe. Toàn
bộ quần áo.”
Erlendur
lưỡng lự.
“Toàn bộ
quần áo của cô ấy để lại trong xe cưới à?” Cuối cùng ông cất tiếng, nhanh chóng
cân nhắc xem cuộc nói chuyện này sẽ đi về đâu và liệu ông có phần trách nhiệm
nào không.
“Con bé
cởi toàn bộ đồ cưới và mặc quần áo mà nó đã chuẩn bị sẵn trong xe,” bà mẹ trả
lời.
“Ông có
nghĩ là ông sẽ tìm thấy nó không?” Ông bố hỏi. “Chúng tôi đã liên lạc với tất
cả những người mà nó quen nhưng không ai biết gì cả. Chúng tôi không biết phải
làm gì nữa. Tôi có ảnh của con bé đây.”
Ông ta
đưa cho Erlendur xem tấm hình chụp một cô gái trẻ trung, xinh xắn, tóc vàng hoe,
giờ đây đã mất tích. Cô ta mỉm cười với ông trong ảnh.
“Ông bà
không biết chuyện gì đã xảy ra à?”
“Không hề
có một dấu vết nào,” bà mẹ đáp.
“Không hề,”
ông bố phụ theo.
“Và đây
là quà cưới phải không?” Erlendur nhìn ra chiếc bàn ăn khổng lồ, trên đó chồng
đống những gói lớn gói nhỏ màu mè sặc sỡ được thắt nơ xinh xắn, bọc giấy bóng
kính và hoa. Ông bước đến bên cái bàn trong khi hai vợ chồng nọ nhìn theo. Trong
đời, chưa bao giờ ông nhìn thấy nhiều quà như vậy, ông băn khoăn không biết
trong những hộp quà ấy có gì. Bát đĩa sành và bát đĩa sành, ông tưởng tượng.
Thật là
một cuộc đời giàu có!
“Vậy đây
là cái gì thế?” Ông chỉ tay vào mấy cành nhánh chìa ra từ một cái cây cắm trong
chiếc lọ lớn cuối bàn. Trên đó người ta treo những tấm thiệp hình trái tim màu
đỏ.
“Đó là
một cái cây nhắn gửi.”
“Một cái
gì cơ?” Erlendur hỏi lại. Ông mới đi đám cưới có một lần và lần đó cách đây đã
quá lâu. Và ở đó chẳng có cây nhắn gửi nào hết.
“Các vị
khách viết lời chúc mừng cho cô dâu chú rể vào thiệp rồi treo chúng lên cây. Khách
khứa đã treo rất nhiều tấm thiệp lên trước khi Dísa Rós mất tích,” bà mẹ nói
trong lúc vẫn chấm khăn lên
mũi.
Chuông
điện thoại của Erlendur chợt vang lên trong túi áo khoác. Khi ông lóng ngóng
lấy điện thoại ra, nó bị kẹt lại ở nắp túi, và thay vì kiên nhẫn nới lỏng nắp
túi ra (mà điều này thật dễ dàng), Erlendur lại giật mạnh cho đến lúc cái túi
bật mở. Bàn tay đang giữ chiếc điện thoại vung lên làm cho cái cây nhắn gửi đổ
sập xuống sàn. Erlendur nhìn hai vợ chồng đầy vẻ hối lỗi và nghe điện thoại.
“Ông có
định đến Nordurmýri với chúng tôi không đấy?” Sigurdur Óli nói không quanh co. “Còn
phải kiểm tra ngôi nhà kỹ lưỡng hơn mà!”
“Các anh
đã xuống đó rồi à?” Erlendur hỏi. Lúc này, ông đã lui vào một góc khuất.
“Không. Tôi
sẽ đợi ông,” Sigurdur Óli trả lời. “Ông đang ở cái nơi quái quỷ nào thế?”
Erlendur
gác máy.
“Tôi sẽ
xem xem mình có thể làm được gì,” ông nói với đôi vợ chồng. “Tôi không nghĩ là
có nguy hiểm gì ở đây. Có thể là con gái ông bà chỉ bị mất tinh thần một thời
gian và cô ấy đang ở với một vài người bạn nào đó. Ông bà không nên quá lo lắng.
Tôi chắc chắn là cô ấy sẽ gọi về sớm thôi.”
Hai vợ
chồng nọ đang lúi húi bên đống thiệp vương vãi trên sàn nhà. Erlendur thấy họ
đã bỏ sót mấy chiếc trượt vào gầm ghế bèn cúi xuống nhặt chúng lên. Erlendur
đọc những tấm thiệp và nhìn đôi vợ chồng.
“Ông bà
đã đọc cái này chưa?”
Ông bố
đọc lời nhắn và khuôn mặt ông lộ vẻ kinh ngạc. Ông ta đưa tấm thiệp cho vợ. Bà
ta đọc đi đọc lại nó nhưng hình như vẫn chẳng hiểu gì. Erlendur đưa tay ra lấy
tấm thiệp và đọc lại lần nữa. Nó không có chữ ký.
“Đây có
phải là chữ viết tay của con gái ông bà không?” Ông hỏi.
“Tôi nghĩ
thế,” bà mẹ đáp.
Erlendur
xoay tấm thiệp lại và đọc lại lời nhắn:
“HẮN TA
LÀ MỘT CON QUỶ. TÔI ĐÃ LÀM GÌ THẾ NÀY?”
5
“Ông đi
đâu thế?” Sigudur Óli hỏi Erlendur khi ông quay trở về làm việc, nhưng Erlendur
không trả lời.
“Eva có
tìm cách liên lạc với tôi không?” Ông hỏi.
Sigurdur
Óli nói rằng anh ta không nghĩ như vậy. Anh ta biết con gái của Erlendur và vấn
đề của cô, nhưng cả hai người chưa bao giờ đề cập đến chuyện đó. Hiếm khi họ
nhắc đến mấy vấn đề cá nhân trong những lần chuyện trò.
“Có gì
mới về vụ Holberg không?” Erlendur hỏi và đi thẳng về phía văn phòng. Sigurdur
Óli đi theo ông và đóng cửa lại. Ở Reykjavík rất hiếm khi có vụ giết người, nên
mỗi khi xảy ra, chúng lại lôi kéo sự chú ý đặc biệt của dư luận. Cục điều tra
tội phạm có quy định là không thông báo gì với giới truyền thông về những kết quả điều tra
trừ khi thực sự cần thiết. Nhưng quy định đó không được áp dụng trong trường
hợp này.
“Chúng ta
biết thêm một chút về ông ta,” Sigurdur Óli nói trong lúc mở tập tài liệu trên
tay. “Ông ta sinh ra tại Saudárkrókur, sáu mươi chín tuổi. Năm ngoái ông ta lái
xe tải cho Công ty vận tải Iceland. Ông ta làm việc ở đó có vẻ thất thường.”
Sigurdur
Óli ngừng lại.
“Chúng ta
có nên nói chuyện với đồng nghiệp của ông ta không?” Anh vừa kéo chiếc cà vạt
xuống vừa hỏi. Sigurdur Óli mặc bộ vest mới, cao to và đẹp trai, anh tốt nghiệp
khoa Tội phạm học ở một trường Đại học của Mỹ. Anh có tất cả mọi thứ mà
Erlendur không có: hiện đại và ngăn nắp.
“Những
người trong sở nghĩ thế nào?” Erlendur hỏi lại, xoay xoay cái cúc lỏng lẻo trên
chiếc áo len đan, giờ thì nó đã trượt xuống lòng bàn tay ông. Ông to khỏe, rắn
chắc với mái tóc rậm màu hoe, và là một trong những thám tử giàu kinh nghiệm
nhất của đội. Ông thường làm việc theo cách riêng của mình. Cấp trên và đồng
nghiệp từ lâu đã thôi không còn tranh luận với ông nữa. Mọi việc đã thành ra
như vậy hết năm này qua năm khác. Erlendur không ghét bỏ gì điều này cả.
“Mọi
người cho rằng có lẽ là một gã dở hơi nào đó,” Sigurdur Óli nói. “Ngay từ lúc
chúng ta truy tìm cái tên mặc áo quân đội ấy. Đó có thể là một thằng nhãi muốn
kiếm tiền nhưng lại phát hoảng lên khi bị Holberg từ chối.”
“Thế còn
gia đình của Holberg thì sao? Ông ta có gia đình không?”
“Không có
gia đình, nhưng chúng ta vẫn chưa thu thập đủ thông tin. Chúng ta mới chỉ có
những tình tiết cơ bản thôi: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.”
“Theo
quan sát của tôi thì ông ta ở một mình và đã ở như vậy khá lâu rồi.”
“Ông đã
biết như thế, hẳn nhiên rồi,” Sigurdur Óli thốt lên, nhưng Erlendur vờ như
không nghe thấy.
“Có tin
gì của bên y tế và nhóm pháp y chưa?”
“Báo cáo
sơ bộ đã nộp rồi. Toàn những thứ chúng ta đã biết. Holberg chết vì một cú đánh
vào đầu. Đó là một cú đánh mạnh, nhưng về cơ bản là bởi một chiếc gạt tàn với
các cạnh sắc nhọn. Chắc chắn là như thế. Sọ bị bẹp và ông ta chết ngay tại chỗ...
hoặc gần như thế. Có vẻ như ông ta đã va phải cái bàn khi ngã xuống. Trên trán
có một vết thương đáng sợ, vừa với góc của cái bàn. Các dấu vân tay trên gạt
tàn là của Holberg nhưng vân tay còn có ở hai chỗ khác nữa, một trong số đó là
trên cái bút chì.”
“Thế
chúng có phải là của thủ phạm không?”
“Có, tất
cả các khả năng đều dẫn đến chúng là của hung thủ.”
“Đúng là
một vụ giết người vụng về điển hình theo kiểu Iceland.”
“Điển
hình. Và đó là giả thuyết mà chúng ta đang tập trung điều tra.”
* * *
Trời vẫn
đang mưa. Vào thời gian đó, các cơn áp thấp từ ngoài khơi Đại Tây Dương di
chuyển vào liên tiếp, hướng thẳng vào bờ biển phía Đông Iceland, mang theo mưa,
gió và cả mùa đông thê lương ảm đạm. Cục điều tra hình sự vẫn đang cần mẫn làm
việc trong văn phòng ở Nordurmýri. Dải băng màu vàng chăng quanh căn nhà xảy ra
án mạng gợi cho Erlendur nhớ đến ban điện lực; một cái hố giữa đường, một cái
lều bẩn thỉu ở bên trên, một tia sáng le lói trong lều, tất cả đều được bao
quanh gọn ghẽ bằng một dải băng vàng. Giống như vậy, cảnh sát cũng quây lấy
hiện trường vụ án mạng bằng một dải băng nhựa màu vàng với tên của nhà chức
trách in trên đó. Erlendur và Sigurdur Óli gặp Elínborg cùng các thám tử khác -
những người đã lùng sục tòa nhà kỹ lưỡng suốt cả đêm đến tận sáng, họ vừa mới
hoàn thành xong công việc của mình.
Những
người sống quanh đó đã được thẩm vấn, nhưng không ai trong số họ nhận thấy điều
gì bất thường ở hiện trường từ sáng thứ Hai cho đến khi cái xác được phát hiện.
Không lâu
sau đó tòa nhà chẳng còn ai khác ngoài Erlendur và Sigurdur Óli. Máu trên thảm
trải sàn đã chuyển sang màu đen. Chiếc gạt tàn bị thu thập làm chứng cứ. Cả cái
bút chì và quyển sổ. Còn lại dường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Sigurdur Óli
bước đến căn phòng làm việc và hành lang dẫn đến phòng ngủ, còn Erlendur đi
quanh phòng khách. Họ đều đeo găng tay cao su trắng. Tranh ảnh được dán và đóng
khung vào tường, trông như thể được mua tại tiền sảnh của các đại lý du lịch. Trong
tủ sách có bản dịch của những cuốn truyện kinh dị, những cuốn sách bìa mềm của
một câu lạc bộ sách, một số quyển đã được đọc, một số rõ ràng là chưa được đụng
đến. Không có cuốn sách bìa cứng hấp dẫn nào cả. Erlendur gần như cúi sát xuống
sàn nhà để đọc tên sách ở giá cuối cùng và nhận ra mỗi một quyển Lolita của
Nabokov, sách bìa mềm. Ông lấy nó ra. Đó là bản tiếng Anh và đã được đọc.
Ông đặt
quyển sách vào vị trí và chầm chậm tiến về phía chiếc bàn. Nó có dạng chữ L và
chiếm một góc phòng khách. Một chiếc ghế công sở tiện dụng còn mới kê cạnh bàn,
có một tấm đệm mỏng lót phía dưới để bảo vệ tấm thảm trải sàn. Cái bàn trông cũ
hơn chiếc ghế rất nhiều. Dưới mặt bàn lớn có ngăn kéo ở cả hai bên và một ngăn
dài ở giữa, tất cả là chín cái. Trên mặt bàn ngắn hơn có một màn hình vi tính
17 inch với một khay trượt để bàn phím. Case máy tính được đặt trên sàn nhà. Tất
cả các ngăn kéo đều khóa chặt.
Sigurdur
Óli xem xét cái tủ quần áo trong phòng ngủ. Nó được sắp xếp rất gọn ghẽ, tất để
ở một ngăn, quần lót ở một ngăn khác, rồi đến quần dài và áo len. Mấy cái sơ mi
và ba bộ vest được mắc trên thanh ngang, bộ cũ nhất có từ thời kỳ khiêu vũ, Sigurdur
Óli nghĩ, có sọc màu nâu. Vài đôi giày đặt dưới đáy tủ. Quần áo ngủ ở ngăn kéo
trên cùng. Người đàn ông này đã dọn giường trước khi người khách đến. Một tấm
mền trắng phủ lên gối và tấm chăn lông vịt. Đó là một chiếc giường đơn.
Trên
chiếc bàn cạnh giường ngủ có một cái đồng hồ báo thức và hai quyển sách, một
quyển gồm toàn các bài phỏng vấn với một chính trị gia nổi tiếng, quyển còn lại
dày đặc những bức ảnh về xe tải ở Scania-Vabis. Trong chiếc bàn đó còn có một
tủ nhỏ đựng thuốc, cồn rửa vết thương, thuốc ngủ, Panadol và một lọ Vaseline
nhỏ.
“Anh có
thấy cái chìa khóa nào không?” Erlendur hỏi, lúc này ông đã ra đến cửa.
“Không
thấy chìa nào cả. Ý anh là chìa khóa cửa á?”
“Không, chìa
khóa mở chiếc bàn cơ.”
“Cũng
không thấy nốt.”
Erlendur
vào phòng làm việc và từ đó đi ra bếp. Ông mở các ngăn kéo và tủ ly nhưng chỉ
nhìn thấy dao kéo và cốc chén, muôi thìa và bát đĩa. Không có chìa khóa nào cả.
Ông đi đến hàng móc treo bên cạnh cửa, lục soát túi áo khoác và tìm thấy một
cái bao nhỏ màu đen với một chùm chìa khóa cùng mấy đồng xu lẻ bên trong. Hai
chiếc chìa khóa nhỏ được treo cùng chùm với các chìa mở cửa chính, cửa nhà và
các phòng.
Erlendur
thử tra chúng vào bàn. Cùng một chiếc mà mở được tất cả chín ngăn kéo.
Ông mở
cái ngăn kéo lớn ở giữa bàn trước. Trong đó chủ yếu là các hóa đơn - hóa đơn
điện thoại, điện, lò sưởi và thẻ tín dụng, có cả một bảng phí đăng ký mua báo
dài hạn. Hai ngăn kéo dưới cùng bên trái trống không và ngăn tiếp theo là một
album ảnh. Tất cả các loại ảnh đen trắng cũ của nhiều người ở nhiều thời điểm
khác nhau, một số bức ảnh trông giống như một phòng khách nào đó ở Nordurmýri, một
số khác là ảnh dã ngoại: cây phong nhỏ, thác nước Gullfoss và Geysir. Ông nhìn
thấy hai bức ảnh mà ông nghĩ là của nạn nhân khi ông ta còn trẻ, nhưng không có
chiếc nào mới chụp cả.
Erlendur
mở các ngăn kéo bên phải. Hai ngăn trên cùng trống rỗng. Ngăn thứ ba có một bộ
bài, một bộ cờ và một lọ mực cũ.
Ông tìm
thấy bức ảnh ở ngăn dưới cùng.
Erlendur
đang đóng ngăn dưới cùng lại thì bỗng nghe thấy tiếng sột soạt nhẹ bên trong. Khi
mở ra và đóng lại lần nữa, ông lại nghe thấy tiếng sột soạt y như lần trước. Nó
cọ vào vật gì đó khi đóng lại. Ông ngồi xổm xuống, nhìn vào bên trong nhưng
không thấy gì. Ông kéo ngăn kéo ra lần nữa nhưng không nghe thấy gì cả, sau đó
đóng lại và lại nghe thấy âm thanh kia. Ông quỳ xuống sàn, kéo cái ngăn ra
ngoài, và nhìn thấy có cái gì đó mắc kẹt bèn căng người lấy nó ra.
Đó là bức
ảnh đen trắng nhỏ có hình một ngôi mộ ở một nghĩa trang vào mùa đông. Ông không
nhận ra đó là nghĩa trang nào. Có một bia đá đặt trên mộ và các chữ khắc vẫn
còn khá rõ. Tên của một cô gái được khắc trên đó. AUDUR. Không có họ. Erlendur
nhìn ngày tháng không được rõ lắm. Ông lục tìm chiếc kính trong túi áo, đeo
kính lên và nhìn sát vào bức ảnh. 1964 - 1968. Erlendur lờ mờ trông thấy một bài
văn bia, nhưng các chữ cái quá nhỏ nên ông không thể đọc được. Ông cẩn thận
thổi bụi trên tấm ảnh.
Cô bé
chết khi mới được bốn tuổi. Erlendur nhìn lên trong lúc cơn mưa mùa thu tạt
mạnh vào cửa sổ. Lúc đó đã là buổi trưa nhưng bầu trời vẫn nhuốm một màu u ám.
6
Chiếc
xe tải lớn nằm im lìm trong cơn bão như một con thú thời tiền sử, còn mưa thì cứ
rơi như trút. Cảnh sát phải mất một thời gian mới tìm được chiếc xe vì nó không
đỗ nơi Holberg sống mà lại nằm tại một bãi đậu ở phía tây Snorrabraut, bên cạnh
trung tâm chăm sóc sức khỏe Domus Medica, cách nhà Holberg vài phút đi bộ. Cuối
cùng cảnh sát đã thông báo trên đài xem có ai biết nó đỗ ở đâu không.
Một
cảnh sát tuần tra đã tìm thấy chiếc xe vào cùng thời điểm mà Erlendur và
Sigurdur Óli mang theo tấm ảnh rời khỏi nhà Holberg. Một nhóm pháp y đã được
gọi đến để khám xét chiếc xe và tìm ra dấu vết. Đó là một chiếc xe hiệu MAN với cabin màu đỏ. Sau
khi khám xét nhanh, người ta tìm thấy một tập tạp chí gáy cứng có nội dung
khiêu dâm. Họ quyết định chuyển chiếc xe đến trụ sở Cục điều tra tội phạm để
làm rõ thêm.
Trong khi
việc kiểm tra chiếc xe đang diễn ra, một nhóm pháp y khác cũng làm việc với tấm
ảnh. Nó được in trên giấy ảnh Ilford, loại giấy rất thông dụng trong những năm
1960, nhưng lâu rồi người ta không còn dùng nó nữa. Có thể bức ảnh được chụp
bởi một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp hoặc cũng có thể là một người nghiệp dư. Việc
nó đã bắt đầu phai màu chứng tỏ chất lượng ảnh không được tốt cho lắm. Không có
chữ viết đằng sau, cũng không có tên địa danh để xác định xem nghĩa trang trong
ảnh là ở đâu. Nó có thể ở bất cứ nơi nào trên đất nước này.
Người
chụp đứng cách bia đá tầm ba mét, tấm ảnh được chụp gần như chính diện cái bia.
Anh ta đã phải quỳ xuống, trừ khi anh ta rất thấp. Thậm chí từ khoảng ba mét đó,
góc chụp cũng khá hẹp. Không có cây cối gì mọc xung quanh, cũng chẳng thấy ngôi
mộ nào khác. Đằng sau cái bia, tất cả những gì có thể thấy được là một đám
sương mờ màu trắng.
Nhóm pháp
y tập trung vào những chữ khắc, chúng gần như không thể định dạng được vì người
chụp đứng khá xa.
Người ta
tiến hành phục chế lại bức ảnh rất nhiều lần và chữ khắc được phóng to cho đến
khi mỗi chữ cái được in trên khổ giấy A5 và được đánh số, sắp xếp theo thứ tự
trên bia đá. Những bức hình đó rất thô, chỉ còn là những chấm nốt màu đen và
trắng tạo ra các sắc thái sáng và tối. Nhưng khi chúng được quét vào máy tính, những
mảng tối và độ phân giải sẽ được xử lý. Một vài chữ cái sẽ rõ hơn các chữ khác,
điều này giúp cho nhóm pháp y có thể điền vào các chỗ trống. Các chữ cái M, F
và O có thể thấy rõ, các chữ còn lại khó nhìn hơn.
Erlendur
gọi đến nhà một viên quản lý Tổng cục thống kê quốc gia, ông này vừa nguyền rủa
vừa chửi thề khi đồng ý gặp Erlendur tại trụ sở ở Skuggasund. Erlendur biết
rằng toàn bộ các giấy chứng tử phát hành từ năm 1916 đều được lưu giữ tại đó. Không
còn ai làm việc trong tòa nhà, tất cả nhân viên đã tan sở trước đó một lúc lâu.
Ba mươi phút sau, viên quản lý dừng xe ở bên ngoài Cục thống kê và hời hợt bắt
tay Erlendur. Ông ta nhập mã PIN vào hệ thống bảo vệ rồi dùng một tấm thẻ đưa
họ vào tòa nhà. Erlendur trình bày những điều cơ bản nhất với ông ta.
Họ kiểm
tra tất cả các giấy chứng tử phát ra năm 1968 và tìm thấy hai cái tên Audur. Một
bé gái chết năm lên bốn tuổi. Cô bé chết vào tháng Hai. Một bác sĩ đã kí vào
giấy chứng tử và họ nhanh chóng tìm ra tên ông ta trong sổ đăng ký quốc gia. Ông
ta sống ở Reykjavík. Tên của mẹ cô bé - Kolbrún - cũng được ghi trong tờ giấy. Họ
tìm ra bà ta rất dễ dàng. Nơi cuối cùng mà bà ta trú là ở Keflavík vào đầu
những năm 1970. Sau đó họ kiểm tra các giấy chứng tử một lần nữa. Kolbrún chết
năm 1971, ba năm sau cái chết của con gái.
Cô bé
chết vì một khối u ác tính trong não.
Người mẹ
chết vì tự tử.