Lịch sử văn minh thế giới - Chương 08 (Hết)

Chương VIII: VĂN MINH THẾ GIỚI THẾ KỶ XX:

I. Văn minh thế giới nửa đầu thế kỷ XX:

1. Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Liên Xô:

Đầu thế kỉ XX, nước Nga là
nơi chứa đựng những mâu thuẫn gay gắt của thế giới: mâu thuẫn giữa tư sản với
vô sản, giữa địa chủ với nông dân, giữa chế độ của đế quốc Nga hoàng với các
dân tộc thuộc địa, giữa đế quốc Nga với các đế quốc khác. Chiến tranh thế giới
thứ nhất đã đẩy các mâu thuẫn đó tới cực điểm.

Tháng 2/1917 đã nổ ra cuộc
cách mạng dân chủ tư sản ở Nga. Cuộc cách mạng tháng 2/1917 đã lật đổ chế độ
chuyên chế của Nga hoàng, nước Nga trở thành một nước cộng hòa tư sản. Thắng
lợi này có ý nghĩa rất to lớn đối với lịch sử nước Nga.

Tháng 4/1917 Lênin từ nước
ngoài trở về đã viết bản Luận cương tháng Tư. Bản Luận cương
tháng Tư
đã vạch ra con đường đưa nước Nga từ một chế độ cộng hòa tư
sản tiến tới chế độ Xô Viết.

Đảng Bônsêvích và V. I.
Lênin đã lãnh đạo giai cấp công nhân Nga cùng nhân dân tiến hành cuộc Cách mạng
tháng Mười (theo lịch chung toàn thế giới là 7/11/1917). Cuộc cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917 đã mở ra một kỉ nguyên mới cho nước Nga mà còn ảnh hưởng sâu
đậm tới lịch sử thế giới.

Ngay trong đêm thắng lợi đầu
tiên của Cách mạng, chính quyền Xô Viết do Lênin đứng đầu đã ban hành Sắc
luật về hòa bình và Sắc luật về ruộng đất.
Tới tháng 3/1918 chính
quyền Xô Viết đã được thiết lập trong cả nước.

Chính quyền Xô Viết đã ban
hành một loạt những sắc lệnh quan trọng khác như, xóa bỏ sự phân biệt đẳng cấp
và mọi tước vị phong kiến; tuyên bố quyền bình đẳng nam nữ; Tuyên ngôn về
quyền của các dân tộc
; tuyên bố quyền tự do tín ngưỡng.

Từ năm 1917 đến 1920, Nước
Nga Xô Viết đã phải chống lại nạn ngoại xâm và nội phản. Sau khi đẩy lùi nạn
ngoại xâm và nội phản, ngày 30/12/1922 Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô
Viết đã được thành lập (gọi tắt là Liên Xô). Liên Xô lúc đầu gồm có bốn nước
cộng hòa Liên bang (Nga, Ucraina, Bêlarutsia và Da Capcadơ), mười ba nước cộng
hòa tự trị và sáu tỉnh tự trị. Sau khoảng nửa thế kỉ phát triển, tới giữa thế
kỉ XX Liên Xô đã gồm mười lăm nước cộng hòa liên bang và hai mươi nước cộng hòa
tự trị, tám tỉnh tự trị và mười khu dân tộc.

1.2. Những thành tựu chủ yếu trong công cuộc xây dựng
CNXH ở Liên Xô:

1.2.1: Về kinh tế và xã hội:

Từ 1921 đến 1941, trong hoàn
cảnh vô cùng khó khăn, bị bao vây kinh tế, cô lập về chính trị nhưng nhân dân
Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Từ 1921 - 1925 thực hiện
thắng lợi chính sách Kinh tế mới, về cơ bản đã hoàn thành việc khôi
phục kinh tế. Tiếp đó, giai đoạn 1926 - 1928 Liên Xô bước đầu xây dựng cơ sở
cho nền công nghiệp nặng. Tới năm 1928, công nghiệp Liên Xô đã chiếm tỉ trọng
54,5 % tổng sản lượng kinh tế. Kế hoạch điện khí hóa cũng đã hoàn thành.

Trước cách mạng Liên Xô vẫn
là một nước nông nghiệp, tới năm 1933 công nghiệp đã chiếm 70 % nền kinh tế.
Tới năm 1937, Liên Xô đã trở thành cường quốc công nghiệp của Châu Âu và đứng
thứ hai thế giới (sau Mỹ).

Sau chiến tranh thế giới II,
Liên Xô nhanh chóng khắc phục khó khăn để khôi phục kinh tế. Tới năm 1975, sản
lượng công nghiệp của Liên Xô đã chiếm 20 % công nghiệp thế giới. (Bằng 80 %
sản lượng công nghiệp Mỹ).

Về nông nghiệp, năm 1981 sản
lượng ngũ cốc Liên Xô là 189 triệu tấn, đứng hàng thứ ba thế giới, sau Mỹ và
Trung Quốc.

Về cơ cấu xã hội cũng có
thay đổi lớn, tới năm 1977 công nhân chiếm 61 % dân số. Đội ngũ trí thức cũng
lên tới ba mươi bốn triệu người, tăng mười một lần so với năm 1926.

1.2.2. Về văn hoá, khoa học:

Việc xóa nạn mù chữ đã căn
bản hoàn thành trước chiến tranh thế giới II. Năm 1980, Liên Xô đã có năm triệu
sinh viên, gấp bốn mươi lần số sinh viên của nước Nga thời Nga hoàng.

Đội ngũ các nhà khoa học
cũng phát triển nhanh, tới giữa những năm 70 Liên Xô đã có 1,3 triệu nhà khoa
học, chiếm ¼ các nhà khoa học thế giới. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công
bom nguyên tử, điều đó đã phá vỡ thế độc quyền về nguyên tử của Mỹ. Năm 1954,
xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới. 1957 Liên Xô phóng con
tàu vũ trụ đầu tiên (đi trươc Mỹ 9 tháng) và 1961 đưa con người bay vào vũ trụ
trở về an toàn (trước cả Mỹ).

Cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, văn hóa nghệ thuật cũng được chính phủ Liên Xô quan tâm. Tên
tuổi các nhà văn và nghệ sĩ lớn của Liên Xô được thế giới biết tới như M.
Goocki, M. Sôlôkhốp, A. Tônxtôi, D. Sôxtacôvích... đã chứng minh điều đó.

1.3. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật nửa đầu thế
kỉ XX:

Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX, một cuộc cách mạng thực sự đã diễn ra trong ngành vật lý đó là ba phát minh
quan trọng: Điện tử (1896), Tính phóng xạ (1898) và Thuyết tương đối.

Giữa thế kỉ XIX, con người
vẫn còn quan niệm nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất không thể phân
chia được nữa. Nhưng với những phát hiện về tia X, tính phóng xạ, làm người ta
phải có những cách nhìn khác. Năm 1911, một nhà bác học người Anh là E. Rơdơpho
đã tiến hành thí nghiệm bắn phá nguyên tử. Thí nghiệm của E. Rơdơpho đã chứng
minh nguyên tử không phải đặc mà có rất nhiều khoảng trống. Từ kết quả của thí
nghiệm đó, học trò của E. Rơdơpho là Ninxơ Bo đã đưa ra lí thuyết về mẫu hành
tinh nguyên tử. Theo Ninxơ Bo, các nguyên tử có một nhân ở giữa, xung quanh có
các điện tử chuyển động theo một quĩ đạo nhất định như các hành tinh chuyển
động quanh Mặt Trời. Một sự tương đồng giữa thế giới vi mô với thế giới vĩ mô.

Năm 1932, con người còn phát
hiện ra hạt nhân nguyên tử cũng chưa phải là thành phần nhỏ nhất của vật chất.
Hạt nhân nguyên tử còn gồm có prôtôn và nơtrôn. Năm 1934, Phêđơric và Iren
Quyri (con rể và con gái của nhà bác học Mari Quyri) đã phát hiện ra hiện tượng
phóng xạ nhân tạo và chất đồng vị phóng xạ.

Năm 1938 - 1939, các nhà bác
học Ôttô Han, Lida Metne (Đức), Enricô Phecmi (Ialia) và Giôliô Quyri (Pháp) đã
cùng phát hiện ra hiện tượng phản ứng dây chuyền phá vỡ hạt nhân urani. Từ đó,
năm 1942 Enricô Phecmi đã xây dựng được lò phản ứng hạt nhân đầu tiên trên thế
giới ngay dưới khán đài sân vận động của trường đại học Sicagô.

Thuyết tương đối của Anbe
Anhxtanh đã làm một cuộc cách mạng thực sự của vật lý hiện đại. Khi mới được
công bố, nhiều người cho đây là một lí thuyết điên khùng. Ngay cả một số nhà
bác học lớn tuổi thời đó cũng không hiểu nổi lí thuyết của Anhxtanh. Nhưng với
thời gian, nhiều sự kiện thực nghiệm càng ngày càng chứng minh lí thuyết của
Anhxtanh là đúng đắn. Lí thuyết này không thể thiếu trong nhiều lĩnh vực như vật
lý hạt nhân, kỹ thuật máy gia tốc, vật lý thiên văn hiện đại. Có thể nói rất
nhiều các phát minh lớn về vật lý của thế kỉ XX đều có liên quan đến lí thuyết
của Anhxtanh.

Trong lĩnh vực hóa học, sinh
học... cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Những thành tựu về khoa học
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã đưa và sử dụng như điện tín, điện thoại, ra
đa, máy bay, phim có âm thanh...

II. Chiến tranh thế giới và sự phá hoại văn minh nhân
loại:

Từ thời cổ đại tới nay, con
người đã trải qua hàng ngàn cuộc chiến tranh. Một nhà khoa học người Thụy Sĩ là
Giăng Giắc Baben còn dùng máy tính điện tử và đưa ra con số là 14513 cuộc chiến
tranh lớn nhỏ với số người thiệt mạng là 3,6 tỉ người. Tất nhiên đây không phải
là con số chính xác nhưng cũng làm chúng ta khủng khiếp.

Chiến tranh là một hiện
tượng thảm họa phức tạp. Có cuộc chiến vì nguyên nhân kinh tế, có cuộc chiến
lại vì nguyên nhân tôn giáo hay xung đột sắc tộc. Có những cuộc chiến nhằm
tranh cướp nhau quyền lợi giữa những cường quốc, có những cuộc chiến để bảo vệ
quyền bình đẳng của một dân tộc nhỏ chống lại sự áp bức của các cường quốc lợi
dụng thế mạnh của mình để đi ăn cướp. Thực tế đó cho ta thấy cần phân biệt hai
loại chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa. Cuộc chiến tranh của dân tộc
Việt Nam ba mươi năm qua (1945 - 1975) để bảo vệ độc lập của dân tộc
mình là một cuộc chiến tranh chính nghĩa.

Sức mạnh của khoa học kỹ
thuật của thế kỉ XX nếu được sự dụng phục vụ loài người thì nó sẽ đem lại những
kết quả vĩ đại, nhưng nếu đem sức mạnh đó để phục vụ chiến tranh nó cũng gây ra
những hậu quả khủng khiếp. Sang thế kỉ XX, sự giao lưu ngày càng mang tính chất
toàn cầu thì chiến tranh nếu xảy ra cũng mang tính chất toàn cầu. Loài người đã
phải trải qua tai họa của hai cuộc chiến tranh thế giới với sự tàn phá khủng
khiếp.

Trong chiến tranh thế giới
thứ nhất: tám triệu binh sĩ bị chết, mười lăm triệu người bị thương nặng, trong
đó bảy triệu người bị tàn phế suốt đời, đa số những người này lại đang ở độ
tuổi thanh xuân, lực lượng lao động chính. Chiến tranh còn gây ra nạn đói, bệnh
tật và dân thường cũng phải chịu thảm họa. Nếu kể cả dân thường thì chiến tranh
thế giới thứ nhất đã gây thương vong cho khoảng ba mươi ba triệu người kể cả
binh lính và dân thường. Thiệt hại về vật chất khoảng 260 tỉ USD. Chi phí quân
sự trực tiếp của các nước tham chiến khoảng 208 tỉ USD. Mức tăng trưởng của
Châu Âu bị chiến tranh thế giới thứ nhất làm chậm lại khoảng tám năm.

Tác hại của chiến tranh thế
giới thứ hai còn lớn hơn nhiều. Hơn sáu mươi triệu người chết trong đó: Liên Xô
hai bảy triệu, Trung Quốc mười ba triệu rưỡi, Ba Lan sáu triệu, Đức bảy triệu
ba, Nhật hai triệu mốt, Nam Tư một triệu sáu... sáu triệu người Do Thái bị bọn
phát xít Đức tàn sát.

Về vật chất, các nước tham
chiến đã chi khoảng 1384 tỉ USD. Thiệt hại do chiến tranh tàn phá toàn thế giới
thì không tính nổi. Riêng Liên Xô 1710 thành phố, 70000 làng, 32000 nhà máy bị
tàn phá hoặc thiêu huỷ. Ở Nhật, bảy mươi thành phố bị không quân Mỹ oanh kích
trong đó có hai thành phố bị ném bom nguyên tử. Thiệt hại do bọn phát xít Đức
gây ra ở Châu Âu không thống kê nổi. Những thiệt hại về văn hoá, văn minh cũng
rất nặng nề. Quân đội của bọn phát xít Hitle giết người bằng những hình thức
man rợ.

Sau hai cuộc chiến tranh thế
giới, loài người lại phải trải qua hơn bốn mươi năm căng thẳng của thời kì
“chiến tranh lạnh” với những cuộc chạy đua vũ trang cực kì tốn kém. Trong và
sau thời kì “chiến tranh lạnh”, những cuộc chiến tranh khu vực như chiến tranh
Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Trung Đông, chiến tranh vùng
Vịnh... vẫn nổ ra. Đấy là chưa kể những cuộc chiến tranh sắc tộc, chiến tranh
tôn giáo ở Châu Phi.

“Chiến tranh lạnh” chấm dứt
đã hơn mười năm nhưng ở nhiều nơi vẫn chưa ngưng tiếng súng. An ninh của toàn
nhân loại vẫn còn luôn bị đe dọa bởi một cuộc chiến tranh với đủ loại vũ khí
giết người hàng loạt. Bảo vệ hòa bình, bảo vệ nền văn minh vẫn luôn là mục tiêu
chung của nhân dân toàn thế giới.

III. Văn minh thế giới nửa sau thế kỷ XX:

3.1. Nguồn gốc của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
lần hai:

Từ những năm bốn mươi của
thế kỉ XX, loài người đang bước vào một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần hai.
Cuộc cách mạng này tới những năm 70 của thế kỉ XX được gọi là cuộc cách mạng
khoa học công nghệ diễn ra do những lí do sau:

Do những nhu cầu về vật chất
và tinh thần của con người càng ngày càng tăng cao, dân số tăng nhanh, trong
khi đó các nguồn tài nguyên thiên nhiên cứ vơi cạn dần, điều đó đòi hỏi con
người phải tìm ra các nguồn năng lượng mới, các loại vật liệu mới.

Trong chiến tranh thế giới
II, các bên tham chiến đều tìm cách tăng tính cơ động của binh lính, tăng khả
năng theo dõi đối phương... điều đó cũng góp phần thúc đẩy khoa học kỹ thuật
phát triển.

Những thành tựu của khoa học
kỹ thuật thế kỉ XIX cũng tạo tiền đề cho cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần
này.

Nếu cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật thế kỉ XVIII diễn ra chủ yếu với nội dung cơ khí hoá, thì cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật lần này diễn ra trong mọi ngành khoa học cơ bản và trong mọi
lĩnh vực của cuộc sống.

Đặc điểm của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật lần này là có sự gắn bó chặt chẽ giữa khoa học với kỹ thuật.
Khoa học đi trước mở đường cho sản xuất. Khoảng cách từ phát minh khoa học đến việc
áp dụng phát minh đó vào sản xuất để thu hiệu quả kinh tế ngày càng rút ngắn.

Từ những năm 70 của thế kỉ
XX, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần này được gọi là cuộc cách mạng công
nghệ. Công nghệ bao hàm cả kỹ thuật, các kĩ năng quản lí, tổ chức, khả năng
tiếp cận thông tin, khả năng tài chính, khả năng tiếp thị...

Người ta thống nhất công
nghệ về một lĩnh vực nào đó thể hiện qua bốn nội dung sau:

• Phần thiết bị (cơ sở hạ
tầng, thiết bị máy móc...).

• Phần con người (đội ngũ
nhân lực để vận hành, điều khiển, quản lí thiết bị...).

• Phần thông tin (khả năng
thu thập, xử lí thông tin).

• Phần quản lí, tổ chức (các
hoạt động tạo lập mạng lưới, tuyển dụng nhân lực, trả lương...).

3.2. Những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ
nửa sau thế kỉ XX:

Cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đã đạt được những thành tựu kì diệu trong mọi ngành khoa học cơ bản và
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, rõ nét nhất là trong các ngành điện tử - tin
học, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học, kỹ thuật lade, khoa học
vũ trụ.

Máy tính và rôbôt là những
sản phẩm tiêu biểu của công nghệ điện tử - tin học. Từ những chiếc máy vi tính
(computer) đầu tiên ra đời vào năm 1946 đến nay, máy tính đã trải qua bốn thế
hệ. Từ những chiếc máy tính điện tử đầu tiên sử dụng bóng đèn điện tử chân
không, rồi chất bán dẫn, vi mạch (mạch tích hợp IC - Integrated Circuit), vi
mạch với độ tích hợp cao. Từ máy tính điện tử dẫn tới sự kết nối Internet, tạo
ra mạng thông tin toàn cầu với khả năng trao đổi thông tin cực nhanh, giá rẻ.

Đội ngũ rôbôt công nghiệp
ngày càng đông đảo, thông minh hơn và lĩnh vực tham gia hoạt động đang ngày
càng mở rộng.

Nhiều loại vật liệu mới ra
đời trong hoàn cảnh vật liệu thiên nhiên ngày càng vơi cạn dần. Những loại vật
liệu mới này còn có những tính năng hơn hẳn vật liệu tự nhiên như siêu bền,
siêu cứng, siêu nhẹ... Tên các loại vật liệu mới như composit, polyme, silic,
sợi cáp quang... ngày càng trở nên phổ biến. Nhiều loại năng lượng mới đã được
con người sử dụng để biến thành điện năng như năng lượng nguyên tử, năng lượng
Mặt Trời, năng lượng gió...

Tia lade (laser) mới được
phát minh ra từ những năm 60 của thế kỉ XX nhưng đến nay đã được áp dụng trong
nhiều lĩnh vực, từ quân sự, thiên văn, y học, công nghệ in, thông tin liên
lạc...

Công nghệ sinh học đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc, thậm chí đáng sợ. Công nghệ sinh học tập
trung vào bốn lĩnh vực: công nghệ gien, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh,
công nghệ enzim. Nhờ công nghệ sinh học, người ta đã tạo ra nhiều giống cây,
con mới với những đặc tính ưu điểm khác hẳn các giống trong tự nhiên; nhiều
loại dược phẩm mới ra đời, nhiều loại chất xúc tác mới xuất hiện...

Trong nghiên cứu vũ trụ, con
người đã tiến những bước dài mà đi đầu là hai nước Liên Xô và Mỹ. Các tàu vũ
trụ của Liên Xô và Mỹ đã đi thăm dò những hành tinh xa xôi ngoài Trái Đất. Liên
Xô, Mỹ và giờ đây đang thêm nhiều nước khác đã phóng các vệ tinh nhân tạo đáp
ứng nhu cầu truyền hình, thông tin toàn cầu, điều tra tài nguyên, dự báo thời
tiết, mạng định vị qua vệ tinh...

KẾT LUẬN

Lịch sử văn minh nhân loại
là một quá trình phát triển liên tục từ thấp tới cao, trong đó có sự đóng góp
của rất nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Có những dân tộc ngày nay không còn tồn
tại với tư cách một dân tộc độc lập, họ đã bị hòa tan trong quá trình lịch sử,
nhưng dấu ấn mà tổ tiên họ để lại tới ngày nay, nhân loại không thể quên, như
hệ thống chữ viết A, b, g... của người Phênixi. Không dân tộc nào trên thế giới
không học hỏi, tiếp thu những giá trị văn minh của các dân tộc khác. Giao lưu,
trao đổi, học hỏi những giá trị văn minh lẫn nhau là quy luật chung của tất cả
các dân tộc.

Thời cổ đại, trong quá trình
phát triển gần như độc lập của mình, mỗi dân tộc cũng cũng đã tiếp thu những
giá trị văn minh của các dân tộc khác. Chúng ta đã biết, người Hy Lạp thời cổ
đại xây dựng được nền văn minh rực rỡ so với thời kì đó, trong đó có nhiều giá
trị văn minh họ tiếp thu từ người Ai Cập, Lưỡng Hà cổ đại rồi khái quát, phát
triển lên. Tới thời Trung đại, dù không thích người Arập nhưng người phương Tây
cũng vẫn phải tiếp thu các chữ số mà người Arập sử dụng, vẫn phải học cách làm
giấy từ người Arập... (mặc dù trên chữ số trên mặt các đồng hồ lớn ở nhà thờ
phương Tây thì vẫn sử dụng chữ số La Mã). Xu thế hòa nhập, tiếp thu những giá
trị văn minh lẫn nhau là quy luật sống còn của mỗi dân tộc.

Trong thời kì các nước thực
dân phương Tây đi xâm chiếm các nước chậm phát triển, văn minh phương Tây được
các nhà cầm quyền thực dân đề cao. Sau này, cùng với phong trào đấu tranh đòi
độc lập dân tộc, nhiều giá trị văn minh phương Tây bị lên án, bị cho là thủ
phạm của lối sống thực dụng, suy đồi, mất gốc. Các cụ nhà Nho trước kia có
người đã chửi mắng nặng lời con cháu dám cắt tóc ngắn... Nhưng chỉ sau khi
giành độc lập vài chục năm, nhiều nước đã có xu hướng nhận ra rằng, nền văn minh
dân tộc sẽ rất hạn chế nếu không chịu tiếp thu những giá trị hợp lí của văn
minh phương Tây. Trong vấn đề này, bài học Nhật Bản là một tấm gương đáng để ta
suy nghĩ. Nhật Bản trước kia vốn cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của văn minh Trung
Hoa, nhưng văn minh Nhật Bản đã sớm biết phá vỡ tính biệt lập, sẵn sàng chịu
chấp nhận những giá trị hợp lí của văn minh phương Tây. Nhờ vậy, Nhật Bản đã có
được chỗ đứng đáng nể trên thế giới của thế kỉ XX.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ
tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người
yêu sách.]

Khái niệm văn minh phương
Đông và văn minh phương Tây cũng chỉ mang tính chất rất tương đối. Nhiều giá
trị của văn minh phương Tây có nguồn gốc từ phương Đông và ngược lại. Ngày nay
đi tìm một nền văn minh nào chỉ hoàn toàn do dân tộc đó xây dựng nên cũng khó
như đi tìm một dân tộc nào thuần chủng. Trong cuộc giao lưu, cọ xát này, các
nền văn minh dân tộc có cơ hội giao lưu với nhau, tiếp thu thành quả của nhau.
Khi xem xét một nền văn minh của một dân tộc nào, phải đặt nó trong mối liên
quan với các nền văn minh mà nó có quan hệ, nhất là khu vực quan hệ đó lại nằm
trong vùng ảnh hưởng của một nền văn minh lớn.

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện
nay thì sự hòa nhập giữa các nền văn minh là một điều tất yếu. Sự hòa nhập này
lại được thúc đẩy nhanh bởi các phương tiện giao thông hiện đại, cùng với mạng
thông tin toàn cầu. Một vài ngôn ngữ đang ngày trở thành ngôn ngữ phổ biến,
dùng chung cho các dân tộc như tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ảrập. Tiếng Nga,
Trung Quốc, Hindu tuy chưa mang tầm cỡ bằng nhưng được nhiều người sử dụng nên
cũng có một tầm quan trọng đáng kể.

Những thành tựu của văn minh
thế giới ngày nay là kết quả chung những tri thức mà cả loài người đã xây dựng,
tích luỹ qua bao thế hệ. Văn minh thế giới chứa đựng những nét chung nhất mà
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều tiếp thu và vận dụng nó vào cuộc sống của dân tộc
mình. Do những điều kiện tự nhiên và điều kiện lịch sử khác nhau, giá trị văn hóa
của mỗi dân tộc có những nét khác nhau, có những sắc thái riêng biệt. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để tiếp thu những yếu tố hợp lí, tích cực, hạn chế những
yếu tố tiêu cực.

Dân tộc
Việt Nam không phải bây giờ mới đứng trước thách thức khi phải tiếp
xúc với các nền văn minh khác. Dân tộc ta nằm giữa hai nền văn minh lớn của
Châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa. Trong quá trình lịch sử, bên cạnh việc tiếp thu
những giá trị từ văn minh Ấn Độ và Trung Hoa, chúng ta vẫn giữ những bản sắc
văn hóa riêng của mình, mặc dù có thời gian hàng ngàn năm bị đô hộ, bị cố tình
đồng hoá. Trong thời kì bị thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bên cạnh việc
tiếp thu những giá trị của văn minh phương Tây chúng ta cũng đã chứng tỏ sức
sống dân tộc và bản lĩnh văn hóa của mình. Chúng ta không chỉ tiếp thu mà còn
đóng góp phần của mình vào văn minh nhân loại. Những nhà văn hóa của chúng ta
như Lê Quí Đôn, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh... là những người được thế giới biết
đến và công nhận.

Trong xu thế hội nhập tất
yếu ngày nay, dù muốn hay không chúng ta vẫn phải tham gia, phải đương đầu để mà
tồn tại và phát triển. Bên cạnh những cơ hội mới, chúng ta cũng gặp phải rất
nhiều thách thức mới. Hàng ngàn năm trước, dân tộc ta cũng đã phải đối phó với
những thách thức để tồn tại và dân tộc Việt Nam vẫn giữ được chỗ đứng
của mình trên bản đồ thế giới. Mỗi thế hệ đều có những thách thức riêng của
mình. Lịch sử đã chứng minh, dân tộc nào đóng cửa để tìm cách tự bảo vệ là thất
bại. Trong quá trình hội nhập hiện nay, chúng ta cần chủ động tìm hiểu sự đa
dạng về văn hóa của các dân tộc khác, tiếp thu những giá trị văn minh chung của
nhân loại để góp phần nhỏ bé của mình vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh và bảo vệ, phát huy những tinh hoa của văn hóa dân tộc.

Thực hiện bởi

nhóm Biên tập viên Gác Sách:

Sienna – HallaLasbler – H.y

(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)

Báo cáo nội dung xấu