Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa - Chương 18 - 19
18
Sigurdur
Óli nhìn thấy đèn xe cảnh sát đang tiến lại gần và biết rằng đó là Erlendur. Cái
máy đào đất kêu ùng ục bên cạnh ngôi mộ, sẵn sàng làm công việc của mình khi
nhận được hiệu lệnh. Đó là một máy đào nhỏ, lúc nào cũng kêu bình bịch với
những cú xóc mạnh. Những vết xích của nó kéo dài trên lớp bùn. Nó thải ra những
cột khói đen mù và làm cho không khí xung quanh ám mùi hôi của dầu mỡ.
Sigurdur
Óli và Elínborg đứng cạnh ngôi mộ cùng với một bác sĩ pháp y, một luật sư đến
từ văn phòng Công tố, một mục sư và một ngưòi trông giữ nhà thờ, vài cảnh sát
đến từ Keflavík và người đào thuê. Đám người đứng dưới mưa, ghen tị với
Elínborg vì cô là người duy nhất có ô che, và Sigurdur Óli - người được đứng
một nửa người dưới cái ô đó. Họ thấy Erlendur đi một mình khi ông ra khỏi ngôi
nhà và chầm chậm tiến về phía họ. Họ đã có đủ giấy tờ cho phép tiến hành cuộc
khai quật, nhưng điều này chỉ diễn ra khi có lệnh của Erlendur.
Erlendur
xem xét khu vực, thầm ân hận vì sự mạo phạm, phá hủy và giày xéo này. Bia đá
của ngôi mộ đã được dỡ ra và đặt trên con đường gần đó. Cạnh đó là một cái bình
màu xanh với một cái chân đế dài có thể chôn xuống đất. Cái bình cắm một bó hoa
hồng và Erlendur thầm nghĩ rằng chắc chắn Elín đã đặt nó lên ngôi mộ. Ông dừng
lại, đọc lại dòng chữ khắc một lần nữa và lắc đầu. Cái cọc bằng gỗ màu trắng
nhằm đánh dấu ngôi mộ, trước đây được cắm nhô lên khỏi mặt đất chừng hai mươi
phân thì giờ đây đã nằm bên cạnh bia mộ, gãy nát. Erlendur đã nhìn thấy loại hàng rào
bao quanh mộ của trẻ em, và việc chứng kiến cảnh nó bị vùi dập thế này khiến
lòng ông nhói đau. Erlendur nhìn lên bầu trời đen mù mịt. Nước mưa chảy từ vành
mũ của ông xuống tận vai và ông liếc nhìn trong màn mưa đang sầm sập trút xuống.
Ông nhìn nhóm người đang đứng bên cạnh cái máy đào, cuối cùng nhìn sang
Sigurdur Óli gật đầu. Sigurdur Óli ra hiệu với người điều khiển.
Cái gầu xúc vươn lên không trung rồi đâm thẳng xuống nền đất xốp.
Erlendur
nhìn cái máy đào đang xới tung những nỗi đau kéo dài suốt ba mươi năm qua. Ông
nhăn mặt trước mỗi cú xúc đất của cái gầu. Đống đất cứ dần cao lên, cái hố mỗi
lúc một sâu hơn trong khi trời mỗi lúc một tối dần. Erlendur đứng cách xa một
chút và nhìn cái máy đào sâu hơn vào vết thương ấy. Bất thình lình ông có một
cảm giác ngờ ngợ như mình đã từng chứng kiến tất cả những cảnh này trong một
giấc mơ và bất thình lình cảnh tượng diễn ra trước mắt ông giống y như không
khí trong mơ: các cộng sự của ông đang đứng đó, nhìn vào ngôi mộ, những người
đào mộ thuê mặc quần áo màu cam đang tì người lên xẻng, vị mục sư mặc
chiếc áo mưa lớn màu đen, mưa đổ rào rào xuống mộ và quay ngược lại ứ tràn vào
chiếc gầu xúc như thể là cái hố đang chảy máu.
Có phải
ông đã mơ chính xác như thế này không?
Sau đó
cảm giác ấy qua đi, và như thường lệ, khi có chuyện gì đó tương tự xảy ra, ông
không thể hiểu được nó đến từ đâu, và tại sao ông lại cảm thấy như mình đang
sống lại những sự kiện chưa từng xảy ra trước đây. Erlendur không tin vào linh
cảm, điềm báo hay mơ mộng, cũng không tin vào sự đầu thai hay nghiệp chướng, ông
không tin vào Chúa cho dù ông thường xuyên đọc Thánh kinh, ông cũng không tin
vào cuộc sống vĩnh hằng hoặc là chuyện những việc ông làm trong thế giới này sẽ
quyết định xem ông sẽ được lên thiên đàng hay bị đày vào địa ngục. Ông cảm thấy
bản thân cuộc sống đã là một hỗn hợp của hai thành tố ấy.
Đôi khi
ông trải qua sự ngờ ngợ khó hiểu và siêu nhiên này, trải qua những thời gian và
địa điểm như thể là ông đã chứng kiến tất cả trước đó, như thể ông bước ra
khỏi cơ thể mình và trở thành một người chứng kiến cuộc đời của chính mình.
Không có cách nào giúp ông giải thích được chuyện đã xảy ra như thế nào hay tại
sao trí óc lại lường gạt mình theo kiểu đó.
Erlendur
quay trở về thực tế khi chiếc gầu xúc đã chạm tới nắp quan tài và một tiếng
“cạch” trống rỗng vang lên từ sâu trong ngôi mộ. Ông tiến gần thêm một bước. Qua
làn mưa đang tầm tã trút xuống cái hố, ông lờ mờ nhìn thấy hình dạng chiếc quan
tài.
“Cẩn
thận!” Erlendur hét lên với người điều khiển máy đào, hai tay vung lên không
khí.
Qua khóe
mắt, Erlendur nhìn thấy ánh đèn pha ô tô đang tiến lại gần. Tất cả nhìn lên
theo hướng ánh đèn và thấy một chiếc xe đang bò đi trong mưa rồi dừng
lại ở cổng nghĩa trang. Một bà già mặc áo mưa màu xanh bước ra, họ để
ý thấy chiếc xe có gắn biển taxi trên nóc. Chiếc taxi lái đi và người phụ nữ
lao đến chỗ ngôi mộ. Ngay khi Erlendur nằm trong tầm nghe, bà ta bắt đầu hét
lên và giơ nắm tay về phía ông.
“Đồ cướp
mộ!” Elín gào lên. “Lũ cướp mộ! Lũ vồ người!”
“Giữ bà
ta lại,” Erlendur điềm tĩnh nói với những người cảnh sát đang tiến về phía Elín
để ngăn bà ta lại trong lúc bà ta chỉ còn cách ngôi mộ có vài mét. Người phụ nữ
cố gắng chống trả trong cơn giận dữ điên cuồng, nhưng họ đã giữ chặt hai khuỷu
tay và khống chế được bà.
Hai công
nhân đào thuê leo xuống mộ, mang theo xẻng của mình, đào xung quanh chiếc quan
tài và đặt dây thừng bên dưới nó. Chiếc quan tài còn khá nguyên vẹn. Nước mưa
tràn lên nắp và rửa trôi đi đất cát dính bên trên.
Erlendur
hình dung trước đây chiếc quan tài có màu trắng. Một chiếc quan tài loại tốt
màu trắng với tay nắm bằng đồng và một chữ thập trên nắp. Hai người đàn ông
thắt chặt sợi dây vào cái gầu của máy đào, sau đó cái máy từ từ nhấc chiếc quan
tài lên mặt đất. Nó vẫn còn nguyên một khối nhưng trông có vẻ cực kỳ mỏng manh.
Elín đã thôi không còn chống trả và chửi bới ông nữa. Bà bắt đầu khóc khi chiếc
quan tài trắng hiện ra và im lìm treo trên sợi dây trên ngôi mộ trước khi được
hạ xuống đất.
Vị mục sư
tiến lại gần, làm dấu thánh lên trên đó và lầm rầm cầu nguyện. Một chiếc xe tải
nhỏ chầm chậm đi lùi và dừng lại. Hai công nhân tháo sợi dây, nâng chiếc quan
tài đặt lên xe tải rồi đóng cửa lại. Elínborg ngồi lên ghế trước bên cạnh người
lái xe, ông ta khởi động động cơ rồi tiến qua cổng nghĩa trang, chầm chậm đi
xuống đường cho đến khi chiếc đèn hậu màu đỏ biến mất trong làn mưa dày đặc.
Vị mục sư
đến chỗ Elín và yêu cầu hai cảnh sát để bà ta đi. Họ thực hiện điều đó ngay lập
tức. Vị linh mục hỏi xem liệu ông có thể giúp gì cho bà không. Họ biết nhau rất
rõ và nói chuyện thầm với nhau. Dường như Elín đã bình tĩnh hơn. Erlendur và
Sigurdur Óli nhìn nhau và nhìn xuống ngôi mộ. Nước mưa đã bắt đầu phủ kín đáy
mộ.
“Tôi chỉ
muốn dừng việc báng bổ ghê gớm này lại,” Erlendur nghe Elín nói với vị mục sư. Ông
đã nhẹ nhõm đi một chút khi thấy Elín bình tĩnh lại. Ông đi về phía bà ta
Sigurdur Ólitheo ngay bên cạnh.
“Tôi sẽ
không bao giờ tha thứ cho ông về chuyện này,” Elín nói với Erlendur. Vị
mục sư đang đứng bên cạnh bà. “Không bao giờ!”
“Tôi hiểu,”
Erlendur nói, “nhưng vụ điều tra phải được ưu tiên.”
“Vụ điều
tra? Chết mẹ nó cái vụ điều tra của ông đi!” Elín hét lên. “Các ông mang thi
hài con bé đi đâu?”
“Đến Reykjavík.”
“Vậy khi
nào các ông mang nó trở lại?”
“Hai ngày
nữa.”
“Hãy nhìn
xem các ông đã làm gì với ngôi mộ của con bé.” Elín nói với một giọng
nhẫn nhục, như thể bà vẫn chưa hiểu biết được chuyện gì đã diễn ra. Bà đi qua
Erlendur đến chỗ bia đá và những gì còn lại của hàng rào, lọ hoa và lồng mộ
trống hoác.
Erlendur
quyết định nói cho bà ta biết về lời nhắn tìm thấy trong căn hộ của Holberg.
“Một lời
nhắn được để lại trong nhà Holberg khi chúng tôi phát hiện ra ông ta,” Erlendur
nói, đi theo sau Elín. “Chúng tôi không thể hiểu được gì nhiều về nó cho
đến khi tìm thấy bức ảnh ngôi mộ Audur, và chúng tôi nói chuyện với bác sĩ cũ
của cô bé. Những kẻ giết người Iceland thường không để lại bất cứ thứ
gì ngoại trừ một mớ hỗn độn, nhưng kẻ giết Holberg lại muốn đưa cho chúng tôi
một thứ gì đó để hành hạ bộ não chúng tôi. Khi ông bác sĩ ấy nói về khả năng
của một bệnh di truyền, lời nhắn bỗng trở nên có một ý nghĩa nào đó. Cũng theo
những gì mà Ellidi nói cho tôi biết trong tù, Holberg không có họ hàng thân
thích nào còn sống. Ông ta có một người em gái đã chết năm lên chín tuổi. Anh
Sigurdur Óli đây,” Erlendur nói và chỉ tay về phía đồng nghiệpcủa mình, “đã tìm
ra những báo cáo y khoa về người em gái đó. Ellidi nói đúng. Cũng giống như
Audur, cô ta chết vì bệnh u não. Rất có thể là từ cùng một bệnh.”
“Ông đang
nói đến cái gì cơ? Lời nhắn để lại là gì?” Elín hỏi.
Erlendur
lưỡng lự. Ông nhìn Sigurdur Óli, anh ta lúc đầu nhìn Elín rồi sau lại nhìn qua
Erlendur.
“Tôi là
ông ta,” Erlendur nói.
“Ý ông là
sao?”
“Đó là
nội dung lời nhắn: “Tôi là ông ta” với từ cuối cùng “HIM” viết hoa.”
“Tôi là
ông ta,” Elín nhắc lại. “Điều đó có nghĩa là gì?”
“Thực sự
rất khó nói nhưng tôi băn khoăn không biết nó có ám chỉ một mối liên hệ nào
không,” Erlendur trả lời. “Người viết “Tôi là ông ta” chắc hẳn phải cảm thấy
rằng mình có điểm gì đó chung với Holberg. Đó có thể là ý nghĩ kỳ quặc của một
vài tên dở hơi nào đó. Hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng tôi không nghĩ thế. Tôi nghĩ
rằng căn bệnh sẽ giúp chúng ta. Chúng ta phải tìm ra chính xác căn bệnh đó là
gì.”
“Loại
liên hệ như thế nào?”
“Theo các
ghi chép, Holberg không có con cái nào. Audur cũng không được đặt theo tên ông
ta. Tên họ của cô bé là Kolbrúnardóttir. Nhưng nếu điều Ellidi nói là sự thật, rằng
Holberg đã hiếp nhiều phụ nữ nữa không kể Kolbrún, những người không tố cáo, thì
có thể ông ta có những đứa con khác. Rằng Kolbrún không phải là nạn nhân duy
nhất có con với ông ta. Chúng tôi đã thu hẹp phạm vi tìm kiếm nạn nhân ở
Húsavík vào những người phụ nữ có con trong một khoảng thời gian nhất định và
hy vọng rằng việc này sẽ sớm có kết quả.”
“Ở
Húsavík sao?”
“Nạn nhân
trước đó của Holberg là ở Húsavík, dường như là vậy.”
“Thế ông
nói bệnh di truyền nghĩa là thế nào?” Elín hỏi. “Loại bệnh như thế nào? Đó có
phải là chứng bệnh đã giết chết Audur không?”
“Chúng
tôi phải xét nghiệm Holberg để khẳng định xem ông ta có phải là cha Audur không
và ráp nối các dữ liệu lại. Nhưng nếu giả thuyết này là đúng, đó có thể là một
loại bệnh hiếm gặp, di truyền qua gen.”
“Và Audur
bị bệnh đó ư?”
“Có thể
là cô bé đã chết quá lâu nên kết quả sẽ không được như mong muốn, nhưng đó là
điều mà chúng tôi muốn tìm ra.”
Lúc này
họ đã đi đến nhà thờ, Elín đi bên cạnh Erlendur còn Sigurdur Óli theo sau họ. Elín
dẫn đường. Nhà thờ mở cửa, họ vào trong tránh mưa và đứng ở phòng chờ, nhìn ra
một ngày mùa thu ảm đạm.
“Tôi nghĩ
rằng Holberg là cha của Audur,” Erlendur nói. “Thực ra tôi không có lý do gì để
nghi ngờ lời bà nói cũng như những gì em gái bà nói với bà. Nhưng
chúng ta cần chứng thực. Điều đó là thiết yếu đối với một cuộc điều tra. Nếu
căn bệnh đó là do di truyền từ Holberg sang Audur, nó cũng có thể ở đâu đó nữa.
Có thể là căn bệnh đó liên quan đến vụ giết Holberg.”
Họ đã
không để ý thấy có một chiếc xe từ từ lái ra khỏi nghĩa trang, men theo con
đường mòn, đèn của nó đã tắt hết, chỉ có thể thấy trong bóng tối. Khi đến
Sandgerdi, nó tăng tốc, đèn trước bật lên và nhanh chóng đuổi kịp chiếc xe tải
chở chiếc quan tài. Trên đường Keflavík, người lái xe phải đảm bảo chắc chắn rằng
mình đi cách xe tải từ hai đến ba xe. Nhưng trên đường này, hắn bám sát chiếc
xe cho đến tận Reykjavík.
Khi chiếc
xe tải dừng lại ở trước nhà xác trên đường Barónsstígur, hắn đỗ lại
cách xa đó rồi theo dõi chiếc quan tài được đưa vào tòa nhà và cánh cửa đóng
sập ngay sau đó. Hắn theo dõi cho đến khi chiếc xe tải lái đi và thấy người phụ
nữ áp tải chiếc quan tài đã lên một chiếc taxi rời nhà xác.
Khi mọi thứ đã trở lại yên lặng, hắn lái xe đi.
19
Marion Briem mở cửa cho ông. Erlendur đến mà không báo trước, ông đi thẳng
từ Sandgerdi đến đây và quyết định sẽ nói chuyện với Marion trước khi về nhà. Lúc đó đã là sáu
giờ chiều, trời tối đen như mực. Marion mời ông vào nhà và xin lỗi vì nhà cửa hơi
bừa bộn. Đó là một căn hộ nhỏ gồm một phòng khách, một phòng ngủ, một nhà tắm
và một bếp. Nó cho thấy sự cẩu thả của một người khi sống độc thân, trông chẳng
khác gì căn hộ của Erlendur. Báo, tạp chí và sách vở vứt lung tung khắp nơi, thảm
trải sàn rách rưới và bẩn thỉu, cốc chén bẩn xếp thành chồng trên bồn rửa bát.
Ánh sáng
phát ra từ chiếc đèn bàn nỗ lực một cách yếu ớt để thắp sáng căn phòng tối tăm.
Marion bảo
Erlendur lấy một tờ báo trên ghế trải xuống sàn để lấy chỗ ngồi.
“Bà không
nói với tôi rằng bà có liên quan đến vụ việc hồi đó,” Erlendur nói.
“Đó không
phải là một trong số những thành tích nổi bật của tôi,” Marion đáp, lấy ra một điếu thuốc rê từ
một cái hộp, với những ngón tay thon gầy, một nét mặt bi thương, một cái đầu lớn trên cơ thể mảnh
khảnh.
Erlendur
từ chối lời mời hút thuốc, ông biết rằng Marionvẫn quan tâm đến những vụ án thú
vị, tìm kiếm thông tin từ đồng nghiệp - những người vẫn làm việc cho cảnh sát
và thậm chí thi thoảng còn xen vào công việc của họ nữa.
“Ông muốn
biết thêm về Holberg,” Marion nói.
“Cả những
người bạn của ông ta nữa,” Erlendur nói và ngồi xuống sau khi đã phủi bụi ở
chồng báo bên cạnh. “Và cả về Rúnar ở Keflavík nữa.”
“Phải rồi,
cả về Rúnar ở Keflavík nữa,” Marion nói. “Có lần ông ta đã định giết
tôi.”
“Bây giờ
thì ông ta không dám nữa đâu, cái gã tàn phế già nua ấy,” Erlendur nói.
“Vậy
là ông đã gặp ông ta,” Marion nói. “Ông ta bị ung thư, ông biết
điều đó chứ? Vấn đề được tính bằng tuần chứ không phải tháng đâu.”
“Tôi
không biết chuyện đó,” Erlendur trả lời và nhớ lại khuôn mặt gầy trơ xương của
Rúnar, giọt mồ hôi rỉ nơi đầu mũi ông ta khi ông ta dọn lá trong vườn.
“Ông ta
có những người bạn có thế lực khó tin ở Bộ. Đó là lý do tại sao ông ta vẫn trụ
được. Tôi đã đề nghị đuổi việc, nhưng người ta lại chỉ cảnh báo ông ta.”
“Bà có
nhớ gì về Kolbrún không?”
“Nạn nhân
đáng thương nhất mà tôi từng gặp trong đời,” Marion trả lời.
“Tôi
không biết cô ấy rõ lắm, nhưng tôi biết rằng cô ấy không thể nói dối bất cứ điều
gì. Cô ấy buộc tội Holberg và kể lại việc bị Rúnar đối xử như thế nào, như ông
đã biết đấy. Trong vụ của Rúnar, lời nói của cô ấy chống lại ông ta, những lời
đó rất thuyết phục, ông ta đã không nên yêu cầu cô ấy quay về nhà, có quần lót
hay không có quần lót. Holberg đã hiếp cô ấy. Điều đó là rõ ràng. Tôi đã để họ
đối diện với nhau, Holberg và Kolbrún. Và chẳng còn nghi ngờ gì nữa.”
“Bà bắt
họ phải gặp nhau?”
“Đó là
một sai lầm. Tôi đã nghĩ rằng điều đó sẽ có ích. Người phụ nữ tội nghiệp ấy.”
“Như thế
nào cơ?”
“Tôi dàn
xếp vụ đó như một sự tình cờ. Tôi đã không nhận ra... Tôi không nên nói
với ông điều này. Tôi đã bế tắc trong công tác điều tra. Cô ấy nói
một đằng, Holberg nói một nẻo. Tôi gọi cả hai đến cùng một lúc và phải đảm bảo
là họ sẽ gặp nhau.”
“Thế
chuyện gì xảy ra?”
“Cô ấy bị
kích động và chúng tôi phải gọi bác sĩ. Tôi chưa từng gặp một chuyện nào tương
tự như thế trước đó và cả sau này.”
“Thế còn
hắn ta?”
“Chỉ đứng
đó và cười nhe răng.”
Erlendur
yên lặng một lát.
“Bà có
nghĩ rằng đó là con hắn ta không?”
Marion nhún vai.
“Kolbrún luôn luôn khẳng định điều đó.”
“Kolbrún
có bao giờ nói chuyện với bà về một người phụ nữ khác cũng bị Holberg
hiếp không?”
Erlendur
nhắc lại những gì mà Ellidi đã kể với mình và nhanh chóng tóm lược toàn bộ quá
trình điều tra. Marion Briem ngồi yên lặng hút thuốc và lắng nghe, bà nhìn
chăm chăm vào Erlendur với cặp mắt nhỏ, tỉnh táo và sắc sảo. Chúng chưa bao giờ
để lỡ điều gì. Chúng thấy một người đàn ông luống tuổi với những nếp nhăn thâm
quầng dưới mắt, râu mọc lởm chởm trên má mấy ngày chưa cạo, cặp lông mày chìa
ra, mái tóc vàng hoe rậm rạp chĩa ra đủ hướng, hàm răng chắc khỏe đôi lúc lộ ra
dưới đôi môi xám xịt, một vẻ ngoài mệt mỏi đã từng chứng kiến tất cả những gì
bẩn thỉu nhất của tội ác con người. Cặp mắt của Marion Briem bộc lộ niềm
thương cảm rõ rệt và hiểu rằng chúng đang nhìn vào bản sao của chính mình.
Erlendur
làm việc dưới sự hướng dẫn của Marion Briem khi ông bắt đầu làm cho
Cục điều tra hình sự. Tất cả những gì ông học được trong những năm đầu tiên ấy
là từ Marion Briem.
Cũng giống như Erlendur, Marion chưa bao giờ là một nhân viên cao cấp và
luôn luôn thực hiện các vụ điều tra thông thường nhưng lại có vốn kinh nghiệm
khổng lồ. Một trí nhớ siêu phàm không bao giờ bị bào mòn dù chỉ là một chút
cùng với thời gian. Tất cả những gì được nhìn và nghe thấy đều được phân loại, ghi
lại và lưu trữ trong bộ não Marion, sau đó chúng được bà triệu tập lại mà
không mất một chút sức lực nào khi cần thiết. Marion có thể nhớ lại những
vụ án cũ với những chi tiết nhỏ nhặt nhất, bà là một nguồn thông thái về mọi
khía cạnh của ngành tội phạm học ở Iceland. Những năng lực suy luận sắc bén kết
hợp với một cái đầu làm việc logic.
Trong
công việc, Marion Briem là một bà già mô phạm, nghiêm khắc và khó chịu quá
mức, như đã có lần Erlendur nói với Eva Lind khi câu chuyện phát sinh. Một
kẽ nứt sâu đã xuất hiện giữa ông và người hướng dẫn thông thái của mình
trong rất nhiều năm đến mức họ hiếm khi nói với nhau một lời nào. Erlendur cảm
thấy rằng theo một cách khó hiểu nào đó, ông đã làm Marion thất vọng. Chuyện ấy ngày càng trở
nên rõ ràng cho đến khi người hướng dẫn của ông cuối cùng cũng về hưu, và điều
này khiến ông cảm thấy thật dễ chịu.
Sau
khi Marion nghỉ
hưu, mối quan hệ giữa họ dường như trở nên bình thường. Căn thẳng giãn dần và
sự kình địch cũng theo đó mà ít nhiều biến mất.
“Đó là lý
do tại sao tôi muốn đến gặp bà để hỏi xem bà có còn nhớ gì
về Holberg, Ellidi và Grétar không,” Erlendur kết thúc câu chuyện.
“Ông
không trông mong việc tìm ra Grétar sau từng ấy năm à?” Marion hỏi với giọng ngạc nhiên.
Erlendur
buông một ánh nhìn đầy lo ngại.
“Bà đã
điều tra được tới đâu rồi?”
“Tôi chưa
bao giờ điều tra đến đâu cả, đó chỉ là một nhiệm vụ bán thời gian,” Marion trả lời. Erlendur thoáng hân hoan
khi nhận thấy dấu hiệu của sự hối lỗi nơi bà. “Có thể gã đã biến mất vào khoảng
cuối tuần lễ hội quốc gia ở Thingvellir. Tôi đã nói chuyện với mẹ và bạn bè của
gã, Ellidi và Holberg, cả những người cùng làm với gã nữa. Grétar làm công
nhân bốc vác cho Eimskip. Mọi người nghĩ rằng có thể gã đã rơi xuống biển. Nếu
gã ngã xuống đống hàng hóa, người ta nói rằng họ không thể không tìm thấy gã.”
“Holberg
và Ellidi ở đâu trong khoảng thời gian Grétar mất tích? Bà có nhớ
không?”
“Họ đều
nói rằng mình ở lễ hội và chúng tôi có thể xác minh điều đó. Nhưng tất nhiên
thời gian chính xác mà Grétar mất tích là không rõ ràng. Không ai nhìn thấy gã
trong vòng hai tuần khi mẹ gã gặp chúng tôi. Ông đang nghĩ gì vậy? Ông có hướng
mới cho vụ Grétar ư?”
“Không,”
Erlendur trả lời. “Và tôi không định tìm gã. Miễn là gã không bất thình lình
xuất hiện và giết người bạn cũ Holberg của mình ở Nordurmýri thì gã có thể
biến mất mãi mãi, tôi chả quan tâm. Tôi đang cố gắng tìm ra loại nhóm của họ, Holberg,
Ellidi và Grétar ấy.”
“Bọn
chúng là cặn bã thôi. Tất cả bọn chúng. Ellidi thì ông biết rồi. Grétar cũng chẳng khá
hơn, có vẻ là một tên hèn nhát. Tôi đã có lần phải giải quyết vụ cướp liên quan
đến gã và tôi thấy dường như đó là một khởi đầu cho sự nghiệp trộm cắp lâm ly
của gã. Cả ba cùng làm cho Cơ quan quản lý Bến cảng và Hải đăng. Đó là lý do
tại sao chúng lại gặp nhau. Ellidi là một kẻ tàn bạo ngu xuẩn, sẵn sàng đánh
nhau bất cứ khi nào có cơ hội. Tấn công những người yếu thế hơn. Chẳng có gì
thay đổi cả, tôi tin là vậy. Còn Holberg là một loại đầu sỏ. Kẻ ma mãnh nhất. Hắn
thoát khỏi vụ Kolbrún một cách nhẹ nhàng. Hồi đó, khi tôi bắt đầu hỏi về hắn, người
ta lưỡng lự không nói. Grétar chỉ là một kẻ nhu nhược bám theo hai tên kia, rụt
rè, hèn nhát. Nhưng tôi có cảm giác đó chỉ là cái vẻ bề ngoài vậy thôi.”
“Thế
Rúnar và Holberg có biết nhau trước đó không?”
“Tôi
không nghĩ thế.”
“Chúng
tôi vẫn chưa công bố chuyện này,” Erlendur nói, “nhưng chúng tôi tìm ra một lời
nhắn trên thi thể Holberg.”
“Một lời
nhắn ư?”
“Tên sát
nhân viết “Tôi là ông ta” trên một mẩu giấy và để lại nó trên mình Holberg.”
“‘Tôi là ông ta’ á?”
“Không
phải là nó ám chỉ rằng chúng có liên quan đến nhau sao?”
“Trừ khi
đó là một kẻ mang ảo tưởng mình là Đấng cứu thế. Một kẻ cuồng tín.”
“Tôi lại
cho đó là mối liên hệ họ hàng.”
“Tôi là
ông ta?” Hắn nói thế là có ý gì nhỉ? Ý nghĩa của nó là gì?”
“Giá mà
tôi biết được,” Erlendur nói.
Erlendur đứng
lên và đội mũ, nói rằng mình phải về nhà. Marion hỏi thăm tình hình
của Eva Lind, ông trả lời rằng con bé đang giải quyết việc riêng của mình. Marion tiễn ông ra đến cửa và họ bắt tay
nhau. Khi Erlendur đi xuống bậc cửa, Marion gọi giật lại.
“Erlendur!
Chờ một chút đã, Erlendur!”
Erlendur
quay lại và nhìn lên chỗ Marion đang đứng trên thềm cửa, ông nhận ra cái
cách mà tuổi tác đã để lại dấu ấn lên sự tôn trọng giữa hai người, cái cách mà
những tấm lưng còng xuống có thể làm giảm đi lòng tự kiêu, và cái cách một
gương mặt đầy nếp nhăn phải chịu đựng một cuộc đời vất vả... Đã lâu lắm rồi ông
không đến căn hộ này và trong khi ngồi đối diện với Marion, ông đã suy nghĩ về sự đối xử của
thời gian với con người.
“Đừng để
những gì mà ông tìm ra về vụ Holberg ảnh hưởng quá nhiều đến mình,” Marion nói. “Đừng để hắn ta giết chết bất
kỳ phần nào đó của ông mà ông không muốn mất. Đừng để hắn ta chiến thắng. Thế
thôi.”
Erlendur đứng
dưới mưa, không biết lời khuyên này có nghĩa là gì. Marion Briem gật đầu với ông.
“Vụ cướp
nào thế?”
“Vụ cướp
ư?” Marion hỏi
trong lúc mở lại cánh cửa.
“Vụ cướp
mà Grétar thực hiện ấy. Hắn đã ăn cắp thứ gì?”
“Một hiệu
ảnh. Hắn có dính líu đến ảnh,” Marion Briem trả lời. “Hắn đã chụp ảnh.”
Hai gã
đàn ông, cả hai cùng mặc áo khoác da và giày da đen thắt dây đến bắp chân, gõ cửa nhà
Erlendur trong lúc ông đang gật gù trên chiếc ghế bành buổi tối hôm đó. Ông đã
trở về nhà, gọi Eva Lind nhưng không nhận được câu trả lời, sau đó ngồi xuống ăn phần
gà được đặt trên chiếc ghế mà tối hôm trước ông đã ngủ trên đó. Hai gã đàn ông
đến tìm Eva Lind. Erlendur chưa từng nhìn thấy chúng trước đây và cũng chưa gặp con gái
mình kể từ hôm con bé nấu cho ông món thịt hầm. Trông chúng có vẻ độc ác khi
hỏi Erlendur xem có thể gặp Eva Lind ở đâu và cố gắng nhòm vào trong
nhà mà không đẩy ông qua một bên. Erlendur hỏi lý do tại sao chúng muốn
gặp con gái mình nhưng chúng lại hỏi ông có giấu cô gái trong nhà không, đồ lão
già bẩn thỉu. Erlendur hỏi chúng có phải đến để đòi nợ không, chúng bảo ông xéo
ra, ông đuổi chúng cút đi. Chúng chửi ông là đồ ăn cứt. Khi ông chuẩn bị đóng
cửa, một trong hai kẻ đó chặn đầu gối vào cánh cửa. “Con gái mày là một con
điếm khốn nạn!” Hắn hét lên. Hắn mặc quần dài bằng da thuộc.
Erlendur
thở dài. Đó quả thật là một ngày dài và tồi tệ.
Ông nghe
thấy tiếng đầu gối tên kia kêu răng rắc khi cánh cửa đóng sầm vào nó với một
sức mạnh khủng khiếp đến nỗi cái bản lề bên trên khung cửa bị long hẳn ra.