Lịch sử văn minh thế giới - Chương 07
Chương VII: SỰ XUẤT HIỆN VĂN MINH CÔNG NGHIỆP:
I. Điều kiện ra đời của nền văn minh công nghiệp:
1.1. Phong trào phát kiến địa lý thế kỉ XV-XVI:
1.1.1. Nguyên nhân:
Thế kỉ XV, kinh tế hàng hóa ở
Tây Âu đã khá phát triển, nhu cầu về thị trường tăng cao. Giai cấp tư sản Tây
Âu muốn mở rộng thị trường sang phương Đông, mơ ước tới những nguồn vàng bạc từ
phương Đông.
Tại Tây Âu, tầng lớp giàu có
cũng tăng lên do đó nhu cầu về các mặt hàng đặc sản, cao cấp có nguồn gốc từ
phương Đông như tiêu, quế, trầm hương, lụa tơ tằm, ngà voi... tăng vọt hẳn lên.
Trong khi đó, con đường tơ
lụa mà người phương Tây đã biết từ thời cổ đại lúc đó lại đang bị đế quốc Thổ
Nhĩ Kì theo đạo Hồi chiếm giữ, đi qua chỉ có mất mạng, vì vậy chỉ có cách tìm
một con đường đi mới trên biển.
Lúc đó người Tây Âu đã có
nhiều người tin vào giả thuyết Trái Đất hình cầu. Họ cũng đã đóng được những
con tàu buồm đáy nhọn, thành cao, có khả năng vượt đại dương, mỗi tàu lại đều
có la bàn và thước phương vị, điều đó đã tăng thêm sự quyết tâm cho những thủy thủ
dũng cảm.
1.1.2. Những cuộc phát kiến địa lý lớn thế kỉ XV - XVI:
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là
hai nước đi đầu trong phong trào phát kiến địa lý. Năm 1415 một trường hàng hải
do hoàng tử Henri của Bồ Đào Nha sáng lập và bảo trợ. Từ đó, hàng năm người Bồ
Đào Nha tổ chức những cuộc thám hiểm men theo bờ biển phía tây Châu Phi.
Năm 1486, đoàn thám hiểm Bồ
Đào Nha do B. Dias chỉ huy đã tới được cực nam Châu Phi, họ đặt tên mũi đất này
là mũi Hy Vọng.
Năm 1497, Vascô đơ Gama
(Vasco de Gama) đã cầm đầu đoàn thám hiểm Bồ Đào Nha tới được Ấn Độ.
Người Tây Ban Nha lại đi tìm
Ấn Độ theo hướng Mặt Trời lặn. Năm 1492, một đoàn thám hiểm do C. Côlông (C.
Colombus) chỉ huy đã tới được quần đảo miền trung Châu Mỹ, nhưng ông lại tưởng
là đã tới được Ấn Độ. Ông gọi những người thổ dân ở đây là Indians. Sau này,
một nhà hàng hải người Ý là Amerigo Vespucci mới phát hiện ra Ấn Độ của Côlông
không phải là Ấn Độ mà là một vùng đất hoàn toàn mới đối với người Châu Âu.
Amerigo đã viết một cuốn sách để chứng minh điều đó. Vùng đất mới đó sau này
mang tên America. Thật đáng tiếc cho C. Côlông.
Năm 1519 - 1522, F.
Magienlan đã cầm đầu đoàn thám hiểm Tây Ban Nha lần đầu tiên đi vòng quanh thế
giới. Một hạm đội gồm 5 tàu với 265 người đã vượt Đại Tây Dương tới bờ biển
phía đông của Nam Mỹ. Họ đã đi theo một eo biển hẹp gần cực nam Châu Mỹ và sang
được một đại dương mênh mông ở phía bên kia. Suốt quá trình vượt đại dương mênh
mông đó, đoàn tàu buồm của Magienlan hầu như không gặp một cơn bão đáng kể nào.
Ông đặt tên cho đại dương mới đó là Thái Bình Dương. F. Magienlan đã bỏ mạng ở
Philippin do trúng tên độc của thổ dân. Đoàn thám hiểm của ông cũng chỉ có mười
tám người sống sót trở về được tới quê hương. 247 người bỏ mạng trên tất cả các
vùng biển và các hòn đảo trên thế giới vì những nguyên nhân khác nhau. Nhưng
thành công lớn nhất mà chuyến đi đạt được là lần đầu tiên con người đã đi vòng
quanh thế giới.
1.1.3. Tác dụng của những cuộc phát kiến địa lý:
Các nhà thám hiểm bằng những
chuyến đi thực tế đầy dũng cảm của mình đã chứng minh cho giả thuyết Trái Đất
hình cầu. Họ còn cung cấp cho các nhà khoa học rất nhiều hiểu biết mới về địa
lý, thiên văn, hàng hải, sinh vật học...
Sau những cuộc phát kiến
này, một sự tiếp xúc giữa các nền văn hóa trên thế giới diễn ra do các cá nhân
có nguôn gốc văn hóa khác nhau như các giáo sĩ, nhà buôn, những người khai phá
vùng đất mới, những quân nhân...
Một làn sóng di chuyển dân
cư lớn trên thế giới trong thế kỉ XVI - XVIII với những dòng người Châu Âu di
chuyển sang Châu Mỹ, Châu Úc. Nhiều nô lệ da đen cũng bị cưỡng bức rời khỏi quê
hương xứ sở sang Châu Mỹ.
Hoạt động buôn bán trên thế
giới trở nên sôi nổi, nhiều công ty buôn bán tầm cỡ quốc tế được thành lập.
Những cuộc phát kiến địa lý
này cũng gây ra không ít hậu quả tiêu cực như nạn cướp bóc thuộc địa, buôn bán
nô lệ da đen và sau này là chế độ thực dân.
1.2. Thắng lợi của phong trào cách mạng tư sản (thế
kỉ XVI-XVIII):
Sự phát triển của thị trường
trên quy mô toàn thế giới đã tác động tới sự phát triển của nhiều quốc gia,
trước hết là các nước bên bờ Đại Tây Dương, sự thay đổi về mặt chế độ xã hội sẽ
diễn ra là điều tất yếu. Giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh về mặt kinh tế
nhưng họ chưa có địa vị chính trị tương xứng, chế độ chính trị đương thời ngày
càng cản trở cách làm ăn của họ. Thế kỉ XVI - XVIII đã diễn ra nhiều cuộc cách
mạng tư sản ở Tây Âu và Bắc Mỹ.
Bước chuyển đó đã được thực
hiện qua hàng loạt những cuộc cách mạng tư sản như: Cách mạng tư sản Hà Lan (1566-1572),
Cách mạng tư sản Anh (1640-1689), Chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ
(1775-1783), Cách mạng tư sản Pháp (1789-1799)...
Các cuộc biến động xã hội đó
tuy cách xa nhau về không gian, thời gian cũng cách xa nhau hàng thế kỉ nhưng
đều có những nét giống nhau là nhằm lật đổ chế độ lạc hậu đương thời, tạo điều
kiện cho kinh tế tư bản phát triển. Với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư
sản và sự ra đời của các quốc gia tư bản, công thương nghiệp đã có điều kiện
phát triển mạnh mẽ. Lịch sử nhân loại đang bước sang một giai đoạn văn minh
mới.
II. Cuộc cách mạng công nghiệp:
2.1. Những điều kiện dẫn tới cuộc Cách mạng công
nghiệp ở Anh:
2.1.1. Về tự nhiên:
Anh có nhiều mỏ than, sắt và
các mỏ này lại nằm gần nhau, điều đó rất thuận lợi về mặt kinh tế khi khởi đầu
cuộc cách mạng công nghiệp.
Về nguyên liệu, Anh có thuận
lợi là nguồn lông cừu trong nước và bông nhập từ Mỹ, đó là những nguyên liệu
cần thiết cho ngành dệt.
Các dòng sông ở Anh tuy
không dài nhưng sức chảy khá mạnh, đủ để chạy các máy vận hành bằng sức nước.
Hải cảng Anh thuận lợi để đưa hàng hóa đi khắp thế giới.
2.1.2. Về mặt xã hội:
Giai cấp quý tộc Anh sớm
tham gia vào việc kinh doanh và họ trở thành tầng lớp quý tộc mới, có quyền lợi
gắn liền với tư sản, có cách nhìn của tư sản.
Nhu cầu về lông cừu đã dẫn
tới phong trào đuổi những người nông dân ra khỏi ruộng đất để các nhà quý tộc
biến đất đai đó thành đồng cỏ nuôi cừu. Lực lượng nông dân bị dồn đuổi ra khỏi
ruộng đất đã cung cấp một lượng lớn lao động cho các công trường thủ công ở các
thành thị.
2.2. Những thàng tựu của Cách mạng công nghiệp:
Năm 1733 John Kay đã phát
minh ra “thoi bay”. Phát minh này đã làm người thợ dệt không phải lao thoi bằng
tay và năng suất lao động lại tăng gấp đôi.
Năm 1765 Giêm Hagrivơ (James
Hagreaves) đã chế được chiếc xa kéo sợi kéo được tám cọc sợi một lúc. Ông lấy
tên con mình là Gienny để đặt cho máy đó.
Năm 1769, Akrai (Richard
Arkrwight) đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng tay mà bằng súc vật, sau
này còn được kéo bằng sức nước.
Năm 1785, phát minh quan
trọng trong ngành dệt là máy dệt vải của linh mục Étmôn Cacrai (Edmund
Cartwright). Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới bốn mươi lần.
Phát minh trong ngành dệt
cũng tác động sang các ngành khác. Lúc bấy giờ, các nhà máy dệt đều phải đặt
gần sông để lợi dụng sức nước chảy, điều đó bất tiện rất nhiều mặt. Năm 1784,
Giêm Oát (James Watt) phụ tá thí nghiệm của một trường đại học đã phát minh ra
máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt bất cứ nơi nào. Không
những thế phát minh này còn có thể coi là mốc mở đầu quá trình cơ giới hoá.
Ngành luyện kim cũng có
những bước tiến lớn. Năm 1784 Henry Cort đã tìm ra cách luyện sắt “puddling”.
Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt có chất lượng hơn nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc. Năm 1885, Henry Bessemer đã
phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép. Phát minh này đã
đáp ứng được về yêu cầu cao về số lượng và chất lượng thép hồi đó.
Cách mạng cũng diễn ra trong
ngành giao thông vận tải. Năm 1804, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi
nước đã ra đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã lên tới 14 dặm/giờ. Thành công
này đã làm bùng nổ hệ thống đường sắt ở Châu Âu và Mỹ.
Năm 1807, Phơntơn (Robert
Fulton) đã chế ra tàu thủy chạy bằng hơi nước thay thế cho những mái chèo hay
những cánh buồm.
2.3. Những hệ quả của cách mạng công nghiệp:
Nhiều khu công nghiệp xuất
hiện, dân tập trung ra các thành thị ngày một nhiều dẫn tới quá trình đô thị hóa
thời cận đại. Nhiều đô thị với dân số trên một triệu người dần hình thành.
Giai cấp vô sản cũng ngày
càng phát triển về số lượng. Với điều kiện sống cực khổ lúc đó, mỗi ngày lại
phải làm việc từ mười hai đến mười lăm giờ nên những cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản đã sớm nổ ra.
Năm 1811 - 1812, ở Anh đã nổ
ra phong trào đập phá máy móc. Đó là một biểu hiện đấu tranh bộc phát.
Bãi công là một vũ khí đấu
tranh phổ biến của giai cấp vô sản. Nhiều cuộc bãi công cũng đã nổ ra. Ở Anh,
1836 - 1848 còn nổ ra phong trào Hiến chương.
Quyết liệt hơn, ở Pháp, Đức
còn nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Năm 1831 - 1834 tại Lion (Pháp) và Sơlêdin
(Đức) đã nổ ra những cuộc khởi nghĩa. Những cuộc đấu tranh này chứng tỏ giai
cấp vô sản đang trở thành lực lượng chính trị độc lập, đòi hỏi thay đổi sự
thống trị của giai cấp tư sản.
III. Những phát minh KHKT và học thuyết chính trị thời
cận đại:
3.1. Những phát minh khoa học tạo nên cuộc cách mạng
tri thức thế kỉ XVII - XVIII:
Trong hai thế kỉ XVII và
XVIII, khoa học đã đạt được những thành tựu lớn đặc biệt trong các ngành thiên
văn, vật lý, hóa học, y học.
Người phát triển và ủng hộ
tính đúng đắn của học thuyết Côpécnic là nhà bác học Đức, Giôhan Kêple (Johann
Kepler). Kêple đã đưa ra ba định luật về sự chuyển động của các thiên
thể. Định luật thứ nhất, ông khẳng định Trái Đất chuyển động quanh
Mặt Trời, không những thế ông còn xác định được quỹ đạo chuyển động của nó
không phải là đường tròn mà là hình elíp. Định luật thứ hai, Kêple
chứng minh vận tốc chuyển động của hành tinh tăng lên khi đang tới gần Mặt Trời
và giảm dần khi nó chuyển động xa Mặt Trời. Định luật thứ ba, ông
đã xác lập được công thức toán học giữa thời gian cần để hành tinh chuyển động
hết một vòng quanh Mặt Trời và khoảng cách giữa nó với Mặt Trời.
Galilêô Galilê (Galileo
Galilei), một nhà thiên văn học người Ý đã chế tạo ra kính thiên văn để quan
sát bầu trời. Galilê cũng là người ủng hộ nhiệt tình học thuyết của Côpecnic.
Ông còn là người trực tiếp làm thực nghiệm về sự rơi tự do trên tháp nghiêng
Piza... Có thể nói Galilê là người tiến hành hàng loạt thí nghiệm một cách có
hệ thống. Vì vậy, sau này người ta coi Galilê là cha đẻ của phương pháp thực
nghiệm trong khoa học.
Một nhà vật lý người Anh,
William Gilbert trong một quyển sách xuất bản năm 1600 đã giải thích Trái Đất
như một cục nam châm khổng lồ tạo ra một từ trường (nhưng không mạnh), điều đó
làm kim la bàn chỉ xoay về hướng Bắc. Ông còn nghiên cứu về hiện tượng tĩnh
điện. Ông thấy rằng, không chỉ có hổ phách khi bị chà xát mới hút các vật nhẹ
mà có những thứ khác như thủy tinh... cũng có tính chất như vậy. Ông gọi đó là
hiện tượng hổ phách - electric. (electric do từ electron theo tiếng Hy Lạp có
nghĩa là hổ phách).
Niutơn (I. Newton) là
một nhà bác học người Anh, ông được coi là nhà vật lý vĩ đại nhất của thế kỉ
XVIII. Đóng góp vĩ đại nhất của Niutơn nằm trong ba định luật mang tên ông mà
nổi bật là định luật Vạn vật hấp dẫn. Có thể coi Niutơn là hòn đá
tảng của nền vật lý cổ điển. Tác phẩm vĩ đại của Niutơn là Các nguyên lý
toán học của triết học tự nhiên
Về hóa học, Joseph Priestley
là một luật sư người Anh đã khám phá ra oxy.
Y học cũng có nhiều tiến bộ.
Adreas Vesalius, một nhà khoa học người Bỉ đã cho in cuốn sách Về cấu
trúc của cơ thể người. Để viết được cuốn sách này, ông đã phải nghiên cứu
rất nhiều tử thi. Ông phê phán những người chỉ biết vùi đầu vào những cuốn sách
của các nhà y học thời cổ đại.
Hacvây (William Harvey), một
nhà sinh lí người Anh đã nghiên cứu rất nhiều về hệ tuần hoàn của chim, cá,
ếch. Ông đã mô tả về hệ tuần hoàn máu trong cơ thể người qua quyển sách Tiến
hành giải phẫu đối với sự chuyển động của tim và máu trong cơ thể loài vật.
3.2. Những phát minh khoa học, kỹ thuật nổi bật trong
thế kỉ XIX:
Cuộc cách mạng tri thức
trong thế kỉ XVIII đã tạo điều kiện cho những tiến bộ ở những thế kỉ sau.
Đantơn (John Dalton), một
giáo viên người Anh cho rằng mọi vật chất đều cấu tạo bởi các nguyên tử. Nguyên
tử của các chất khác nhau thì có khối lượng khác nhau. Các nguyên tử hợp thành
từng đơn vị (bây giờ ta gọi là phân tử). Ông còn miêu tả chúng bằng những công
thức hóa học.
Một phát minh vĩ đại về mặt
hóa học là Bảng hệ thống tuần hoàn năm 1869 của Dmitri
Mendeleev, một nhà hóa học Nga. Ông đã xắp xếp các chất hóa học thành từng nhóm
theo khối lượng riêng, tính chất riêng của chúng. Ông còn dự đoán một số chất
mà loài người sẽ phát hiện ra để lấp vào chỗ trống trong Bảng tuần hoàn của
ông với một sự chính xác đáng kinh ngạc.
Năm 1800, Vonta (Ý) đã chế
tạo ra pin do tác động của hoạt động hóa học. Năm 1831, Michael Faraday (Anh)
đã chứng minh dòng điện sẽ xuất hiện khi ta di chuyển ống dây qua một từ
trường. Phát minh của Faraday đã tạo cơ sở cho việc chế tạo ra máy phát điện
sau này.
Năm 1860 Macxel (James Clerk
Maxwell), một nhà khoa học người Scotland đã đưa ra lí thuyết giải
thích ánh sáng bản chất cũng là một dạng của sóng điện từ mà trong khoảng mắt
ta nhìn thấy được. Tới năm 1885, Heinrich Hertz đã chứng minh được tốc độ khác
nhau của các loại sóng điện từ khác nhau. Sau này người ta lấy tên Hertz để đặt
cho đơn vị đo chu kì.
Năm 1895, một nhà khoa học
người Đức khác là Rơnghen (Wilhelm Roentgen) đã tạo ra một loại tia có thể đâm
xuyên qua các vật thể rắn, ánh sáng không thể xuyên qua được. Ông gọi đó là tia
X.
Năm 1898, hai ông
bà Pierre và Marie Curie (Pháp) đã tinh chế được chất radium và phát
hiện ra tính phóng xạ của nó.
Về mặt thông tin, phát minh
quan trọng phải kể tới là năm 1876 Alexander Graham Bell đã phát minh ra máy
điện thoại đầu tiên. 1879 Thomas A. Edison đã làm cho điện phát sáng để phục vụ
cuộc sống.
Về mặt kỹ thuật, đầu thế kỉ
XIX khí đốt và gas đã được người Anh và Pháp đưa vào phụcvụ cuộc sống. 1897 một
kĩ sư người Đức là R. Diesel đã chế ra một loại động cơ đốt trong không cần
bugi, sử dụng dầu cặn nhẹ. Động cơ Diesel chính là mang tên ông.
Về y học, phát minh quan
trọng của thế kỉ XIX phải kể tới Louis Pasteur (Pháp), ông đã đề ra cách ngừa
bệnh mới là sử dụng vaccin.
Về Sinh học, phát minh quan
trọng của thế kỉ XIX phải kể tới Charles Darwin. Năm 1859 Đacuyn đã cho ra đời
tác phẩm Nguồn gốc các loài qua con đường chọn lọc tự nhiên. Trong
tác phẩm đó ông trình bày ba ý tưởng chủ yếu: Đấu tranh sinh tồn, chọn lọc tự
nhiên, sự tồn tại của giống thích ứng với môi trường tốt nhất đã trở thành cơ
sở của học thuyết tiến hóa cổ điển.
Về di truyền học, Gregor
Mendel (Áo) đã đưa ra học thuyết chứng minh sự di truyền những phẩm chất của
thế hệ trước cho thế hệ sau qua những phân tử cực nhỏ, mà sau này được gọi là
gien.
Về tâm lí học, cuối thế kỉ
XIX có hai phát minh quan trọng là của Paplốp (Ivan Pavlov) và Frơt (Sigmund
Freud). Paplôp đã phát hiện ra phản xạ có điều kiện. Thử nghiệm của Paplôp đã
giải thích nhiều hành vi của con người không giải thích được bằng lý trí, thực
tế chỉ là sự phản ứng máy móc trước các kích thích đã trở thành tập tính. Còn
học thuyết của Frơt thì giải thích nhiều hành động của con người xuất phát từ
những nhu cầu, ước muốn tiềm ẩn. Frơt đã tạo ra ngành phân tâm học.
3.3. Những học thuyết chính trị thời cận đại:
3.3.1. Học thuyết về quyền tự do cá nhân và quốc gia
dân tộc thế kỉ XIX:
Những cuộc cách mạng tư sản
đã tạo điều kiện giải phóng con người khỏi những sự kiềm chế độc đoán của chế
độ phong kiến. Con người ngày càng có ý thức về quyền tự do của các cá nhân và
quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Trong điều kiện như vậy, những học thuyết về
quyền tự do cá nhân và quyền của các dân tộc đã được hình thành.
Về quyền tự do cá nhân phải
kể tới những tư tưởng của Giôn Min (John Stuart Mill - Anh) qua tác phẩm Luận
về tự do. Giôn Min đã nêu lên nguyên tắc, cá nhân có thể làm bất cứ điều gì
miễm là không hại tới người khác, không ảnh hưởng tới quyền tự do của người
khác. Trong thực tế cuộc sống, việc thực hiện nguyên tắc này còn phụ thuộc rất
nhiều vào trình độ dân trí và sự nghiêm minh của pháp luật.
Tôcơvin (Alexis de
Tocqueville - Pháp) thì viết tác phẩm Nền dân chủ Hoa Kì. Qua
tác phẩm này, ông cho rằng trào lưu dân chủ đang lên là không thể nào ngăn cản được.
Ông ca ngợi tinh thần dân chủ, sự thành công và sức mạnh vật chất của nước Mỹ,
nhưng ông cũng đồng thời phê phán tính cách thiếu tế nhị, ngạo mạn, thực dụng
của nền văn hóa Mỹ theo cách nhìn của người Pháp.
Về quyền của các dân tộc thì
lại có hai xu hướng trái ngược nhau. Xu hướng thứ nhất cho rằng mỗi dân tộc đều
có quyền chọn cách sống riêng cho dân tộc mình, không dân tộc nào khác có quyền
xâm phạm. Nhà ái quốc người Ý là Madini (Mazzini) đã để cả cuộc đời mình kiên
quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm này. Các cuộc đấu tranh của những nhà yêu nước
ở vùng Bancăng chống lại sự thống trị của ngoại bang cũng là một cách bảo vệ
quan điểm đó.
Xu hướng thứ hai thì ngược
lại, một số nhà lí luận của các dân tộc lớn thì cho là dân tộc mình siêu đẳng
hơn, có sứ mệnh phải giúp các dân tộc khác khai hóa văn minh, chỉ bảo cho các
dân tộc kém hơn cách sống hợp lí. Họ còn lợi dụng học thuyết Đacuyn về cạnh
tranh sinh tồn để áp dụng vào xã hội. Lí luận này được giới thực dân rất ủng hộ
vì nó chứng minh cho sự “cần thiết” của các cuộc chiến tranh xâm lược các vùng
đất chưa phát triển.
3.3.2. Những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội đầu thế kỉ
XIX:
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội
đã xuất hiện từ thế kỉ XVI với tác phẩm Utopia của Tomat Morơ (Thomas More -
Anh), tư tưởng này phản ánh ước mơ một xã hội công xã nông thôn thanh bình dựa
trên nền sản xuất nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp. Các nhà tư tưởng
CNXH của thế kỉ XIX đã thấy sự tất yếu của một xã hội công nghiệp. Từ đó họ nảy
sinh tư tưởng xây dựng một hạn chế bóc lột, hạn chế sự cách biệt giàu nghèo,
khắc phục những mặt tiêu cực của xã hội tư bản. Tiêu biểu cho các nhà xã hội
chủ nghĩa không tưởng của thế kỉ XIX là Xanh Ximông, Saclơ Phuriê và Rôbơt Ôen.
Xanh Ximông (Saint Simon
1760-1825 - Pháp) nhận thấy mâu thuẫn giữa các nhà một bên là các nhà tư sản
giàu có và một bên là những người làm thuê rất nghèo khổ. Ông chủ trương xây
dựng một xã hội mới do “những nhà công nghiệp sáng suốt” điều hành, trong đó
mọi người đều lao động theo kế hoạch và được hưởng thụ bình đẳng. Để xây dựng
một xã hội như vậy, ông chủ trương thuyết phục các nhà tư bản chứ không theo
con đường bạo lực cách mạng.
Saclơ Phuriê (Charles
Fourrier 1772-1837 - Pháp) cũng phê phán sự bất công của xã hội tư bản, ông
vạch rõ “sự nghèo khổ sinh ra từ bản thân sự thừa thãi”. Ông vạch ra dự án xây
dựng các công xã (Phalăng - Falange) trong đó mọi người đều lao động, coi lao
động là nguồn vui. Trong các công xã có sự kết hợp giữa công nghiệp với nông
nghiệp. Sự hưởng thụ sản phẩm được chia theo tỉ lệ: 5/12 cho lao động, 4/12 cho
tài năng, 3/12 cho những người góp vốn xây dựng Falange. Ông kêu gọi những
người giàu có góp vốn xây dựng Falange, nhưng lời kêu gọi của ông chẳng được ai
đáp lại.
Rôbơt Ôen (Robert Owen
1771-1858 - Anh) vốn xuất thân từ một người làm thuê, biết làm ăn và trở thành
ông chủ. Ông đã bỏ vốn của mình ra làm gương, xây dựng một cơ sở làm ăn. Trong
cơ sở của Ôen tài sản được coi là của chung, mọi người đều cùng làm việc mỗi
ngày là mười giờ, có nhà trẻ cho công nhân nữ gửi con nhỏ, lợi nhuận làm ra
được thì chia công bằng... Việc làm đó của ông sau này đã bị thất bại vì sản
phẩm của xưởng ông làm ra không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Ông bỏ sang Mỹ
thí nghiệm ý tưởng của mình lần nữa nhưng cũng thất bại và cuối cùng phải bỏ về
Anh trong cảnh nghèo khó.
Học thuyết của các nhà chủ
nghĩa xã hội không tưởng đầy tính nhân đạo nhưng đều thất bại khi đem ra thi
hành. Nói như chúng ta ngày nay là thiếu tính khả thi. Tuy vậy, những tư tưởng
của họ đã ảnh hưởng quan trọng tới sự ra đời học thuyết về chủ nghĩa xã hội
khoa học sau này do C. Mác xây dựng.
3.3.3. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học:
C. Mác (Kark Marx -
1818-1883) và F. Enghen (Friedrich Engels - 1820-1895) đã xây dựng về học
thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học qua tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản xuất bản tháng 2 năm 1848.
Trong Tuyên ngôn C.
Mác và F. Enghen đã chứng minh lịch sử loài người là lịch sử của sự phát triển
của các hình thái kinh tế xã hội nối tiếp thay thế nhau, xã hội sau sẽ tạo ra
năng suất lao động cao hơn xã hội trước. Đấu tranh giai cấp là động lực phát
triển trong xã hội có giai cấp. Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản sẽ dẫn
tới sự xuất hiện một xã hội mới công bằng hơn, tiến bộ hơn. Giai cấp công nhân,
tổ chức ra chính đảng của mình lãnh đạo một cuộc cách mạng vô sản, tiến lên xây
dựng chính quyền của mình và thiết lập mối quan hệ giữa công nhân các nước theo
tinh thần quốc tế vô sản.
Tới đầu thế kỉ XX, V.I.Lênin
(Vladimir Ilich Lenine - Nga) đã phát triển thêm lí luận của Mác - Enghen và
vận dụng lí luận đó vào hoàn cảnh nước Nga, chỉ đạo phong trào đấu tranh ở Nga
đi tới thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
IV. Những thành tựu về văn học nghệ thuật:
4.1. Về văn học:
Những biến động của lịch sử
thời cận đại đã được văn học Châu Âu phản ánh một cách sinh động, đặc biệt là
văn học Pháp.
Sau thất bại của Napôlêông
và sự phục hồi tạm thời của các thế lực bảo hoàng, ở Pháp đã xuất hiện một dòng
văn học lãng mạn thể hiện sự nuối tiếc một thời vàng son đã qua của giới quý
tộc. Đại biểu cho trào lưu này là Satôbriăng (Chateabriand - 1768-1848).
Víchto Huygô (Vitor Hugo –
1802-1885) là một nhà văn tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tiến bộ. Ông thể hiện
sự thông cảm với những người nghèo khổ qua các tác phẩm Những người khốn
khổ, Nhà thờ Đức Bà Pari. Qua các tác phẩm, Víchto Huygô thể hiện lòng khát
khao muốn vươn tới một xã hội tốt đẹp, công bằng và chan chứa tình nhân đạo.
Xã hội tư bản khắc nghiệt,
tàn bạo cũng đã được phản ánh qua dòng văn học hiện thực mà tiêu biểu là Bandăc
(Honoré de Balzac - 1799-1850). Những tác phẩm tiêu biểu của ông như Ơgiêni
Granđê, Miếng da lừa... và nhiều tác phẩm khác. Những tác phẩm đó của
Bandắc đã được tập hợp trong bộ Tấn trò đời. Những tác phẩm như Đỏ và Đen của
Xtăngđan (Stendhal - 1783-1842), Viên mỡ bò của Guy de
Môpatsăng (Guy de Maupassant) cũng phản ánh xã hội tư bản đầy bất công, tàn
bạo.
Văn học Nga thế kỉ XIX cũng
có những đóng góp quan trọng với các tác phẩm như Chiến tranh và hòa bình của
Liep Tônxtôi. Những nhà văn tên tuổi khác của nền văn học Nga thế kỉ XIX phải kể
tới là Tuôcghênhêep, Gôgôn, Đôxtôiepxki, Biêlixki...
4.2. Về nghệ thuật:
Âm nhạc thời cận đại thế kỉ
XVIII với sự đóng góp của những nhạc sĩ lớn như Bách, Môza, thì đế thế kỉ XIX
có sự đóng góp vĩ đại của Bêtôven (Ludwig van Beethoven - Đức), Sôpanh (Fréderic
Chopin - Ba Lan)...
Hội họa theo xu hướng lãng
mạn thường đi tìm những phương trời xa lạ. Danh họa Pháp Đơlacroa (Delacroix)
thường vẽ những kị sĩ Arập, những cuộc đi săn. Đến cuối thế kỉ XIX, danh họa người
Tây Ban Nha là Goya đã vẽ những cảnh tàn khốc trong cuộc chiến tranh chống
Napôlêông.
Điêu khắc thế kỉ XIX không
để lại nhiều tác phẩm như thời Phục hưng. Nhà điêu khắc Pháp Bactônđi
(Bartholdi) đã hoàn thành bức tượng Nữ thần tự do để chính phủ Pháp gửi tặng
nước Mỹ. (Một phiên bản nhỏ, cao gấp 1,5 lần người thật của bức tượng này cũng
được đặt tại Hà Nội ở một công viên mà người Hà Nội gọi là Vườn hoa Bà
Đầm, tiếc rằng phiên bản này ngày nay không còn nữa. Chúng ta chỉ còn thấy
dấu vết qua đồng năm mươi cen tiền Đông Dương xưa kia). Khải hoàn môn ở Pari và
nhiều dinh thự ở Pari cũng còn giữ lại được một số tác phẩm điêu khắc giá trị
của thế kỉ XIX.
Kiến trúc Âu - Mỹ thế kỉ XIX
rất đa dạng, thể hiện một sự giao lưu văn hóa rộng mở. Nét mới về kiến trúc
giai đoạn này là quan điểm hiện thực xâm nhập vào kiến trúc qua các vật liệu
mới như thép, bê tông, kính dày. Một nhà kiến trúc Mỹ là Lui Sulivan (Louis
Sulivan) đã đưa vào các công trình kiến trúc tư tưởng công năng. Theo ông, các
công trình kiến trúc phải được thiết kế phù hợp với chức năng của chúng. Chẳng
hạn một ngân hàng hiện đại không thể giống một đền đài tôn giáo, một thương xá
không thể giống một lâu đài trung cổ. Đặc biệt là kiến trúc hành chính thời kì
này thể hiện một phong cách rõ rệt mà tiêu biểu là tòa nhà Quốc hội Mỹ
(1793-1851) và tòa nhà Quốc hội Anh (1840-1865).
Thời cận đại, đặc biệt là
giai đoạn thế kỉ XIX đã đánh dấu bước ngoặt căn bản chuyển từ lao động bằng tay
sang lao động bằng máy. Loài người đã chuyển từ nền văn minh nông nghiệp sang
nền văn minh công nghiệp. Nền văn minh công nghiệp đã tạo ra cách nhìn mới, kéo
theo những biến đổi lớn về chính trị, văn hoá, xã hội. Loài người bước vào một
giai đoạn mới của văn minh nhân loại.

