Tình Yêu Thời Thổ Tả - Chương 03

Chương 3

Nền độc lập giành được từ tay bọn Tây Ban
Nha và sau đó là sự xóa bỏ chế độ nô lệ đã đưa đến sự sụp đổ của giới thượng
lưu trong đó bác sĩ Huvênan Ucbinô sinh ra và lớn lên. Những gia đình giàu có
đầy thế lực trước đây lặng lẽ mai một trong chính những dinh thự xơ xác của họ.
Trong những ngõ hẻm thuộc các đường phố lát đá rất kiên cố từng bị chiến tranh
và bọn cướp biển bất thình lình ập đến phách, nay cỏ mọc um tùm trên những ban
công và trên những bức tường thành xây gạch, ngay cả những ngôi nhà nguy nga
nửa tưởng cũng đã nứt nẻ và biểu hiện duy nhất của sự sống vào lúc hai giờ
chiều là những bản nhạc tập pianô vang lên từ trong bóng râm những trưa hè. Bên
trong những ngôi nhà, trong những phòng sực nức mùi hương, các phụ nữ tránh ánh
nắng như thể họ tránh một bệnh dịch hay lây và ngay cả trong các buổi cầu kinh
trước lúc mặt trời mọc, các bà cũng dùng mạng che mặt. Tình yêu đến với các cô
gái quý phái này thật là muộn mằn, vất vả, thường bị đảo lộn bởi những điềm báo
bất hạnh và đối với các cô này cuộc đời dài tưởng như vô tận. Tối đến, trong
khoảnh khắc căng thẳng lúc trời chạng vạng tối, hàng đàn muỗi xăngcudô[7] từ
các đầm lầy y như cơn lốc vù vù bay vào các ngôi nhà vương theo cái mùi phân
người nồng nặc, và ý nghĩa sáng tỏ về sự chết chóc khuấy động tới đáy sâu tâm
hồn.

[7] Một loại muỗi to ở châu Mỹ

Vậy đó là cuộc sống đích thực của thành phố
thời thuộc địa Tây Ban Nha mà anh thanh niên Huvênan Ucbinô thường lý tưởng hóa
trong niềm nhớ nhung quê hương khi anh ta học ở thủ đô Pari. Lúc ấy nó chỉ là
một ảo ảnh của ký ức mà thôi. Ở thế kỷ XVIII, gia đình Ucbinô là gia đình
thương gia giàu có nhất vùng Caribê và nổi tiếng là gia đình chuyên buôn bán nô
lệ Phi châu ở châu Mỹ. Ngoài ra, phủ thống sứ của các vụ Phó vương trong triều
đình mới ở Granađa[8], những người muốn từ đây, từ bên bờ Thái Bình Dương này,
chỉ huy tất cả thế giới chứ không chỉ ở cái thành phố xa lạ và lạnh buốt mà
những cơn mưa phùn hàng thế kỷ của nó làm sai lạc cảm quan về thực tại. Mỗi năm
vài lần các đội thuyền chở đầy của cải từ Pôtôsi[9], từ Kitô[10], từ
Vêracrut[11], về đây tập trung ở ngoài cảng và lúc ấy thành phố thực sự sống
những năm tháng huy hoàng của nó. Vào lúc bốn giờ chiều thứ sáu ngày mồng tám
tháng sáu năm 1708 con tàu Xăng Hôsê chở đầy đá và kim loại quý trị giá ước
khoảng nửa tỷ pêxô vừa nhổ neo để vượt đại dương đi về thành phố Cadit[12] liền
bị đội hải thuyền Anh đánh đắm ở ngoài khơi ngay phía đối diện với cửa cảng, và
hai thế kỷ sau nó vẫn chưa được vớt lên. Kho của ấy cùng với xác nằm nghiêng
trên ghế chỉ huy của vị thuyền trưởng vẫn nằm sâu dưới đáy biển, bị san hô phủ
kín lâu nay vẫn được các nhà sử học thường xuyên nhắc đến và coi là biểu tượng
của thành phố đắm chìm trong ký ức.

[8] Một thành phố ở châu Nam Mỹ, nay thuộc nước Nicragoa. Ở
đây ám chỉ chính quyền thực dân

[9] Tên một địa phương ở Côlômbia

[10] Tên một địa phương ở Equado

[11]Hải cảng thuộc Mêhico.

[12] Hải cảng thuộc Tây Ban Nha

Bác sĩ Huvênan Ucbinô, có một ngôi nhà cũ ở
bờ bên kia vịnh, tại khu phố La Mănga toàn nhà biệt thự. Đó là ngôi nhà một
tầng, rộng và mát mẻ, có sân hiên ngoài dựng hàng cột đôricô rất kiểu cách. Từ
sân hiên này người ta có thể bao quát tầm nhìn toàn bộ quang cảnh của vịnh. Nền
nhà lát gạch hoa đen trắng tạo thành hình bàn cờ đam suốt từ cửa chính vào tận
nhà bếp, và điều này nhiều lần đã củng cố thêm nỗi đam mê chủ yếu của bác sĩ
Huvênan Ucbinô mà không hề nhớ rằng cái khu phố những nhà giàu mới phất kia là
một điểm yếu kém chung của các bậc thầy xây dựng công trình kiến trúc ở đầu thế
kỷ này. Phòng tiếp khách rộng và thoáng như toàn bộ ngôi nhà, có sáu cửa sổ mở
ra phía đường cái và được ngăn cách với phòng ăn bởi một cửa kính rộng có vẽ
các tích truyện với những cành nho và chùm nho sai quả, những cô thôn nữ bị các
vị thần đồng áng quyến rũ tạc trên cành hoa làm bằng đồng. Các đồ dùng tiếp
tân, kể cả chiếc đồng hồ quả lắc treo trong phòng khách cũng có dáng vẻ sống
động của một tên lính gác, đều được sản xuất từ cuối thế kỷ XIX ở tận bên nước
Anh. Những ngọn đèn chùm đều làm bằng thủy tinh bọt. Ở mọi chỗ trong phòng bày
biện nào cốc chén và bình hoa được sản xuất ở Sevrơ, những bức tượng thạch cao
tuyết hoa thể hiện đề tài tình yêu nơi trần thế. Nhưng cái sự cố kết các đồ vật
Âu châu ấy sẽ kết thúc ở phần còn lại ngôi nhà, nơi những chiếc ghế mặt đan sợi
nilon lẫn với những chiếc ghế xích đu và ghế bọc da, sản phẩm thủ công mỹ nghệ
địa phương. Trong các phòng ngủ, ngoài các giường ra còn có mắc những chiếc
võng sản xuất ở Xăng Haxinhtô[13] có thêu tên ông chủ theo dáng chữ Gô-tích bằng chỉ lụa và
xung quanh có viền những mũi tên màu sắc sặc sỡ. Khoảng không rộng rãi bên cạnh
phòng ăn ngay từ lúc đầu đã được dự định dùng làm nơi tổ chức các bữa cơm khách
trọng thể, nay nó được dùng làm phòng nghe nhạc để tổ chức các buổi hòa nhạc cho
một số bạn bè thân thiết cùng nghe khi có các tay nhạc công nổi tiếng đến đây.
Nền gạch đã được trải thảm Thổ Nhĩ Kỳ mua ở triển lãm Quốc tế tại Pari để trong
nhà cho đỡ ồn. Một chiếc máy hát đời mới kê bên cạnh một chiếc kệ đựng đĩa hát
xếp theo thứ tự. Chiếc đàn pianô lâu nay bác sĩ Huvênan Ucbinô không chơi đặt
tại một xó phòng, được một tấm vải Manila trùm kín. Người ta nhận rõ trong khắp
ngôi nhà này đều mang chính kiến và nỗi sợ sệt của một người đàn bà vốn đứng
vững hai chân trên mặt đất này.

[13] Tên một thành phố ở Côlômbia.

Tuy nhiên, không một nơi nào chứng tỏ trong
nhà này có thư viện. Đó là một thư viện trang trọng và xinh xắn mà bác sĩ
Huvênan Ucbinô coi như một nơi thờ phụng trước khi tuổi già đến với ngài. Tại
đấy, xung quanh chiếc bàn gỗ đào hoa tâm vốn là bàn viết của cha ngài và những
chiếc ghế bọc da, người ta dựng những chiếc giá sách làm bằng thủy tinh dọc
theo bốn bức tường cao vút đến tận cửa sổ, và xếp đầy lên đấy, gần như tức
cười, ba nghìn cuốn sách bìa bọc da dê và gáy in chữ vàng tên viết tắt của
ngài. Ngược hẳn lại với những phòng khác thường ồn ào và nồng nặc mùi tanh tưởi
từ ngoài cảng bay đến, thư viện lúc nào cũng thanh lặng và có mùi vị của một
nhà thờ. Là những người sinh ra và lớn lên trong tín điều vùng duyên hải cho rằng
phải mở hết các cửa để đón gió mát vốn không có trong thực tế, bác sĩ Huvênan
Ucbinô và bà vợ ngài, ngay từ phút đầu đã cảm thấy tim mình như ngừng đập trước
việc ngôi nhà ban ngày lúc nào cửa cũng đóng im ỉm. Nhưng rồi họ cũng đồng tình
trước những cái lợi của phương pháp chống nóng của người La Mã bằng việc đóng
hết các cửa lại ngăn không cho hơi nóng của tháng tám và về ban đêm mở toang
các cửa để đón gió mát. Kể từ dạo ấy, ngôi nhà của họ là ngôi nhà mát mẻ nhất
trong những ngày nắng nóng ở khu phố La Mangga, và thật hạnh phúc cho người nào
được nằm trong phòng ngôi nhà đó mà nghỉ trưa. Về buổi chiều ngồi ở hành lang
có hàng cột đôricô mà ngắm nhìn những chiếc tàu màu ghi xám nặng nề chở hàng từ
Tân Occlêăng tới và nhìn những chiếc tàu khách bánh lái bằng gỗ với những ngọn
đèn nhấp nháy sáng lúc chiều buông, và tiếng nhạc không ngừng nghỉ, những con
tàu này sẽ làm thanh sạch bầu không khí uế tạp đọng lại ngoài vịnh biển. Rồi từ
tháng chạp năm trước đến tháng ba năm sau, nó cũng là ngôi nhà được bảo vệ chu
đáo nhất trước những trận gió mùa đông - bắc liên hồi thổi tốc mái nhà, chúng
như những con sói đói mồi lồng lộn suốt đêm quanh nhà tìm khe hở luồn hơi rét
vào. Chưa bao giờ có ai dám nghĩ rằng đôi vợ chồng chung sống trong ngôi nhà
xây kiên cố kia có thể có một lý do nào đó để mà không được hưởng hạnh phúc.

Dẫu sao thì buổi sáng hôm ấy bác sĩ Huvênan
Ucbinô không còn là mình nữa khi ngài trở về nhà trước lúc mười giờ sáng. Ngài
bàng hoàng vì hai cuộc viếng thăm không những làm ngài phải bỏ lễ misa ngày Hạ
trần mà còn đe dọa sẽ trả ngài trở lại cái tuổi sức đã tàn lực đã cạn. Ngài
muốn ngủ say như trâu chết trong lúc đợi đến giờ dự bữa tiệc linh đình của bác
sĩ Laxidêt Ôlivêda nhưng ngài lại thấy đám gia nhân đang nhốn nháo tìm cách bắt
lại chú vẹt xổng chuồng hiện đang đậu trên đỉnh ngọn cây xoài vì khi họ bắt nó
ra khỏi chuồng để cắt lông cánh nhưng do vô ý tuột tay đánh xổng mất. Đó là con
vẹt trụi lông và điên khùng: khi người ta bảo nói nó không nói nhưng nó sẽ bất
thình lình nói khi không ai bảo nó. Lúc này con vẹt rất ranh ma và tinh khôn
không một người sánh
kịp. Con vẹt đã được bác sĩ Huvênan Ucbinô đích thân dạy bảo và chính việc này
là một đặc ân đối với nó mà cả gia đình, ngay cả các con ngài khi chúng còn rất
bé, không một ai được hưởng.

Con vẹt sống ở nhà này đã được hai chục năm
và không một ai biết trước đó nó đã bao nhiêu tuổi. Vào tất cả các buổi chiều
sau giờ ngủ trưa, bác sĩ Huvênan Ucbinô ngồi ở ngoài sân hiên, nơi mát nhất
trong khu nhà, đối diện với chú vẹt và ngài vận dụng mọi ngón nghề hữu hiệu
trong nghề sư phạm để dạy cho đến khi nó nói được tiếng Pháp y như một viện sĩ
viện hàn lâm. Sau đó, do thói quen, ngài còn dạy nó cầu kinh misa bằng tiếng
Latinh và một số đoạn trích từ kinh Phúc âm của thánh Mathêu và ngài còn định
nhồi nhét cho nó quan niệm máy móc về bốn pháp làm thơ. Trong chuyến du lịch
gần đây nhất sang châu Âu, ngài mang về một chiếc máy hát đầu tiên cùng với
nhiều đĩa hát ghi những bản nhạc đang thịnh thời và cả những đĩa hát ghi nhạc
của những nhạc sĩ cổ điển. Trong vài tháng liền, ngày này qua ngày khác, lúc
nào rỗi, ngài cho con vẹt nghe những bài hát của Yvêttê Ghinbec và Aristidơ
Bruan, vốn là những bài hát được hâm mộ nhất nước Pháp trong thế kỷ trước, cho
đến khi con vẹt thuộc lòng những bài hát ấy. Con vẹt hát những bài hát này, khi
thì với giọng nữ nếu bài hát ấy là của nữ, khi thì với giọng nam nếu bài hát ấy
là của nam và nó kết thúc bằng một trận cười ha hả y hệt tiếng cười của những
cô hầu gái đã cười khi nghe nó hát bằng tiếng Pháp. Tiếng đồn về chú vẹt tinh khôn
hát hay bay đi rất xa, đến mức có những khách sang trọng từ trong đất liền đi
trên những chuyến tàu khách đã xin phép được xem con vẹt và có lần một vài
khách du lịch người Anh thuộc số những người vẫn đến đây trên những chiếc tàu
chở muối về Tân Ooclêăng đã định mua nó với bất kỳ giá nào. Tuy nhiên cái ngày
vinh hiển nhất là ngày Tổng thống nước cộng hòa, Đôn Máccô Phiđen Soarêt cùng
toàn thể các vị bộ trưởng trong chính phủ của Ngài đến nhà để chứng thực sự nổi
tiếng của con vẹt. Họ đến vào lúc ba giờ chiều, người phát sốt phát rét vì phải
đội mũ phớt và mặc complê nỉ suốt ba ngày liền trong chuyến công du dưới trời
tháng tám nắng như đổ lửa và họ lại phải vội vã ra về như họ đến, vì con vẹt
không chịu nói ngay cả đến cái câu 'Cái mỏ này là của tôi'. Trong suốt hai giờ đầy thất vọng, con vẹt
không chịu nói bất chấp người ta khẩn khoản van nài hoặc nổi cáu dọa dẫm, bất
chấp cái nỗi thẹn thùng trước đám đông của bác sĩ Huvênan Ucbinô, người từng
khoái chí lắm trước lời khen ngợi quá ư táo bạo khác hẳn với những lời cảnh
tỉnh rất thông minh của vợ ngài.

Việc con vẹt vẫn được hưởng những ân huệ
của ngài sau khi xảy ra chuyện mất mặt đáng nhớ đời kia là một thử thách cuối
cùng đối với đặc quyền bất khả xâm phạm của nó. Không một con vật nào khác được
nuôi trong nhà này trừ con rùa đất vừa mới xuất hiện trở lại trong nhà bếp sau
ba hoặc bốn năm biến mất mà ai cũng tưởng nó sẽ không bao giờ trở lại nữa. Con
rùa này không được coi là một sinh vật mà là một vật thờ mang lại vận may mà
người ta không hề biết rõ nó ở đâu. Bác sĩ Huvênan Ucbinô đã chiến đấu để buộc
người ta phải thù hằn con vật và ngài đã che giấu điều đó bằng tất cả những
huyền thoại khoa học và những lý lẽ triết học từng thuyết phục được rất nhiều
người nhưng không thuyết phục nổi vợ ngài. Ngài bảo rằng ai mà quá yêu quý con
vật sẽ là người đủ khả năng gây ra những tội ác dã man nhất đối với đồng loại
mình. Ngài bảo rằng chó không phải là loài vật trung thành mà là loài vật tận
tụy phục vụ con người, rằng mèo là giống cơ hội và phản trắc, rằng công là sứ
giả của thần chết, rằng vẹt đuôi dài là loài thích diện bộ cánh lòe loẹt, rằng
thỏ là loài vật ấp ủ những ham muốn xấu xa, rằng khỉ truyền cho ta sự ham mê
tửu sắc và rằng gà là loài vật đáng bị chửi bới chính vì nó ba lần khiến Chúa
Giêsu bị từ chối.

Ngược lại bà Phecmina Đaxa, vợ ngài, lúc đó
đã bảy mươi hai tuổi,
đi lại không còn nhanh nhẹn như con hươu như khi bà còn trẻ, là một người cuồng
nhiệt yêu các loại hoa nhiệt đới và các con vật nuôi và khi vợ chồng mới cưới
nhau bà đã biết tranh thủ tình cảm mới mẻ đòi chồng mua các loài hoa và vật
nuôi nhiều hơn mức bình thường rất nhiều. Đầu tiên là ba chú chó dòng Đanmata mang tên các hoàng
đế La Mã. Chúng cắn xé lẫn nhau để bảo vệ con cái, rất xứng đáng mang cái tên
Mêsalina, bởi vì nó đã đẻ chín con chậm hơn việc chửa mười con khác. Sau đó là
những con mèo xứ Abisinico gương mặt nhìn nghiêng của con diều hâu và điệu bộ
của Pharaông, những con mèo xứ Xiêm-La đôi mắt xếch có con ngươi màu vàng cam
đi lại trong các phòng ngủ tựa như những bóng ma và làm nhộn nhạo đêm thanh
tĩnh bằng tiếng kêu rên sung mãn khi làm tình với nhau. Trong vài năm liền nhà
này có một con khỉ đột vùng Amadôn bị xích vào gốc cây xoài ngoài sân. Nó là
một con khỉ có gương mặt tựa như gương mặt của đức giám mục Ôbduliô, đôi mắt rực
sáng và đôi bàn tay khéo léo từng gây thương hại cho ai xem nó, nhưng không
phải vì thế mà bà Phecmina Đaxa cho nó đi ở chỗ khác, mà chính là nó có cái tật
xấu thích trêu ghẹo các bà mệnh phụ đến chơi nhà.

Có đủ các loại chim Goatêmala nhốt trong
các lồng treo dọc hành lang và có những chú vạc và những chú diệc cẳng dài
nghêu màu vàng, quen sống ở các hồ đầm và một chú hươu non thường thò đầu qua
cửa sổ ăn lộc non các bụi cây cảnh. Trước khi xảy ra cuộc nội chiến cuối cùng
ít lâu, khi lần đầu tiên người ta nói đến chuyến viếng thăm có thể có của Đức
Giáo hoàng, một con chim sống ở vườn thượng uyển được đưa từ Goatêmala về đây.
Nhưng nó đã bay ngay về quê cũ của nó, khi người ta biết rằng lời tuyên bố về
chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng chỉ là một trò bịp của chính phủ đưa ra
nhằm dọa các nhà tự do chịu ngồi vào bàn thương lượng. Một lần nữa họ lại ngay
trên chiếc thuyền buồm của những kẻ buôn lậu vùng Curaxao một lồng sắt có sáu
con quạ hương y hệt những con mà hồi còn ở nhà bố mẹ đẻ Phecmina Đaxa từng có
và bây giờ khi đã về nhà chồng cô vẫn còn muốn có chúng trong nhà. Nhưng không
một ai có thể chịu đựng nổi việc chúng liên tục vẫy cánh khiến cho cả ngôi nhà
nồng nặc cái mùi khó chịu của các vòng hoa tang. Họ còn mang về nhà cả một con
trăn dài bốn mét. Con vật săn mồi ít ngủ đêm này với tiếng thở của nó khuấy
động bóng tối trong các phòng ngủ khiến người ta rất khó ngủ, tuy vậy nhờ nuôi
nó người ta có thể giành được điều mong muốn: với hơi thở của mình nó xua đuổi
đám dơi và thạch sùng cùng đám sâu bọ độc thường vào đầy nhà trong mùa mưa bão.
Bác sĩ Huvênan Ucbinô, lúc này hết sức đơn thương độc mã trong nhiệm vụ trị
bệnh cứu người toàn tâm toàn ý đưa sức lực ra hoạt động xã hội và văn hóa, lấy
làm mãn nguyện mà nghĩ rằng người vợ của mình chẳng những là người phụ nữ đẹp
nhất vùng Caribê mà còn là người hạnh phúc nhất trong hoàn cảnh xã hội nhiều
nỗi éo le. Nhưng có một chiều mưa, sau một ngày làm việc mệt phờ, bác sĩ
Huvênan Ucbinô thấy một cảnh rợn người ngay ở trong nhà khiến ngài tỉnh mộng.
Từ phòng khách đến cuối nhà, có một hàng dài những con vật chết nổi trên một hồ
máu. Đám các cô hầu gái đang đứng trên ghế mà không biết nên hành động như thế
nào đây, vẫn chưa hoàn hồn trước quang cảnh chết chóc thê thảm ấy.

Chuyện xảy ra vì có một con chó săn giống
Đức lên cơn điên bất thình lình, đã cắn xé bất kỳ con vật nào gặp trên đường
cho đến khi người làm vườn nhà bên rất dũng cảm đã dám đánh nhau và dùng dao
rựa chém chết nó. Không thể biết nó đã cắn bao nhiêu con vật nuôi, hoặc với
nước dãi xanh lè của mình nó đã truyền bệnh dại cho những con vật nào, vì thế
bác sĩ Huvênan Ucbinô ra lệnh giết hết những con vật nuôi còn sống sót và đốt
xác chúng ở một bãi đất cách xa ngôi nhà, tiếp đó ngài yêu cầu bệnh viện
Mixêricôrđia đến tẩy uế. Con vật nuôi duy nhất thoát chết, và không ai nhớ đến
nó, là con rùa đất có vận may.

Báo cáo nội dung xấu