Ôlivơ Tuýt - Chương 37
CHƯƠNG XXXVII
MỘT SỰ TƯƠNG PHẢN KHÔNG HIẾM THẤY
TRONG CHUYỆN HÔN NHÂN
Ông Bâmbân
ngồi trong phòng khách nhà tế bần, thẫn thờ đưa mắt nhìn chăm chú lò sưởi trống
không, và vì đang là mùa hạ nên nó không buông ra một ngọn lửa nào tươi vui mà
chỉ phản chiếu vài tia nắng yếu ớt rọi xuống bề mặt lạnh lẽo và láng bóng của
nó. Chốc chốc ông ngước mắt nhìn cái bẫy ruồi bằng giấy treo lơ lửng trên trần,
suy nghĩ trầm ngâm và nhìn những con ruồi dại dột bay quanh cái lưới lóe loẹt,
ông Bâmbân thốt ra một tiếng thở dài não nuột, trong khi một bóng mây còn u ám
hơn che phủ cả vẻ mặt ông. Ông Bâmbân đang trầm ngâm, có thể là mấy con ruồi
kia nhắc ông nhớ tới một quãng đường vất vả trong cuộc đời vừa qua của ông.
Vẻ mặt ủ
dột của ông Bâmbân không phải là điều duy nhất làm nảy sinh sự băn khoăn tò mò
trong lòng một người quan sát. Ngoài ra, còn có những biểu hiện khác nữa, và đó
là những biểu hiện gắn chặt với cá nhân ông ta, cho ta biết rằng một sự thay
đổi to lớn đã xảy ra trong tình hình công việc của ông. Cái áo ngoài viền đăng
ten, và chiếc mũ ba góc đâu cả rồi? Ông vẫn còn mặc quần ngắn đến đầu gối và
chân vẫn đi đôi tất vải đen, nhưng đó không phải là cái quần trước
đây. Cái áo ngoài có tà rộng, đúng thế - và về mặt này nó vẫn giống
như cái áo trước đây, nhưng lại khác rất xa. Cái mũ ba góc uy nghi
đã được thay thế bằng một chiếc mũ tròn khiêm tốn. Ông Bâmbân không còn là ông
tư tế nữa.
Trong đời
có sự thăng quan tiến chức mà ngoài những phần thưởng quan trọng hơn nó có thể
đem đến, nó còn có giá trị và phẩm giá đặc biệt nhờ cái áo ngoài và cái áo chẽn
gắn liền với nó. Một ông thống chế có bộ đồng phục của mình. Một ông giám mục
có cái tạp dề bằng lụa, một ông tư tế có cái mũ ba góc. Nếu tước bỏ cái tạp dề
của ông giám mục, tước bỏ cái mũ và đăng ten của ông tư tế thì họ là ai? Là
người mà thôi. Phẩm giá và thậm chí cả vẻ thiêng liêng nữa, đôi khi là chuyện
quần áo hơn là điều người ta vẫn tưởng.
Ông Bâmbân
đã lấy bà Korni và đã là ông chủ nhà tế bần. Một ông tư tế khác đã nhậm chức.
Ông này đã thừa hưởng cái mũ ba góc, cái áo ngoài viền đăng ten kim tuyến và
cây gậy: cả ba thứ. Ông Bâmbân thở dài nói:
“Đến mai là
được hai tháng rồi đấy! Mình tưởng như là một thế kỷ!”.
Những lời
nói này của ông Bâmbân lẽ ra phải nói lên rằng trong quãng thời gian ngắn ngủi
tám tuần lễ, ông đã sống một cuộc đời hạnh phúc; nhưng tiếng thở dài... tiếng
thở dài này có rất nhiều ý nghĩa. Ông Bâmbân vẫn mải mê suy nghĩ, nói:
“Mình đã tự
bán mình để đổi lấy sáu thìa trà, một cái gắp đường và một bình sữa, dăm ba thứ
bàn ghế bán lại và hai mươi bảng tiền mặt. Rẻ quá đi mất! Rẻ quá, rẻ kinh
khủng!”.
“Rẻ à?”.
Một giọng nói lanh lảnh vang lên bên tai ông Bâmbân. “Cái thứ ông, giá bao
nhiêu cũng là đắt. Tôi đã phải trả giá cho ông quá đắt đấy, điều đó có trời kia
biết!”.
Ông Bâmbân
quay đầu lại và bắt gặp bộ mặt của người bạn đời thú vị, đang nghe loáng thoáng
lời than phiền của ông. Bà đã hiểu mang máng, bèn đưa ra câu trả lời này.
“Bà Bâmbân,
này bà!”, ông Bâmbân nói, giọng nghiêm nghị đầy tình cảm.
“Cái gì
nào?”, bà vợ kêu lên.
“Bà hãy
chịu khó nhìn tôi xem”, ông Bâmbân nói, mắt đăm đăm nhìn vợ. (“Nếu bà ta chống
lại được cái nhìn này của mình”, ông Bâmbân tự nhủ, “thì bà ta có thể chống lại
được tất cả. Đấy là cách nhìn ta vẫn dùng để trị những đứa nghèo khổ. Nếu khoản
này cũng vẫn không ăn thua thì quyền lực của ta đi đời mất”.)
Người ta
băn khoăn không biết có phải vì cách nhíu đôi mắt hết sức hẹp là đủ để cho
những người nghèo - những người vì ăn uống không ra gì cho nên không mạnh dạn
cho lắm - hoảng sợ hay là vì bà Korni hoàn toàn không sợ những cái nhìn của
diều hâu. Sự thực là bà chủ chẳng hề hoảng sợ trước những cái nhìn cau có của
ông Bâmbân, mà trái lại, còn khinh nó ra mặt, thậm chí thốt lên một tiếng lanh
lảnh, nghe vang như một tiếng cười thực sự.
Nghe cái âm
thanh hết sức bất ngờ ấy, lúc đầu ông Bâmbân tỏ ra không tin, nhưng rồi đâm
hoảng. Sau đó ông quay trở lại tình trạng trước đây của mình, cứ trầm ngâm như
thế cho đến khi giọng nói của bà vợ nổi lên làm thức tỉnh sự chú ý của ông.
“Ông định
ngồi đây ngáy suốt ngày đấy à?”, bà Bâmbân bảo.
“Này bà,
tôi cứ ngồi đây chừng nào còn muốn ngồi”, ông Bâmbân đáp, “và mặc dầu tôi không
ngáy, tôi cũng cứ ngáy, cứ há hốc miệng, nhảy mũi, cười hay khóc, tùy theo ý
thích của tôi, đó là đặc quyền của tôi”.
“Đặc
quyền của ông à?”, bà Bâmbân chế nhạo, vẻ khinh bỉ ra mặt.
“Tôi nói
thế đấy bà ạ”, ông Bâmbân bảo. “Đặc quyền của người chồng là ra lệnh”.
“Thế đặc
quyền của người vợ là gì, nhân danh Chúa?”, con người thay thế bà vợ đã chết
của ông Bâmbân nói.
“Là vâng
lời, bà ạ!”, ông Bâmbân gào lên, “ông chồng bất hạnh trước đây của bà lẽ ra
phải dạy cho bà biết điều đó, và nếu thế thì có thể bây giờ ông ta còn sống.
Ông ta mà còn sống thì hay biết mấy, con người tội nghiệp”
Bà Bâmbân
thoáng nhìn đã biết ngay rằng giờ phút quyết định đã đến, rằng bên này hay bên
kia phải giành quyền thống trị một lần và mãi mãi, nên vừa nghe đến lời nhắc
bóng gió tới con người đã chết, liền buông mình rơi xuống một cái ghế, miệng
kêu lanh lảnh rằng ông Bâmbân là đồ súc vật tàn nhẫn và chảy nước mắt ròng
ròng.
Nhưng nước
mắt không phải là vật có thể lọt vào tim ông Bâmbân, tim ông không thấm nước.
Cũng giống như mũ da hải ly gặp nước mưa thì càng tốt thêm, thần kinh ông càng
vững chắc và khỏe khoắn khi thấy những giọt nước mắt biểu hiện sự yếu đuối, và
như vậy là im lặng thừa nhận quyền lực của mình, và ông Bâmbân thích thú và
khoái trá. Ông đưa mắt nhìn bà vợ quý hóa, và với giọng khuyến khích, yêu cầu
bà ta cứ kêu lên thật to, vì thầy thuốc cho rằng làm thế là có ích cho sức
khỏe. Ông Bâmbân nói:
“Nó làm nở
phổi, mặt mày tươi tỉnh, cặp mắt lanh lợi và thần kinh dịu bớt. Xin bà cứ kêu
toáng lên!”.
Sau khi đưa
ra lời bông đùa này, ông Bâmbân giật mũ ở mắc áo, đội lên đầu khá vội
vàng, lệch hẳn về một bên như người cảm thấy mình đã khẳng định được ưu thế của
mình một cách thích đáng, ông thọc hai tay vào túi đi về phía cửa, vẻ mặt hết
sức hài lòng và thích thú.
Bà Korni
vừa rồi đã thử dùng nước mắt, vì nước mắt đỡ phiền phức hơn là tấn công bằng
chân tay. Nhưng bây giờ bà hoàn toàn sẵn sàng sử dụng phương tiện thứ hai và
ông Bâmbân cũng phát hiện ngay ra điều đó.
Bằng chứng
đầu tiên của sự kiện này được biểu hiện bằng một âm thanh the thé, và ngay sau
đó của ông Bâmbân bắn sang góc đối diện của căn phòng. Công việc sơ bộ này làm
cho cái đầu của ông lộ trần và bà vợ khéo léo, một tay tóm chặt cổ ông, tay kia
nện tới tấp (đặc biệt nhanh nhẹn và dữ dội). Sau đấy, bà thay đổi thủ thuật đôi
chút bằng cách cào lên mặt và bứt tóc ông. Và lúc này, khi bà cho là đã trừng
trị tạm đủ cái hành động xúc phạm, bà đẩy ông ngồi phệt xuống ghế, may mắn sao
nằm vào vị trí thích hợp cho mục đích ấy, rồi thách ông lại lên tiếng nói đến
đặc quyền của ông, nếu như ông dám nói.
“Đứng
lên!”, bà Bâmbân bảo, giọng ra lệnh, “xéo ngay khỏi nơi này nếu không muốn đây
làm một cái gì tuyệt vọng”.
Ông Bâmbân
đứng lên, vẻ mặt rất thiểu não, băn khoăn, hoảng hốt không biết cái điều tuyệt
vọng ấy là cái gì. Nhặt chiếc mũ lên, ông nhìn về phía cửa.
“Định đi
à?”, bà Bâmbân hỏi.
“Cố nhiên,
thưa bà”, ông Bâmbân đáp, rồi bước nhanh hơn về phía cửa, “trước đây tôi không
định... bây giờ tôi đi, bà ạ! Bà hung tợn quá đến nỗi thực ra tôi...”.
Đúng lúc
ấy, bà Bâmbân vội bước lên phía trước, kéo tấm thảm vừa bị nhăn nhúm trong cuộc
vật lộn, ông Bâmbân liền lao ngay ra khỏi phòng, không nghĩ đến việc nói lại
trọn câu đang nói dở và để mặc bà cựu quả phụ Korni hoàn toàn làm chủ trận địa.
Ông Bâmbân
rõ ràng bị bất ngờ và bị đánh bại thảm hại. Ông vẫn ham thích hành hạ những
người khác, ông tỏ ra hết sức thích thú được thực hiện những điều tàn nhẫn lặt
vặt và do đó, không cần phải nói, rõ ràng ông là một người hèn nhát. Điều này
hoàn toàn không phải đã bôi nhọ tính cách của mình, vì nhiều nhân vật quan
trọng, được người ta rất tôn kính và thán phục, cũng là nạn nhân của những
khuyết điểm như vậy. Rõ ràng nhận xét này là để khen ngợi hơn là để chê trách
ông, và để bạn đọc có một khái niệm đúng đắn về tài năng của ông đối với công
việc.
Nhưng mức
độ bị lăng nhục của ông vẫn chưa hết. Sau khi đi quanh ngôi nhà một vòng, và
lần đầu tiên nghĩ rằng các đạo luật về những người nghèo thực quá gay gắt, và
những anh chồng bỏ rơi vợ phó mặc cho họ địa phận trông coi, theo công lý không
đáng bị trừng phạt gì hết, mà trái lại đáng được khen thưởng là những cá nhân
xứng đáng đã bị đau khổ nhiều, ông Bâmbân bước đến một căn phòng, ở đấy một vài
người đàn bà nghèo vẫn thường giặt thuê quần áo của địa phận. Lúc này ở đấy có
tiếng trò chuyện vang lên. Ông Bâmbân quay trở lại tất cả cái vẻ oai vệ trước
đây, cất giọng bảo:
“Hèm! Mấy
mụ này ít nhất phải tôn trọng đặc quyền của ta chứ! Nào, cái gì thế? Bọn khốn
nạn kia, chúng mày định làm gì mà ầm ĩ lên thế?”
Nói đoạn,
ông Bâmbân mở cửa và bước vào với cái vẻ rất hung dữ và tức bực, nhưng ngay lập
tức nó biến thành thái độ hết sức khúm núm và nhút nhát khi đôi mắt của ông
nhìn thấy hình dáng bà vợ mình.
“À bà”, ông
Bâmbân nói, “tôi không biết có bà ở đây”.
“Không biết
có bà ở đây?”, bà Bâmbân nhại lại. “Thế ông làm cái gì ở đây
nào?”.
“Tôi nghĩ
rằng họ nói chuyện quá nhiều nên không làm việc được bao nhiêu, bà ạ”, ông
Bâmbân đáp, mắt lơ đãng nhìn hai bà già cạnh cái chậu giặt đang thán phục cái
vẻ khiêm tốn của ông chủ nhà tế bần. Bà Bâmbân nói:
“Ông cho là họ chuyện trò quá
nhiều à? Ông có công việc gì ở đây?”
“À này
bà...”, ông Bâmbân dịu giọng nói.
“Ông có
công việc gì ở đây?”, bà Bâmbân lại hỏi.
“Đúng rồi,
bà là bà chủ ở đây”, ông Bâmbân đấu dịu, “nhưng tôi nghĩ có thể lúc này bà
không ở đây!”.
“Này ông
Bâmbân, tôi bảo cho mà biết”, bà vợ quật lại. “Chúng tôi không muốn ông can
thiệp vào đây. Ông cứ thích thọc mũi vào những công việc không phải là của
mình, vào những chuyện không liên quan gì đến mình làm cho mọi người trong nhà cười
khi ông quay mặt đi và làm cho trong bất cứ giờ nào trong ngày ông cứ như là
một thằng hề ấy. Ông xéo đi cho tôi nhờ!”
Ông Bâmbân
hết sức đau xót trước vẻ thích thú của hai bà cụ già đang cười khúc khích với
nhau hết sức vui vẻ, ngần ngừ một lát, nhưng bà Bâmbân không thể kiên nhẫn chấp
nhận một sự trì hoãn nào hết, vớ lấy một bát nước xà phòng, giơ tay chỉ về phía
cửa, ra lệnh cho ông đi ngay lập tức nếu không thì con người oai vệ của ông sẽ
đón lấy cả cái bát xà phòng này.
Ông Bâmbân
biết làm gì bây giờ? Ông thiểu não nhìn quanh rồi lủi bước, và khi ông bước đến
cửa, tiếng cười khúc khích của những người nghèo vang lên thành tiếng cười hể
hả, khoái trá, không thể nào đè nén được. Đến thế là hết. Ông bị lăng nhục
trước mặt họ. Ông đã mất hết phẩm giá và địa vị trước mặt ngay cả bọn nghèo
khổ. Từ cái địa vị cao quý và rực rỡ của ông tư tế, ông đã rơi xuống tình trạng
thấp hèn nhất của một thằng chồng bị vợ xỏ mũi.
“Tất cả xảy
ra chỉ trong hai tháng!”. Ông Bâmbân nói lòng đầy những ý nghĩ buồn bã. “Hai tháng!
Không đầy hai tháng trước đây mình không những là ông chủ của mình mà còn là
ông chủ của mọi người khác, trong phạm vi nhà tế bần địa phận... Thế mà bây
giờ...”.
Thực quá
tệ! Ông Bâmbân tát tai thằng bé mở cổng cho ông (vì trong lúc mơ mộng ông đã
bước ra đến cổng) rồi bước đi ngơ ngác, ra ngoài phố.
Ông lang
thang hết phố này sang phố khác cho đến khi việc lang thang này làm dịu bớt cơn
giận dữ bực tức đầu tiên, và lúc đó sự thay đổi trong cảm xúc làm cho ông thấy
khát. Ông đi ngang qua nhiều quán rượu, nhưng cuối cùng dừng lại ở một quán
cạnh con đường hẻm, phòng ăn ở đấy, khi ông vội vàng liếc nhìn qua bức mành,
vắng ngắt, chỉ có một phòng khách mà thôi. Lúc này trời mưa nặng hạt. Điều này
khiến ông quyết định bước vào. Ông Bâmbân bước vào và khi đi qua quầy hàng, ông
sai mang đến một cái gì để uống, ông bước vào căn phòng mà từ ngoài đường ông
đã nhìn thấy.
Người đã
ngồi ở đấy là một người cao lớn, da ngăm đen mình vận một áo khoác rộng. Hắn có
vẻ là một người lạ và cứ trông cái nhìn hơi mệt mỏi, cũng như bụi bám đầy quần
áo của hắn, người ta cũng đoán biết hắn đi từ khá xa đến đây. Hắn đưa mắt nhìn
trộm ông Bâmbân khi ông bước vào, nhưng hầu như không thèm gật đầu để trả lời
cái chào của ông.
Ông Bâmbân
có đủ phẩm giá bằng hai người, ngay dù cho con người lạ mặt tỏ ra trơ tráo hơn.
Cho nên ông lặng lẽ nhắp rượu gin pha nước và đọc báo vẻ hết
sức long trọng và oai vệ.
Nhưng tình
hình vẫn thế, như điều vẫn thường xảy ra khi người ta làm quen với nhau trong
những hoàn cảnh như vậy. Thỉnh thoảng ông Bâmbân lại cảm thấy không thể cưỡng
lại được, phải nhìn trộm người lạ mặt một cái, nhưng cứ mỗi lần như vậy, ông
lại quay mặt đi, vẻ hơi lúng túng vì nhận thấy lúc đó người lạ mặt cũng đang
nhìn trộm ông. Vẻ vụng về của ông Bâmbân lại tăng thêm do chỗ cái nhìn của
người lạ mặt vừa sắc lại vừa sáng, nhưng cau lại đầy hoài nghi ngờ vực, không
giống tất cả những người trước đây ông vẫn quan sát và làm người ta khó chịu.
Sau khi mắt hai người đã nhiều lần giao nhau như thế, người lạ mặt cất giọng
trầm trầm thô lỗ, phá vỡ sự yên lặng. Hắn nói:
“Có phải
lúc ông nhòm qua cửa sổ là lúc ông đang đi tìm tôi không?”.
“Tôi không
biết, trừ phi ông là ông...”.
Đến đây ông
Bâmbân ngừng phắt lại vì tò mò muốn biết tên người lạ mặt và trong tình trạng
nóng ruột ông nghĩ rằng người kia sẽ điền tên mình vào chỗ bỏ lửng.
“Tôi thấy
rằng ông không tìm”, người lạ mặt nói, khóe miệng mỉm một nụ cười châm biếm,
“nếu không ông đã biết tên tôi rồi. Ông không biết. Tôi khuyên ông đừng hỏi tên
tôi”.
“Anh bạn
trẻ, tôi không có ý định làm hại anh”, ông Bâmbân oai vệ nhận xét.
“Và ông
không hề làm hại tôi”, người lạ mặt nói.
Một phút im
lặng nữa kế tiếp theo sau cuộc đối thoại ngắn ngủi này, rồi người lạ mặt lại
phá vỡ sự yên lặng. Hắn nói:
“Hình như
tôi đã thấy ông trước đây thì phải? Lúc bấy giờ ông ăn mặc khác bây giờ, và tôi
chỉ gặp ông ở ngoài đường, nhưng tôi vẫn có thể nhận ra ông. Ông đã từng làm tư
tế ở đây, có phải không nào?”.
“Đúng thế”,
ông Bâmbân đáp, vẻ hơi ngạc nhiên. “Tư tế của địa phận”.
“Đúng lắm
rồi”, người kia gật gù đáp. “Tôi chỉ thấy ông với chức vụ như vậy. Bây giờ ông
làm gì?”.
“Chủ nhà tế
bần”, ông Bâmbân chậm rãi và oai vệ đáp, để kìm thái độ thân mật không phải chỗ
mà nếu không thế thì người lạ mặt có thể dùng. “Chủ nhà tế bần, anh bạn trẻ ạ”.
“Chắc hẳn
ông vẫn quan tâm tới quyền lợi của mình như trước chứ?”. Người kia lại hỏi,
nhìn chằm chằm vào đôi mắt của ông Bâmbân, trong khi ông ngước mắt sửng sốt
trước câu hỏi này. “Ông cứ việc trả lời thoải mái không phải ngần ngại gì hết.
Ông thấy chưa, tôi cũng biết ông khá đấy chứ!”.
“Tôi cho
rằng một con người có vợ”, ông Bâmbân lấy tay che mắt đáp, rồi nhìn người lạ
mặt từ đầu đến chân, vẻ lo lắng rõ rệt, “tôi cho rằng một người có vợ vẫn không
từ chối nhận một đồng penni lương thiện, chẳng khác gì một
người độc thân, khi anh ta có thể làm. Các viên chức của địa phận lương bổng
chẳng ra gì nên họ không từ chối tiền thưởng thêm nếu họ có thể có được điều đó
một cách lịch sự và thích hợp”.
Người lạ
mặt mỉm cười, rồi gật đầu đầy ý nghĩa, ý muốn nói rằng anh ta nhìn người không
lầm, sau đó rung chuông.
“Ông nhớ
rót đầy cốc này một lần nữa”, hắn nói và trao cốc đã cạn của ông Bâmbân cho chủ
quán. “Rượu phải mạnh và nóng. Ông thích thế chứ, có phải không nào?”.
“Đừng mạnh
quá”, ông Bâmbân khẽ dặng hắng đáp.
“Ông biết
cái đó là gì chứ? Chủ quán!” Người lạ mặt nói cộc lốc.
Người chủ
quán mỉm cười, biến mất, rồi lát sau lại xuất hiện với cốc rượu đầy và bốc hơi.
Vừa mới nhắp lần đầu nó đã làm cho ông Bâmbân chảy nước mắt.
“Bây giờ
ông hãy nghe tôi nói”, người lạ mặt bảo sau khi đã đóng cửa lớn và cửa sổ. “Tôi
đã đến đây hôm nay để tìm cho được ông, và do những điều may mắn mà đôi khi quỷ
sứ đem đến cho những người bạn của nó, ông lại bước vào đúng lúc tôi chỉ nghĩ
đến ông. Tôi muốn ông cho tôi biết một tin. Tôi không yêu cầu ông cho không tôi
cái tin ấy, dù là nó không có gì hết. Để bắt đầu, mời ông cầm cái này”.
Khi nói,
anh ta đưa ra hai xôvơren qua bên kia bàn cho ông bạn, rất cẩn
thận để cho ở ngoài đường không ng tiếng đồng tiền kêu lanh canh. Khi ông
Bâmbân đã nhìn đồng tiền rất cẩn thận để yên trí rằng nó là tiền thật, ông hết
sức đắc chí nhét tiền vào túi áo gilê. Người kia nói tiếp:
“Ông hãy
nhớ kỹ những kỷ niệm của mình nhé... mười hai năm trước đây, vào mùa đông...”.
“Lâu quá
rồi đấy”, ông Bâmbân nói, “được rồi, tôi sẵn sàng”.
“Địa điểm
xảy ra là nhà tế bần”.
“Tốt”.
“Và thời
gian là ban đêm”.
“Được
rồi!”.
“Còn địa
điểm là cái nơi bẩn thỉu ở đấy những mụ đàn bà khốn nạn cho ra đời và nhiều khi
vì thế mà chết... cho ra đời những đứa con kêu khóc ầm ĩ để bắt địa phận phải
nuôi, còn họ thì che giấu sự xấu hổ của mình, mẹ kiếp, ở dưới mồ”.
“Ý ông muốn
nói đến cái phòng đỡ đẻ chứ gì?”. ông Bâmbân nói, vẫn chưa hoàn toàn nắm được
cách miêu tả sôi nổi của người lạ mặt.
“Đúng rồi”,
người lạ mặt nói, “một thằng bé đã ra đời ở đấy!”.
“Mẹ kiếp, tất
cả những đồ quỷ con ấy”, người lạ mặt nói, “tôi nói đến một thằng bé mặt mày
xanh xao, có vẻ hiền lành, đã từng giúp việc ở đây cho một người đóng quan tài.
Tôi chỉ mong nó đóng quan tài của nó và nhét xác nó vào đấy. Sau đó, nó chạy
trốn lên Luân Đôn, hình như thế thì phải”.
“À ông nói
đến Ôlivơ chứ gì? Thằng bé Tuýt”, ông Bâmbân nói. “Cố nhiên tôi nhớ nó, chẳng
có thằng bé khốn nạn nào bướng bỉnh hơn nó”.
“Tôi không
muốn nghe nói đến nó đâu. Tôi đã nghe nói về nó đủ lắm rồi!”. Người lạ mặt ngắt
lời ông Bâmbân đang tràng giang đại hải nói về những tật xấu của thằng Ôlivơ
tội nghiệp. “Tôi muốn nói đến một người đàn bà, cái mụ phù thủy đã chăm sóc mẹ
nó. Mụ ấy đâu rồi?”.
“Mụ ấy đâu
rồi à?”. Ông Bâmbân nói, rượu gin pha nước đã làm cho ông ta
thành dí dỏm. “Nói thì cũng khó đấy. Ở đấy không có nơi đỡ đẻ, mụ ta còn biết
đi đâu, nên tôi cho rằng mụ ta không có công việc”.
“Ý ông muốn
nói gì thế?”, người lạ mặt nghiêm nghị hỏi.
“Tôi muốn
nói rằng mụ ta đã chết mùa đông năm ngoái”, ông Bâmbân đáp.
Người kia
nhìn chằm chằm vào mặt ông Bâmbân khi ông cho biết tin này; và mặc dầu sau đó
hắn không chuyển đôi mắt sang hướng khác, cái nhìn của hắn dần dần đâm ra hoang
mang ngơ ngác và hắn có vẻ như suy nghĩ mông lung. Trong chốc lát, khó mà biết
hắn cảm thấy an tâm hay thất vọng trước cái tin này, nhưng cuối cùng thở dễ
dàng hơn và quay mặt đi, hắn nói rằng điều đó không có gì quan trọng. Nói đoạn,
hắn đứng dậy như muốn ra đi.
Nhưng ông
Bâmbân cũng khá ranh mãnh, nhận thấy ngay rằng đây là một dịp để cho bà vợ thân
yêu của ông kiếm chác to vì bà ta nắm được một điều bí mật. Ông nhớ rất rõ
những điều xảy ra đêm bà cụ Xanli chết, và không phải vô cớ mà những sự cố của
hôm đó lại in sâu trong trí nhớ của ông, đó là hôm ông đã ngỏ ý muốn lấy bà
Korni. Và mặc dầu bà ta chưa bao giờ cho ông biết điều mà bà ta là người duy
nhất chứng kiến, nhưng những điều ông nghe được cũng đủ để ông biết rằng nó
liên quan đến một chuyện gì đó đã xảy ra trong việc phục vụ của bà cụ làm hộ lý
nhà tế bần khi bà ta chăm sóc người mẹ trẻ tuổi của Ôlivơ Tuýt. Ông vội vàng
hồi tưởng lại trường hợp này, và với vẻ bí mật, báo cho người lạ mặt biết rằng
một người đàn bà đã ở trong phòng cùng với bà cụ hom hem kia trước khi bà ta
chết ít lâu, và ông có lý do để tin rằng bà có thể cho biết đôi chút về câu
chuyện anh ta quan tâm.
“Tôi biết
tìm bà ta ở đâu đây?”. Người lạ mặt hỏi, sau khi đã vứt bỏ sự gìn giữ của mình
và rõ ràng biểu lộ rằng tin này làm nảy sinh tất cả những điều sợ hãi của hắn
(dù cho đó là những điều gì).
“Chỉ có
bằng cách nhờ tôi”, ông Bâmbân nói.
“Lúc nào?”,
người lạ mặt vội vàng kêu lên.
“Ngày mai”,
ông Bâmbân đáp.
“Chín giờ
tối”, người lạ mặt nói, rồi rút ra một mẩu giấy trên đó ghi địa chỉ một ngôi
nhà tối tăm giáp bờ sông, nét chữ biểu lộ sự lúng túng của anh ta. “Chín giờ
tối, đem bà ta đến gặp tôi. Tôi không cần dặn ông phải giữ bí mật. Đó là vì lợi
ích của ông”
Nói đoạn
hắn đi đến bên cửa, sau khi đã dừng lại để trả tiền rượu đã uống, hắn cộc lốc
bảo rằng hai người đi hai đường khác nhau, rồi nhắc lại cẩn thận giờ gặp tối
mai và bước thẳng không thèm chào gì hết.
Liếc nhìn
địa chỉ, ông viên chức địa phận nhận thấy nó không mang tên ai hết. Người lạ
mặt đi chưa xa, nên ông ta chạy theo để hỏi.
“Ông muốn
gì?”. Người lạ mặt quay ngoắt lại khi ông Bâmbân chạm vào bàn tay hắn. “Ông đi
theo tôi à?”.
“Tôi chỉ
muốn hỏi ông một câu”, ông Bâmbân nói và chỉ vào mẩu giấy. “Tôi hỏi tên ai mới
được chứ”.
“Mănxơ”,
người kia đáp và vội rảo bước đi nhanh.

