Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa - Chương 20 - 21

20

Sigurdur
Óli đang phân vân không biết nên đặt câu hỏi như thế nào. Anh
đang giữ một bản danh sách tên mười người phụ
nữ từng sống ở Húsavík trước và sau năm 1960 rồi sau đó lại chuyển
về Reykjavík. Hai người trong số đó đã chết. Hai người không có con. Sáu người còn lại đều làm mẹ
trong giai đoạn vụ cưỡng hiếp có khả năng xảy ra. Sigurdur Óli đang trên đường
đến gặp người thứ nhất. Bà ta sống ở Barmahlíd, đã li dị và có ba đứa con đã
trưởng thành.

Nhưng làm
thế nào để anh có thể đặt câu hỏi với những người phụ nữ trung niên này? “Xin
lỗi, thưa bà, tôi là cảnh sát và tôi được đề cử đến đây để hỏi xem liệu bà có
bị cưỡng hiếp ở Húsavík khi bà sống ở đó không” ư? Anh nói thử điều đó với
Elínborg, cô đã có danh sách tên mười người phụ nữ ấy, nhưng cô không hiểu được
vấn đề.

Sigurdur
Óli coi đó là một việc làm vô ích mà Erlendur đã đề ra. Thậm chí nếu Ellidi đã
nói sự thật và cả thời gian lẫn địa điểm đều trùng khớp và cuối cùng họ cùng
tìm ra người phụ nữ sau một quá trình điều tra lâu dài, điều gì sẽ đảm bảo là
bà ta sẽ nói tiếp về vụ hiếp dâm? Bà ta đã giữ kín chuyện đó suốt cuộc đời mình.
Vậy thì sao bà ta phải nói ra chuyện đó lúc này? Tất cả những gì mà bà ta cần
nói, khi Sigurdur Óli hay bất cứ thám tử nào mang theo bản danh sách như thế và
đến gõ cửa nhà họ, là “không”, và anh sẽ chẳng biết nói gì hơn là “xin lỗi đã
làm phiền bà”. Thậm chí nếu họ có tìm ra người phụ nữ, chẳng có gì đảm bảo rằng
việc bà ta có một đứa con là kết quả của vụ cưỡng hiếp cả.

“Đó là
một câu hỏi cần trả lời, anh nên sử dụng chiến thuật tâm lý,” Erlendur đã nói
khi Sigurdur Óli cố gắng làm cho ông nhận ra được vấn đề. “Cố gắng vào nhà họ, ngồi
xuống, uống cà phê, trò chuyện và cố gắng nói chuyện tầm phào một lúc.”

“Tâm lý!”
Sigurdur Óli khịt mũi khi anh bước ra khỏi xe ở Barmahlíd và nghĩ về
cô nàng sống cùng mình, Bergthóra. Anh thậm chí còn không biết cách sử dụng tâm
lý như thế nào với cô ta nữa. Họ gặp nhau trong những dịp bất thường cách đây
vài năm, khi mà Bergthóra là nhân chứng trong một vụ khó và sau một thời gian
lãng mạn, họ quyết định dọn về sống cùng nhau. Dường như họ khá hợp nhau, có
những sở thích chung và cả hai đều thích làm cho căn nhà mình đang sống trở nên
đẹp đẽ với những bộ đồ nội thất và đồ nghệ thuật độc, những kẻ “yuppie”[2] đích thực. Họ luôn luôn hôn nhau mỗi khi đi làm
về. Tặng nhau những món quà nhỏ, thậm chí còn mở cả một chai rượu. Thỉnh thoảng
họ lên giường luôn sau khi đi làm về, nhưng gần đây chuyện đó ít xảy ra
hơn.

[2] Yuppie là từ chỉ một lớp người
trẻ tuổi, sống vào khoảng thập niên 1980 ở Mỹ. Họ chủ yếu sống ở thành
thị, có nghề nghiệp ổn định và thích tiêu tiền cho bất cứ thứ gì mình thích.

Đó là sau
khi cô tặng anh một đôi ủng cao su Fennish rất bình thường nhân dịp
sinh nhật. Anh đã cố gắng cười toe toét miệng nhưng vẻ hoài nghi không tin nổi
hiện lên trên mặt anh quá lâu và cô biết đã có vấn đề gì đó. Cuối cùng, khi
anh mỉm cười, đó là một sai lầm.

“Bởi vì
anh chẳng có đôi nào cả,” cô nói.

“Anh chưa
có một đôi ủng cao su nào kể từ khi anh... mười tuổi,” anh trả lời.

“Anh
không hài lòng ư?”

“Anh nghĩ
rằng chúng thật tuyệt,” Sigurdur Óli đáp, biết rằng mình không trả lời vào câu
hỏi. Cô cũng biết điều đó. “Không, nói một cách nghiêm túc,” anh bổ sung thêm
và có thể cảm nhận được mình đang tự chôn mình vào một nấm mồ lạnh lẽo, “nó
thật tuyệt vời.”

“Anh
không thích chúng,” cô ủ ê.

“Chắc
chắn là có mà,” anh nói, vẫn còn tràn trề thất vọng vì không thể không nghĩ đến
cái đồng hồ đeo tay trị giá 30.000 króna mà anh tặng cô hôm sinh nhật. Anh đã
mua nó sau một tuần săn lùng trong toàn thị trấn và bàn bạc rất nhiều với những nhà sản xuất
đồng hồ về thương hiệu, kỹ thuật mạ vàng, máy móc, dây đeo, độ chống thấm
nước, những đồng hồ Thụy Sĩ và đồng hồ đánh chuông. Anh đã áp dụng tất cả những
kỹ năng thám tử của mình để tìm ra chiếc đồng hồ xứng đáng, cuối cùng anh cũng
tìm ra và cô đã thực sự ngây ngất, niềm vui và hạnh phúc của cô là hoàn toàn
thật.

Sau đó
anh ngồi trước mặt cô với nụ cười đóng băng trên mặt và cố tỏ ra vui mừng quá
mức, nhưng đơn giản là anh không thể làm được chuyện đó suốt cả cuộc đời
mình.

“Tâm lý
ư?” Sigurdur Óli khịt mũi lần nữa. Anh nhấn chuông khi đến cửa nhà người phụ nữ
đầu tiên ở Barmahlíd và hỏi một cách tâm lý nhất có thể, nhưng đã thất bại thảm
hại. Trước khi nhận ra điều đó, anh đã bối rối hỏi người phụ nữ xem liệu
ta có từng bị cưỡng hiếp hay không.

“Ông đang
nói cái quái gì thế?” Người phụ nữ nói, mặt đằng đằng sát khí, các ngón tay siết chặt đầy hung dữ. “Ông là ai?
Ông là cái kẻ khốn nạn nào vậy?”

“Không, xin
lỗi bà,” Sigurdur Óli nói và quay ra cầu thang trong nửa giây.

Elínborg
may mắn hơn, bởi vì cô tập trung tâm trí cho công việc nhiều hơn và không ngại
việc nói chuyện phiếm để lấy lòng người khác. Chuyên môn của cô là nấu ăn, cô
là một đầu bếp cừ khôi và có năng lực thực sự, và không gặp khó khăn nào trong
việc bắt chuyện. Nếu có cơ hội, cô sẽ hỏi về mùi thơm tuyệt diệu đang tỏa ra từ
bếp là cái gì và thậm chí những người chỉ sống nhờ bỏng ngô cả tuần trước cũng
mời cô vào nhà.

Cô đang
ngồi trong phòng khách của một căn hộ dưới tầng hầm ở Breidholt và nhấp một
ngụm cà phê do một người phụ nữ đến từ Húsavík mời, bà ta mất chồng đã lâu và
giờ là mẹ của hai đứa con đã trưởng thành. Tên bà ta là Siguriaug - người cuối
cùng trong danh sách của Elínborg. Việc đặt ra những câu hỏi nhạy cảm khá dễ
dàng với cô, và cô còn nhờ những người cô phỏng vấn liên lạc với mình nếu
họ nghe thấy bất kỳ điều gì từ những câu chuyện phiếm ở Húsavík.

“... và
đó là lý do tại sao chúng tôi đang tìm một người phụ nữ tầm tuổi bà đến từ
Húsavík, người mà có thể biết Holberg vào thời gian đó và thậm chí còn có một
vài rắc rối với ông ta.”

“Tôi
không nhớ có ai tên là Holberg ở Húsavík cả,” người phụ nữ nói. “Cô đang
nói đến loại rắc rối nào cơ?”

“Holberg
chỉ ở Húsavík trong một thời gian ngắn,” Elínborg nói. “Do đó bà không cần phải
nhớ bất cứ điều gì về ông ta cả. Ông ta chưa bao giờ sống ở đó. Và đó là một sự
tấn công về thể chất, ông ta đã tấn công một người phụ nữ trong thị trấn cách
đây vài thập kỷ và chúng tôi đang cố gắng tìm ra bà ta.”

“Chắc hẳn
là các cô phải có thông tin đó trong hồ sơ chứ?”

“Vụ tấn
công đó chưa bao giờ được trình báo cả.”

“Loại tấn
công nào cơ?”

“Cưỡng
hiếp.”

Người phụ
nữ đưa tay lên che miệng theo bản năng và mắt mở to hết cỡ. “Lạy Chúa tôi!” Bà
ta thốt lên. “Tôi không biết gì về chuyện đó cả. Cưỡng hiếp! Lạy Chúa! Tôi chưa
bao giờ từng nghe những chuyện đại loại như thế.”

“Không, dường
như đó là một bí mật được giữ kín hoàn toàn,” Elínborg nói. Cô khéo léo né
tránh những câu hỏi tò mò của người phụ nữ và nói về những yêu cầu sơ bộ và
những lời đồn. “Tôi đang băn khoăn,” cô nói, “liệu bà có biết ai có thể biết
chuyện này không?” Người phụ nữ cho cô tên của hai người phụ nữ bạn mình đến từ
Húsavík và nói rằng chưa bao giờ họ để lỡ chuyện gì. Elínborg viết tên họ lại, ngồi
một lúc nữa để tránh bất lịch sự, sau đó ra về.

Erlendur
bị một vết cắt ở trán, sau đó ông đã dán băng keo lên. Một trong hai tên đồ tể
đến nhà ông tối qua đã ra tay sau khi Erlendur đập cửa vào đầu gối hắn khiến
hắn rú lên dưới sàn. Tên còn lại nhìn trân trối cho đến khi hắn hiểu ra sự tình
và điều tiếp theo mà hắn nhận biết được là Erlendur đứng đối diện với hắn trên
cầu thang và đẩy hắn, không một chút nao núng, xuống cầu thang.

Hắn cố
gắng túm lấy thành cầu thang để không rơi xuống dưới. Hắn không muốn xử lý
Erlendur, người lúc này đang đứng trên cầu thang với cái trán sưng phồng, bầm
tím. Hắn nhìn sang gã đi cùng mình và thấy gã đang nằm trên sàn gào rú vì đau, sau
đó lại nhìn Erlendur và quyết định tránh xa ông. Hắn mới tầm hai mươi tuổi.

Erlendur
gọi xe cứu thương và trong khi chờ đợi, ông hỏi xem bọn chúng
muốn gì từ Eva Lind. Gã đàn ông lúc đầu hơi do dự, nhưng khi Erlendur đề nghị kiểm tra cái
đầu gối của hắn, hắn bỗng trở nên nói nhiều.

Chúng là
những người đi thu nợ. Eva Lind nợ tiền và ma túy của cả hai và cả một số
người khác nữa mà Erlendur chưa từng nghe thấy tên.

Erlendur
không giải thích về miếng cao dán với bất kỳ ai khi ông đi làm ngày hôm sau, và
không ai dám hỏi ông về chuyện đó. Cánh cửa gần như đã đo ván ông khi nó đập
vào chân tên đòi nợ rồi sau đó trở lại đập vào đầu ông. Trán ông vẫn còn đau, ông
vẫn lo lắng về Eva Lind và trằn trọc suốt đêm hôm đó, hy vọng con gái mình sẽ quay
trở về trước khi tình hình trở nên không kiểm soát nổi. Ông nán lại ở văn phòng
đủ lâu để tìm ra dữ kiện Grétar có một người em gái và mẹ gã vẫn còn sống, bà
ta đang ở viện dưỡng lão Grund. Như đã nói với Marion Briem, ông không chú trọng đặc
biệt tìm Grétar, cũng giống như cô gái mất tích ở Gardabaer, nhưng ông nghĩ là
việc biết thêm thông tin về gã cũng không có hại gì. Grétar đã ở bữa tiệc trong
buổi tối mà Kolbrún bị cưỡng hiếp. Có thể hắn có nhớ chút gì về chuyện xảy
ra hôm đó, một chi tiết rải rác mà hắn có thể buột miệng. Erlendur không trông mong vào việc tìm ra
manh mối mới về việc mất tích của gã, Grétar có thể đã yên nghỉ, ông không quan
tâm, nhưng ông chú ý đến những người mất tích trong một thời gian dài. Đằng sau mỗi người lại là một câu chuyện
rùng rợn, nhưng trong tâm trí ông, việc người ta biến mất mà không để lại
dấu vết nào hoặc không ai biết tại sao có chút gì đó thật hấp dẫn.

Mẹ của
Grétar đã chín mươi tuổi và bị mù. Erlendur nói chuyện nhanh chóng với giám đốc của viện - hình như bà ta khó
có thể rời mắt khỏi cái trán của ông. Bà ta nói rằng Theodóra là một trong
số những người già nhất và ở đây lâu nhất, một thành viên gương mẫu của cộng
đồng trong tất cả mọi mặt, được tất cả nhân viên và những người khác yêu mến
thán phục.

Erlendur
được dẫn đến phòng của Theodóra và được giới thiệu với bà. Bà ta ngồi trên một
chiếc xe lăn, mặc một cái áo dài, bên trên phủ một chiếc chăn len, mái tóc dài
màu xám của bà được tết lại và buông xuông lưng ghế. Người bà hơi cúi về
đằng trước, bàn tay xương xẩu và khuôn mặt hiền từ nhân hậu. Ở đây có rất ít đồ
đạc cá nhân. Một tấm hình của Tổng thống John F. Kennedy treo trên đầu giường. Erlendur ngồi
vào một chiếc ghế trước mặt bà, nhìn sâu vào đôi mắt mà giờ đây không còn thấy
gì nữa, và nói rằng ông muốn hỏi chuyện về Grétar. Thính giác của bà vẫn còn
khá tốt, đầu óc bà vẫn còn minh mẫn. Bà không biểu lộ tí ngạc nhiên nào mà đi
thẳng vào vấn đề. Erlendur có thể nhận ra là bà đến từ Skagafjordur.
Bà nói với một chất
giọng đặc sệt miền Bắc.

“Thằng
Grétar nhà tôi không phải là một người tốt,” bà nói. “Nói thật với ông, nó là
một kẻ độc ác xấu xa. Tôi không hiểu nó lấy cái tính ấy ở đâu. Một thằng xấu xa
rẻ tiền. Nó giao du với những kẻ xấu, những gã lang thang và rất nhiều kẻ đê
tiện khác. Các ông đã tìm thấy nó chưa?”

“Chưa,”
Erlendur trả lời. “Một trong số những người bạn của anh ta bị sát hại gần đây. Holberg.
Có thể bà đã nghe qua tin đó.”

“Tôi
không biết, ông nói anh ta bị giết sao?”

Erlendur
rất ngạc nhiên và lần đầu tiên sau một thời gian dài, ông thấy mình có lý do để
mỉm cười.

“Tại nhà.
Họ đã từng làm việc cùng nhau trước đây, Holberg và con trai bà ấy, tại Cơ quan
quản lý Bến cảng và Hải đăng.”

“Lần cuối
cùng tôi gặp Grétar - khi đó mắt tôi còn sáng - là khi nó về nhà để
gặp tôi vào cái mùa hè có diễn ra lễ hội quốc gia. Nó đã ăn cắp
tiền trong ví của tôi cùng với một ít bạc. Tôi không biết chuyện đó cho
đến khi nó rời đi và món tiền biến mất. Sau đó Grétar mất tích. Giống như nó cũng
bị đánh cắp vậy. Ông có biết ai đánh cắp nó không?”

“Không,”
Erlendur trả lời. “Bà có biết anh ta đi đâu trước khi mất tích không? Anh ta
giao du với ai?”

“Tôi
không biết,” người phụ nữ đáp. “Tôi không bao giờ biết Grétar sẽ đi đâu. Tôi
cũng đã nói với các ông hồi đó như thế.”

“Bà có
biết là anh ta cũng chụp ảnh không?”

“Có. Nó
chụp ảnh. Nó luôn luôn chụp ảnh. Tôi không biết tại sao. Có lần nó bảo với tôi
rằng ảnh là những tấm gương phản chiếu thời gian, nhưng tôi không hiểu nó đang
nói về chuyện gì.”

“Đó không
phải là một vẻ trí thức ở Grétar sao?”

“Tôi chưa
bao giờ nghe nó nói như vậy.”

“Địa chỉ
cuối cùng của anh ta là ở Bergstadastraeti - anh ta thuê một căn phòng ở đó. Bà
có biết chuyện gì xảy ra với đồ đạc của anh ta không, máy ảnh, phim, bà có biết
không?”

“Có thể
Klara biết đấy,” Theodóra trả lời. “Con gái tôi. Con bé dọn phòng thằng Grétar
và ném đi tất cả những đồ rác rưởi, tôi nghĩ vậy.”

Erlendur
dứng dậy và khuôn mặt bà hướng theo bước ông đi. Ông cảm ơn bà vì sự giúp đỡ, nói
rằng những lời nói của bà rất có giá trị và ông muốn khen bà vì trông bà vẫn
còn khỏe mạnh và minh mẫn, nhưng lại thôi. Ông nhìn lên bức ảnh của Kennedy
trên tường chỗ đầu
giường bà và không kìm được câu hỏi.

“Tại sao
bà lại treo ảnh Kennedy trên đầu giường?” Ông hỏi và nhìn vào
đôi mắt trống rỗng của bà.

“Ồ,”
Theodóra thở dài, “tôi rất ngưỡng mộ ông ấy khi ông ấy còn sống.”

21

Các thi
thể nằm bên cạnh nhau trên những tấm kim loại lạnh lẽo trong nhà xác ở
Barónsstígur. Erlendur cố gắng không nghĩ đến cái cách ông mang hai cha con họ
lại gần nhau ngay cả khi đã chết. Một cuộc khám nghiệm tử thi và các xét nghiệm
đã được thực hiện trên cơ thể của Holberg, nhưng người ta còn chờ những nghiên
cứu sâu hơn về các bệnh di truyền và kết quả xác minh xem ông ta có liên quan
đến Audur không. Erlendur để ý thấy các ngón tay của nạn nhân
có màu đen. Các
dấu vân tay của ông ta được lấy sau khi ông ta chết. Cơ thể của Audur được quấn trong một
tấm vải màu trắng, cô bé nằm trên chiếc bàn bên cạnh Holberg.

Cô bé vẫn
chưa được động đến.

Erlendur
không biết vị bác sĩ pháp y và ít khi nhìn thấy ông ta. Ông
ta cao, có đôi bàn tay to đeo đôi găng bằng cao su mỏng, chiếc tạp dề
trắng được khoác bên ngoài chiếc áo da màu xanh, buộc lại ở sau
lưng cùng chiếc quần màu xanh làm từ cùng chất liệu. Miệng ông
đeo khẩu trang và đầu đội một cái mũ nhựa màu xanh, chân đi giày thể
thao màu trắng.

Erlendur
trước đây đã từng đến nhà xác nhiều lần và lần nào cũng cảm
thấy khó chịu như nhau. Mùi chết chóc bao trùm lấy các giác quan của
ông và bám chặt vào quần áo, cái thứ mùi tổng hợp của phoóc môn, chất
khử trùng và cả cái mùi hôi thối khủng khiếp của những xác chết bị mổ
phanh ra. Những bóng đèn huỳnh quang sáng chói được treo trên trần nhà, tỏa ra
một thứ ánh sáng trắng quanh căn phòng không cửa sổ. Nền nhà lát đá trắng to và
tường cũng được ốp đá một phần, nửa bên trên được sơn màu trắng. Đối diện các
bức tường là những chiếc bàn với kính hiển vi và các dụng cụ nghiên cứu khác. Trên
tường có rất nhiều tủ ly, một vài cái có cửa kính, để lộ ra bên trong những
dụng cụ và bình lọ mà Erlendur không hiểu được. Tuy nhiên, ông hiểu chức năng
của dao mổ, cái kẹp và những lưỡi cưa đặt thành một hàng ngăn nắp trên một
chiếc bàn dài.

Erlendur
chú ý đến một tấm thiệp thơm treo trên một bóng đèn huỳnh quang chiếu sang một
trong hai chiếc bàn phẫu thuật. Nó in hình một cô gái mặc bộ bikini màu đỏ
đang chạy trên bãi biển đầy cát trắng. Có một cái máy ghi âm trên bàn và vài
cái băng cassette bên cạnh. Tiếng nhạc cổ điển du dương cất lên. Mahler, Erlendur nghĩ bụng. Suất ăn trưa
của vị bác sĩ nằm trên cái bàn bên cạnh một trong những chiếc kính hiển vi.

“Cô ấy
không còn tỏa hương thơm từ lâu rồi, nhưng cô ấy vẫn giữ được vóc dáng khá tốt,”
vị bác sĩ pháp y nói và nhìn ra Erlendur - lúc này ông đang đứng bên cửa như
thể đang do dự về việc bước vào căn phòng chết chóc sáng lòa.

“Sao cơ?”
Erlendur hỏi lại, không thể rời mắt ra khỏi cái đống màu trắng. Có gì như một
sự hân hoan trong giọng nói của viên bác sĩ mà ông không hiểu được.

“Ý tôi
nói là cô gái mặc bộ bikini ấy,” ông bác sĩ vừa nói vừa gật đầu về phía
tấm thiệp thơm. “Tôi phải mua một cái mới thôi. Có thể ông không bao giờ quen
được với thứ mùi ở đây. Hãy cứ vào đi. Đừng sợ. Chỉ là thịt thôi mà.” Ông ta
vẫy cái dao trên cơ thể Holberg. “Không có tâm hồn, không có sự sống, chỉ là một
khối thịt chết, ông có tin vào ma quỷ không?”

“Sao cơ?”
Erlendur hỏi lại.

“Ông có
tin là những linh hồn đang theo dõi theo chúng ta không? Ông có cho rằng họ
đang bay lơ lửng trong căn phòng này không, hay là họ đã nhập vào
một cơ thể khác? Được tái sinh ấy? Ông có tin là có cuộc sống sau khi
chết không?”

“Không, tôi
không tin,” Erlendur trả lời.

“Người
đàn ông này chết sau khi bị đập mạnh làm thủng da đầu, vỡ sọ và tổn thương đến
não bộ. Theo tôi, người tấn công phải đối mặt với nạn nhân. Rất có thể họ đã
nhìn vào mắt nhau. Hung thủ có thể thuận tay phải, vì vết thương nằm bên trái. Và
hắn phải khá cao to, một người đàn ông trẻ hoặc trung tuổi là hợp nhất, khó
có thể là phụ nữ trừ khi cô ta lao động chân tay. Cú đập đã giết ông ta chết
ngay lập tức. Có thể ông ta đã nhìn thấy đường hầm và những luồng sáng chói lòa.”

“Cũng có
thể là ông ta đi theo con đường khác,” Erlendur nói.

“Ừm, ruột
nạn nhân gần như trống rỗng, chỉ còn một ít trứng và cà phê, trực tràng đầy. Ông
ta phải chịu đựng - nếu đó không phải là một từ quá nặng nề - bệnh táo bón,
không hiếm gì ở tuổi của ông ta. Không ai đến nhận xác, tôi hiểu, cho nên chúng
tôi đề nghị được sử dụng nó để dạy học. Chuyện đó có ảnh hưởng gì đến ông
không?”

“Vậy thì
ông ta thà chết đi còn có ích hơn là sống.”

Viên bác
sĩ nhìn Erlendur, rồi tiến về phía cái bàn, lấy ra một khối thịt từ một cái
khay kim loại và giơ nó lên bằng một tay.

“Chẳng
thể biết được là người ta tốt hay xấu,” ông nói. “Cái này có khi cũng giống như
quả tim của một vị thánh mà thôi. Những cái gì mà chúng ta cần tìm ra, nếu tôi
hiểu đúng ý ông, là liệu nó có bơm loại máu xấu hay không thôi.”

Erlendur
nhìn đầy ngạc nhiên khi viên bác sĩ cầm quả tim
của Holberg và xem xét nó. Nhìn ông ta cầm quả tim như
thể không có gì có thể tự nhiên hơn trên cõi đời này.

“Đây là
một trái tim khỏe,” ông ta tiếp tục. “Nó có thể làm việc tốt trong vài năm nữa,
có thể giúp cho chủ nhân của nó sống hơn trăm tuổi.” Nói rồi viên bác sĩ đặt
quả tim lại vào khay kim loại.

“Có một
vài điều khá thú vị về Holberg, mặc dù tôi chưa khám nghiệm ông ta một cách cụ
thể. Có thể ông sẽ muốn tôi làm điều đó. ông ta có nhiều triệu chứng nhẹ của
một căn bệnh đặc trưng. Tôi đã tìm ra một khối u nhỏ trong não của ông ta, một
khối u lành tính - có thể gây rắc rối cho ông ta một chút, và trên da ông ta
còn có café au lait nữa, đặc biệt là ở đây, dưới cánh tay.”

“Café au lait ư?”

“Café au lait là thuật ngữ trong y khoa. Trông nó giống như
cà phê hòa tan vậy. Ông có biết gì về nó không?”

“Không
một chút nào.”

“Chắc
chắn tôi sẽ tìm ra nhiều triệu chứng hơn khi xem xét nạn nhân kĩ lưỡng hơn.”

“Người ta
nói về café au lait trên cơ thể cô bé. Cô bé bị bệnh u não. Ác tính. Ông có
biết bệnh đó là gì không?”

“Tôi vẫn
chưa thể nói gì về điều đó cả.”

“Có phải
là một bệnh di truyền qua gen không?”

“Tôi không
biết nữa.”

Ông bác
sĩ đi đến chiếc bàn nơi Audur nằm.

“Ông đã
nghe câu chuyện về Einstein chưa?” ông ta hỏi.

“Einstein ư?”
Erlendur hỏi.

“Albert
Einstein ấy.”

“Chuyện
gì?”

“Một câu
chuyện khó tin nhưng có thật. Thế còn Thomas Harvey? Chưa nghe đến
tên ông ta à? Một bác sĩ pháp y ấy.”

“Chưa.”

“Ông ta
tiến hành xét nghiệm khi Einstein chết,” ông bác sĩ tiếp tục. “Thật
là một gã tò mò. Ông ta tiến hành khám nghiệm tử thi, nhưng bởi vì đó
là Einstein nên ông ta đã không kìm được và mở hộp sọ
của Einstein ra để xem xét bộ não. Và ông ta còn làm nhiều hơn thế
nữa. Ông ta đã ăn cắp não của Einstein.”

Erlendur
không nói gì. Ông không hiểu đầu đuôi câu chuyện mà ông bác sĩ đang nói. “Ông
ta mang nó về nhà. Đó là một thôi thúc kì lạ nhằm sưu tầm những gì mà chỉ ít
người mới có, đặc biệt là khi nó liên quan đến những người nổi tiếng. Harvey mất
việc khi vụ đánh cắp bị phát hiện và suốt nhiều năm nó trở thành một câu chuyện
bí mật, một truyền thuyết thì đúng hơn. Tất cả các câu chuyện đều xoay quanh
ông ta. Ông ta luôn giữ bộ não trong nhà. Tôi không biết làm thế nào mà ông ta
có thể làm được điều đó. Người nhà của Einstein luôn cố gắng để lấy
lại bộ não từ ông ta, nhưng vô ích. Cuối cùng khi đã già rồi, ông ta quyết định
trả bộ não về cho họ. Ông ta đặt nó trong cốp xe và lái xe suốt dọc nước Mỹ để
về nhà của cháu Einstein ở California.”

“Chuyện
đó có thật không?”

“Thật như
ban ngày.”

“Tại sao
ông lại nói với tôi điều này?” Erlendur hỏi.

Viên bác
sĩ nhấc tấm chăn ra khỏi cơ thể của đứa bé và nhìn vào đó.

“Não của
cô bé bị mất,” ông ta nói, và vẻ bình thản trên khuôn mặt ông không còn nữa.

“Sao cơ?”

“Bộ não,”
ông nói, “không còn ở đúng chỗ của nó nữa.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3