Tình Yêu Thời Thổ Tả - Chương 43
Chương 43
Có một buổi chiều thứ bảy nọ, Phlôrêntinô Arixa bước vào phòng ngủ của mình
đã bắt gặp cô gái đang đánh máy chữ và cô đánh máy khá tốt vì cô đã học sử dụng
máy chữ ở trong trường. Cô đánh được một nửa trang nhưng ở một vài dòng nào đó
người ta dễ đàng nhận ra tâm trạng thực của cô. Phlôrêntinô Arixa cúi xuống
trên vai cô để đọc điều cô viết ra. Cô cảm thấy bối rối trước làn hơi ẩm của
ông, trước hơi thở không đều của ông, trước mùi thơm của quần áo ông, vốn giống
hệt mùi gối ông nằm. Cô không còn là cô bé vừa mới đến đây mà để cởi quần áo
của cô ông phải phỉnh rằng trước tiên là đôi giày nhỏ xíu này hãy cởi cho con
gấu bé tẹo kia, sau đó chiếc áo sơ mi hãy cởi cho con thỏ con này, sau rốt là
chiếc xilíp hoa hãy cởi cho con thỏ con này, và bây giờ hãy để một nụ hôn của
cha em lên cái con bướm ngầy ngậy. Cô không còn là nhãi ranh nữa, trái lại cô
đã là một phụ nữ thực thụ, người mà ông vẫn thích chủ động rủ rê đến thiên
đường bí mật ở sau văn phòng của hãng tàu thủy. Cô vẫn đánh máy mổ cò bằng một
ngón trỏ bàn tay phải. Bằng tay trái, cô dò tìm trên bẹn ông. Cô tìm kiếm cái
của ấy và đã tìm được nó, thấy nó sống lại từ từ, từ từ to ra. Cô cảm thấy hơi
thở háo hức của ông và cái hơi thở già nua của ông bỗng trở nên khò khè và khó
khăn hơn. Cô biết rất rõ điều đó, kể từ phút ấy trở đi ông bắt đầu thiếu tự
chủ, lý trí cũng tan biến mất, hoàn toàn dâng hiến cho niềm hoan lạc của cô, và
ông sẽ không tìm được đường trở về chừng nào chưa đi đến điểm tận cũng của trò
chơi. Ông bị cô cầm tay dắt đi như thể dắt một người mù tội nghiệp qua đường.
Rồi với điệu bộ nhẹ nhàng và duyên dáng cô cởi quần áo cho ông, cởi từng thứ
một, rồi cô kích thích ông như thể người đầu bếp dấm muối cho món thịt xào, một
ít tiêu cay, một nhánh tỏi, một lát hành, một lá nguyệt quế, nước chanh cho đến
khi nó vừa mắm vừa muối và bếp dầu vừa nóng đủ độ. Nhà không có ai. Các cô hầu
đã ra đi, bọn thợ nề và thợ mộc đang sửa chữa ngôi nhà không đến làm vào ngày
thứ bảy. Họ có cả một thế giới riêng cho hai người. Ông thoát khỏi cơn hứng
khởi ngay ở bờ miệng vực thắm. Ông gạt tay cô ra, ngồi đậy và nói giọng thều
thào:
- Coi chừng kẻo chúng ta không có túi ngừa thai.
Cô gái nằm ngửa trên giường mà suy tư khá lâu và khi trở về trường nội trú
sớm hơn thường lệ một giờ, cô đau khổ khủng khiếp đến mức không muốn khóc. Cô
rèn luyện cho khứu giác của
mình thính nhạy hơn và mài móng vuốt của mình sắc nhọn hơn để tìm gặp diện mạo
con thỏ rừng từng gây xáo trộn cuộc đời cô. Trái lại, Phlôrêntinô Arixa lại một
lần nữa phạm phải khuyết điểm của bọn mày râu, ông nghĩ rằng cô đã phải đầu
hàng trước những mục đích vô ích của cô và cô sẵn sàng quên ông đi rồi.
Ông đang sống trong những suy tư của chính mình. Sau sáu tháng không hề có
lấy một dấu hiệu nhỏ nào từ phía Phecmina Đaxa, ông lại trằn trọc trên giường
cho đến tận sáng, trôi nổi trong cảnh hoang vu của một thứ bệnh mất ngủ khác
hẳn trước đây. Ông nghĩ rằng Phecmina Đaxa bóc lá thư thứ nhất, đã nhìn thấy
đoạn mào đầu giống hệt như những bức thư trước đây khi họ còn trẻ và thế là bà
ném nó vào ngay ngọn lửa lò đốt rác mà chẳng cần mất sức đọc cho hết lá thư. Bà
chỉ cần nhìn bì những bức sau là đã quẳng chúng vào bếp mà chẳng hoài bơi bóc
chúng ra xem. Sự việc cứ diễn ra như vậy cho đến ngày tận thế mất trong lúc ông
đã đi tới điểm mút của những suy tưởng được viết ra. Ông không tin rằng có một
người phụ nữ đủ sức chống chọi với tính tò mò của bản thân trong cả một năm đối
với những bức thư được viết đều đặn, và đều đặn hàng ngày đến tay mình mà không
thèm biết đến ngay cả màu mực dùng để viết thư. Nhưng nếu quả là có một người
đàn bà như vậy thì người đó là Phecmina Đaxa.
Phlôrêntinô Arixa cảm thấy rằng thời gian của tuổi già không phải là một
thác nước cuộn chảy mà là một bể nước không đáy khiến cho tâm lực phải cạn kiệt.
Mưu mẹo của ông cũng cạn kiệt. Sau khi đi quanh khu phố La Măngga trong vài
ngày, ông hiểu rằng thủ đoạn thời trẻ của mình sẽ không thể chọc thủng những
cánh cửa được đóng kín để chịu tang. Có một buổi sáng nọ, do tìm một số điện
thoại trong danh bạ điện thoại ông bỗng bắt gặp số điện thoại nhà Ucbinô. Ông
gọi điện thoại cho bà. Ông nghe thấy chuông đổ vài lần và cuối cùng ông nhận ra
giọng nói của bà, một giọng nói nghiêm trang và vang vọng "Ai gọi
đấy!". Ông dập máy mà không nói nhưng cách quãng vô tận của giọng nói ấy
khiến ông ân hận về mặt đạo đức.
Cũng vào thời kỳ ấy, Lêôna Catxiani tổ chức lễ mừng sinh nhật của bà và bà
mời một số bạn bè thân đến nhà. Ông vô ý đã ngã đè lên trên đĩa súp gà. Lêôna
Catxiani dùng một góc khăn trải bàn thấm nước lau ve áo vextông cho ông rồi sau
đó bà lấy khăn ăn đeo trước ngực cho ông để phòng khi lại rớt nước canh lần
nữa, thế là ông giống như một đứa trẻ già như ông lão. Bà nhận thấy trong lúc
ăn, đã vài lần ông gỡ kính ra rồi dùng khăn tay lau mắt kính, vì hai mắt ông
đẫm lệ. Đến lúc uống cà phê, ông ngủ trong lúc tay còn bưng tách cà phê. Lêôna
Catxiani nhẹ nhàng định lấy tách cà phê ra khỏi tay mà không làm ông thức dậy,
nhưng ông đã ngượng ngùng khống chế: "Tôi chợp mắt chẳng qua là cho mắt đỡ mỏi
thôi". Lêôna Catxiani nằm mà ngạc nhiên thấy rằng mình thấy ông già đi
nhiều quá.
Trong ngày giỗ đầu bác sĩ Huvênan Ucbino, gia đình gửi thiếp mời bạn hữu
đến dự lễ misa tưởng niệm ngài tại Nhà Thờ lớn. Chính lúc ấy, Phlôrêntinô Arixa
đã gửi cho bà lá thư số một trăm ba mươi hai mà vẫn chưa hề có dấu hiệu trả
lời. Sự kiện đó càng làm cho ông có quyết tâm cao sẽ đi dự lễ misa dù không
được mời. Đó là một sự kiện xã hội mang màu sắc hãnh diện hơn là để tưởng nhớ
người quá cố. Những chiếc ghế ở hàng đầu, được giữ gìn cẩn thận với đặc điểm
cha truyền con nối, đều có một tấm biển đồng ghi rõ tên họ của chủ nó ở phía
sau tấm tựa. Phlôrêntinô Arixa đến nhà thờ cùng với số khách mời đầu tiên để
ngồi ở vị trí mà Phecmina Đaxa đi qua không thể không nhìn thấy ông. Ông nghĩ
rằng những chỗ ngồi tốt nhất có lẽ là những hàng ghế ở gian chính giữa nhưng vì
người đến dự quá đông nên ông đã không tìm được một chỗ trống, và vì vậy ông
buộc phải ngồi ở hàng ghế bên dành cho những người thân nghèo khó. Từ chỗ ấy
ông nhìn thấy Phecmina Đaxa khoác cánh tay người con trai, mặc bộ đồ nỉ đen
trùm kín tận gót chân với một hàng cúc dài suốt từ cổ xuống tận bàn chân nom
tựa như chiếc áo thụng hành lễ của Đức Giáo chủ và thay cho chiếc mũ bà quàng
một chiếc khăn đăngten của Tây Ban Nha có dính dải băng tang như những bà góa
khác. Gương mặt của bà bừng sáng thứ ánh sáng của thạch cao tuyết hoa, đôi mắt
lá răm sống sức sống của chính mình bên dưới ngọn đèn chùm treo ở gian giữa, và
bà đi rất ngay ngắn, rất kiêu hãnh, rất tự chủ đến độ người ta có cảm tưởng bà
chẳng già hơn người con trai là bao nhiêu. Phlôrêntinô Arixa đứng, ngón tay tì
lên tấm tựa của chiếc ghế phía trước, và cứ đứng như thể cho đến khi mình qua
cơn choáng váng bởi vì ông cảm thấy rằng ông và bà không chỉ cách nhau một
khoảng cách bảy bước chân mà còn cách nhau một khoảng cách của hai ngày khác
nhau.
Phecmina Đaxa đứng ngay ở ghế danh dự của gia đình trước bàn thờ lớn mà
hành lễ, hầu như bà đứng gần hết buổi lễ với chính sự chăm chú khi đi dự một
buổi nhạc kịch. Nhưng đến cuối buổi lễ, bà đã phá bỏ mọi lề luật của nghi thức
tế lễ, và bà không đứng nguyên ở chỗ đứng của mình để lại một lần nữa nhận
những lời chìa buồn thống thiết được bạn bè thân hữu nhắc lại, theo đúng như
quy định hiện hành, mà trái lại bà bước đến từng vị khách một để bày tỏ lòng
biết ơn của mình đối với họ: đó là một hành động đổi mới phù hợp với cách sống
của bà. Bà chào hết người này đến người khác cho đến khi bà đi đến hàng ghế của
những người bà con nghèo, rồi cuối cùng bà đứng lại, quay người nhìn khắp lượt
để tự tin rằng mình không bỏ sót một ai quen biết mà không chào hỏi. Chính lúc
ấy Phlôrêntinô Arixa cảm thấy có một ngọn gió kinh dị khác thường đã lôi bật
ông ra khỏi tâm hồn mình: Bà đã nhìn thấy ông rồi. Phecmina Đaxa đã tách ra
khỏi đám người cùng đi với bà trong điệu bộ nhanh nhẹn hoạt bát mà bà thường có
trong hoạt động xã hội, bà chìa tay ra cho ông, rồi với một nụ cười ngọt ngào,
bà nói:
- Xin đa tạ sự có mặt của ông.
Vậy là bà không những nhận được thư mà còn đọc chúng với một niềm thích thú
không bờ bến và trong những bức thư ấy bà đã tìm thấy rất nhiều điều cần phải
suy nghĩ để tiếp tục sống. Bà đang ngồi ăn ở bàn, ăn sáng với người con gái,
thì bức thư đầu tiên đến với bà. Vì tò mò thấy lá thư được đánh máy bà mở ra và
khi nhận ra chữ ký tên tắt bà liền đỏ bừng mặt. Nhưng ngay tức khắc bà trấn
tĩnh được và cất thư vào túi áo tạp dề. Bà bảo: "Thư chia buồn của chính
phủ". Người con gái ngạc nhiên, nói: "Thư chia buồn chẳng đã đến nhà
hết rồi sao". Bà vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình: "Nhưng đây là
một bức thư chia buồn khác". Ý định của bà là sau này sẽ đốt bức thư đi
(bà đốt đi không chỉ vì những lời nói của người con gái) nhưng bà không thể đốt
nó đi mà chưa đọc trước một lần. Bà những tưởng đây chỉ là một bức thư trả lời
lại những điều bà sỉ nhục và nguyền rủa ông, nhưng khi đọc qua phần mở đầu của
lá thư thì bà hiểu có một cái gì đó đang thay đổi trong cuộc đời. Bà hết sức
thán phục và thú vị đến mức bà vào phòng khóa trái cửa lại để bình tĩnh đọc lại
nó trước khi đem đốt đi và bà đã đọc tới ba lần không hề nghỉ lấy hơi. Đó là
những suy nghĩ về cuộc đời, về tình yêu, về tuổi già, về cái chết: những tư
tưởng nhiều lần như những chú chim đêm vỗ cánh bay lượn trên đầu bà nhưng khi
bà định túm lấy thì chúng đã biến đi trong một luồng lông bay. Những tư tưởng
ấy đang hiện hữu ngay bên bà, hiện hữu một cách thật trong sáng, thật giản dị,
như bà thích nói đến chúng, và hơn một lần nữa bà đau lòng thấy rằng chồng mình
không còn sống để cùng bà bàn luận về chúng như họ bàn luận về một số sự kiện
xảy ra trong ngày trước khi đi ngủ. Bằng hình thức đó, trước mặt bà biển hiện
một Phlôrêntinô Arixa chưa hề được quen biết, với một sự sáng tỏ rằng ông không
giống với những bức thư đầy nhiệt tình hồi còn trẻ của ông, cũng chẳng hề liên
quan gì tới thái độ trầm ngâm rầu rĩ cả một đời ông. Đúng hơn, chúng là những
lời dường như được nhận trực tiếp từ tinh thần thượng đế của người đàn ông,
theo như bà cô Escôlaxtica nói và chính ý nghĩ này đã lại làm bà hoảng hốt như
lần đầu tiên. Tóm lại, cái góp phần làm cho tâm hồn bà thanh thản chính là cái
ý nghĩ sáng tỏ này, bức thư ấy của ông già thông thái không có ý định lặp lại
hành động xấc xược trong đêm tang lễ, mà đúng hơn nó là một hình thức rất cao
cả để xóa bỏ quá khứ.
Những bức thư của ông đã làm cho bà thực sự an lòng. Bằng mọi giá, sau khi
đọc xong chúng với một ni thích thú ngày càng tăng, bà đều đốt hết dẫu rằng khi
đốt xong trong lòng bà đọng lại nỗi ân hận vì sao mình không kịp thời ngừng
việc đốt thư lại. Vì vậy, khi bà nhận được những bức thư được đánh số thứ tự
ngay lập tức bà tìm thấy một lời biện hộ có tính đạo lý cho mình rằng thực lòng
bà không muốn những bức thư này bị thiêu hủy. Trong mọi trường hợp, ý nghĩa ban
đầu của bà không phải là việc giữ lại những bức thư này cho bản thân mình mà
chờ dịp để trả lại cho Phlôrêntinô Arixa để ông khỏi bị mất đi một cái gì đó mà
theo bà nó rất có ích cho nhân loại. Điều tệ hại là ở chỗ thời gian cứ trôi đi
và thư cứ tiếp tục đến với bà, cứ độ ba hay bốn ngày lại có một lá thư đến
trong suốt cả một năm ròng, và thế là bà không biết làm thế nào để trả lại ông
những bức thư này mà bà không khỏi nghĩ đó là một hành động khiếm nhã mình
không muốn làm, và tuy không trả lại thư nhưng bà không phải giải thích trong
một lá thư mà vì lòng kiêu hãnh bà không muốn viết. Thời gian một năm ấy đủ để
bà làm quen với cuộc sống góa bụa của mình. Ký ức về người chồng được thanh lọc
không còn là một trở ngại trong các hoạt động xã hội của bà, trong những suy tư
thầm kín của bà, và nó trở thành một sự hiện diện có tính chất thường xuyên để
dắt dẫn bà mà không làm bà hoảng sợ. Đôi lúc bà bắt gặp ngài, nhưng ngài không
chỉ là một cái bóng mà trái lại ngài là hiện diện bằng xương bằng thịt, ở ngay
chỗ thực tình bà đang cần đến ngài. Bà khích lệ ý nghĩ sáng tỏ rằng ngài vẫn ở
đây, vẫn đang sống mà không có những thích thú đàn ông, không có những đòi hỏi
quá quắt của bậc trưởng lão, không có sự đòi hỏi dai dẳng rằng bà hãy yêu ngài
với chính nghi thức của những nụ hôn không đúng lúc và những lời lẽ dịu dàng mà
ngài từng yêu bà. Bởi lúc ấy bà hiểu ngài hơn cả khi ngài còn sống, hiểu được
nỗi khát khao của tình yêu ngài, hiểu được ý muốn sẽ tìm thấy ở bà sự yên bình
mà đối với ngài nó là chỗ dựa của cuộc đời hoạt động xã hội mà trên thực tế
không bao giờ ngài có được. Có một ngày, khi quá đau khổ, bà đã gào vào mặt
ngài rằng: "Ông không thấy điều bất hạnh mà tôi đang phải chịu đựng hay
sao". Bằng điệu bộ rất đặc trưng cho con người mình, ngài gỡ cặp kính ra,
vẫn điềm nhiên như không, với đôi mắt giàn giụa lệ ngài nhìn bà, nói: "Xin
em hãy luôn luôn nhớ cho rằng điều quan trọng nhất trong cuộc sống của một cặp
vợ chồng hòa thuận là sự ổn định chứ không phải là hạnh phúc". Kể từ những
ngày cô đơn đầu tiên của cuộc đời góa bụa, bà đã hiểu rằng câu nói ấy không
giấu trong nó một lời đe dọa nào cả như đã có lúc bà nghĩ mà nó là hòn đá tảng
từng đem lại cho cả hai biết bao giờ hạnh phúc.
Trong những lần đi ra nước ngoài, Phecmina Đaxa đã mua tất cả những gì mà
tính chất mới lạ của chúng từng khiến bà chú ý. Bà thích thú chúng bởi sự thôi
thúc trước tiên mà người chồng hài lòng với lý lẽ của bà, và đó là những đồ vật
đẹp và hữu ích trong khi chúng còn ở khung cảnh sinh ra của chúng: trong những
tủ kính ở Rôma, ở Pari, ở Luân Đôn, hoặc ở những tủ kính thành phố Nữu Ước nghe
ồn ào đến nhức óc bởi tiếng nhạc nhảy của điệu xanxtơn và đó là nơi những tòa
nhà chọc trời đang mọc lên, những thành phố này lại không chịu nổi sự thử thách
của những bản nhạc của Xtrau, với tiếng trống tiếng kèn nghe sôi động, nóng đến
bốn mươi nhăm độ C trong bóng râm. Vậy là bà trở về với nửa tá hòm cao lênh
khênh, to đùng, bằng sắt tây bóng loáng có khóa và đai đồng, nom tựa như những
chiếc quan tài quái dị, và thế là bà chủ nhân và là vương hậu của những đồ dùng
kỳ điệu, mới nhất của thế giới, nhưng chúng lại không có giá trị của vàng vào
khoảnh khắc thoáng qua mà một người nào đó trong số những đồng bào của mình
nhìn thấy chúng một lần. Bởi chính vì lẽ đó chúng được mua về, để cho những
người khác một lần được nhìn ngắm chúng. Ngay từ trước khi bước sang tuổi già,
bà đã có ý thức về tính chất hư danh phù phiếm của con người trong xã hội của
bản thân mình và ở trong nhà thường xuyên được nghe thấy bà nói: "Cần phải
thoát ra khỏi bao thứ vô dụng này đến độ chúng không để chỗ cho ta sống".
Bác sĩ Huvênan Ucbino giễu cợt những mục đích vô ích của bà, bởi ngài biết rằng
những chỗ trống vừa được giải phóng ở trong nhà rồi lại bị kê chặt bởi những đồ
đạc mới mà thôi. Nhưng bà khăng khăng cãi lại, vì trên thực tế nhà không còn
chỗ để chứa thêm đồ nữa, và không một chỗ nào đó lấy một vật hữu ích cả, tỷ như
những chiếc áo sơ mi mắc trên giá treo sau cánh cửa, hay những chiếc mắc áo
khoác ngoài dùng trong mùa đông ở châu Âu được gấp lại để trên gác xếp nơi nhà
bếp. Vì vậy, có một buổi sáng thức dậy với tinh thần quật khởi bà đã úp ngược
các ngăn đựng quần áo trong tủ, lôi hết các đồ vô dụng trong hòm ra, lôi hết đồ
đạc cất trên tầng trần xuống và do đó khiến cho sàn nhà như một bãi chiến
trường ngổn ngang sau trận đánh: những đống quần áo đã được mặc nhiều lần,
những chiếc mũ không bao giờ đội bởi không có dịp dùng khi chúng còn mốt thời
trang, những đôi giày do các nghệ nhân Âu châu đóng theo mốt giày các vương hậu
dùng trong dịp được tấn phong nhưng ở đây lại bị các cô tiểu thư con nhà quyền
quý coi khinh bởi chính vì chúng quá giống những đôi giày mà bọn gái đa đen mua
ở ngoài chợ để dùng đi trong nhà. Suốt buổi sáng ấy, hành lang luôn luôn ở
trong tình trạng tấp nập người qua kẻ lại để dọn dẹp, và trong nhà rất khó thở
trước mùi băng phiến nồng nặc. Nhưng chỉ ít giờ đồng hồ sau bà đã lấy lại được
bình tĩnh bởi vì bà hài lòng trước không biết bao nhiêu lụa quý trải dài trên
sàn nhà, trước không biết bao nhiêu tấm vải thêu chỉ kim tuyến còn thừa và mẩu
thừa đồ ren kim tuyến, trước không biết bao những đuôi chồn màu xanh đã bị kết
án đưa vào lò lửa.
- Nếu đốt chúng đi thì đây là một tội lỗi, - bà nói, - vì còn biết bao
người ngay cả đến miếng ăn cũng không có.
Vậy là việc hỏa thiêu đồ vô dụng bị day lại và chúng luôn luôn bị dừng lại,
và các đồ vật chỉ bị thay đổi vị trí mà thôi, từ vị trí danh giá chúng bị đưa
xuống những tàu ngựa cũ đã được cải tạo lại thành các kho chứa đồ vặt vãnh của
gia đình, trong khi đó những chỗ trống vừa được giải phóng, như ngài đã nói,
lại được để các đồ vật mới, những thứ chỉ sống trong một lần rồi chết trong các
tủ quần áo, chúng lại đợi đến kỳ hỏa thiêu sau. Bà bảo: "Có lẽ phải sáng
tạo ra một cái gì đó để mà làm đối với những đồ vật bỏ thì thương vương thì tội
này". Đúng như thế, tính tham lam muốn có các đồ vật đến mức chúng ngày
càng ngốn mất khoảng không để con người sống, ngày càng lấn át con người, dồn
con người vào chân tường đã khiến Phecmina Đaxa lo sợ, vì thế bà đã xếp chúng
vào nơi kín đáo. Bởi vì thực ra bà không gọn gàng ngăn nắp như bà tưởng mà
chẳng qua bà có một phương pháp của chính mình. Bà sợ mình giống với tình trạng
lộn xộn trong nhà nên đã cất giấu tình trạng lộn xộn ấy đi mà thôi. Ngày bác sĩ
Huvênan Ucbinô tạ thế, người ta phải khuân vợi một nửa đồ đạc trong phòng làm
việc của ngài và phải chồng đống các đồ vật lên nhau trong phòng ngủ để lấy chỗ
làm lễ viếng ngài.
Thần chết khi đi qua ngôi nhà này đã để lại một giải pháp. Cùng một lúc với
việc thiêu đốt quần áo của người chồng quá cố, Phecmina Đaxa nhận ra rằng cảm
xúc hãi hùng về tội lỗi không làm bà run tay và cũng với chính nỗi thôi thúc ấy
bà lại nhóm lửa vào những thời gian nhất định, ném tất cả vào lửa, đồ cũ cũng
như đồ mới, mà lòng không mảy may bận tâm đến nỗi ghen tị của những người giàu
có, không bận tâm đến lòng thèm muốn của những kẻ nghèo không có cái ăn. Cuối
cùng, để không còn lại một vết tích gì của nỗi bất hạnh, bà cho người ta đào
tận gốc rễ cây xoài đi và tặng con vẹt ấy cho Bảo tàng Thành phố mới được khánh
thành. Chỉ đến khi ấy bà mới thở hít theo sở thích của mình trong một ngôi nhà
từng ao ước nó rộng rãi, thoáng đãng là của bà.
Ôphêlia, người
con gái, ở với bà trong ba tháng rồi trở về Tân Ooclêăng. Người con trai lôi
kéo bạn bè của mình đến ăn cơm trưa tại nhà bố mẹ vào các ngày chủ nhật và vào
những dịp có thể trong một tuần. Những người bạn gái thân cận nhất của Phecmina
Đaxa, sau khi đám tang qua đi rồi, đã thường xuyên đến chơi với bà. Họ cùng
nhau chơi bài tây ở ngoài hiên đối diện với sân cỏ được cắt tỉa gọn gàng, cùng
làm thử món ăn mới, nghĩa là họ đặt bà vào cuộc đời bí mật của thế giới khao
khát sống vẫn tồn tại dù không có bà. Một trong những bạn gái thường hay đến
thăm bà nhất là Lucrêxia đên Rêan đên Ôbixpô, một bà quý tộc theo nếp sống cũ,
là người bao giờ bà cũng giữ được một quan hệ bạn hữu tốt đẹp và kể từ sau ngày
Huvênan Ucbinô chết đến nay đã gần gũi với bà hơn cả. Lucrêxia đên Rêan đi lại
chậm chạp vì bệnh viêm khớp và rầu rĩ vì cuộc sống khó khăn của mình, đã mang
đến cho bà không phải
chỉ những giờ vui vẻ sống bên nhau mà còn mang cả những tin tức về việc thành
phố đang có những dự định xây những công trình lớn và chính điều đó đã khiến
cho Pheclnina Đaxa cảm thấy mình có ích ở chính bản thân chứ không ở bóng ma
phù hộ của người chồng. Tuy nhiên, không bao giờ như lúc ấy bà cảm thấy mình
giống ngài đến như vậy bởi vì người đời đã tước đi của bà cái tên thường gọi
của mình và họ bắt đầu gọi bà bằng cái tên bà quả phụ Ucbinô.
Bà cảm thấy đó là điều không thể chấp nhận được, nhưng trong lúc ngày giỗ
đầu của người chồng ngày càng đến gần, bà cảm thấy như mình đang bước vào một
khung cảnh râm mát, thoáng đãng, thanh lặng: một cánh rừng yên ả của điều không
thể tránh được. Lúc này và trong vài tháng sau đó bà vẫn chưa ý thức được đầy
đủ lắm việc những suy tư được viết ra giấy của Phlôrêntinô Arixa đã giúp bà
biết bao nhiêu trong việc khôi phục lại tinh thần thanh thản của bản thân.
Những suy tư ấy được vận dụng vào kinh nghiệm sống của bản thân bà chính là
điều đã cho phép bà hiểu được cuộc đời mình và với một tinh thần nghiêm túc bà
đang đón chờ những khó khăn vất vả của tuổi già sẽ tới. Cuộc hội ngộ trong lễ
misa tổ chức để tưởng niệm người chồng quá cố được một năm là một dịp may mắn
để báo cho Phlôrêntinô Arixa hiểu rằng nhờ những bức thư đầy khích lệ của ông,
bà đã sẵn sàng xóa bỏ quá khứ.

