Trong cơn gió lốc - Chương 11 phần 1
Chương mười một
1
Trời đã gần tối, tiếng súng đột nhiên ắng hẳn. Có lẽ, cả ta, cả địch, cả
bầu trời, mặt đất cũng đều mệt mỏi, rã rời sau một ngày quay cuồng trong tiếng
bom, tiếng đạn và đều thấy cần phải nghỉ ngơi. Đã có thể nghe thấy tiếng sóng
vỗ óc ách dưới sông Ba và tiếng những con chim lông xanh, mỏ đỏ kêu chiêm chiếp
trên cây. Bầu trời vẫn cao vời vợi, xanh ngắt, không gian yên ả như chưa hề có
chuyện gì xảy ra. Chỉ có những đám cháy rừng thỉnh thoảng lại được gió thổi
bùng lên như nhắc nhở mọi người nhớ rằng thung lũng này vừa trải qua một ngày
dữ dội.
Trái với khung cảnh yên tĩnh ấy của thiên nhiên, ở trong một vạt rừng xanh,
nơi được chọn làm sở chỉ huy và đặt trạm phẫu của tiểu đoàn 3 lại ồn ào nhộn
nhịp lạ thường. Sau một ngày chiến đấu, tất cả mọi kết quả của nó đều được dồn
về đây. Các phân đội lần lượt giải về hàng chuỗi tù binh dài dằng dặc. Chẳng
mấy chốc khu tù binh đã đen đặc, lố nhố đủ các sắc lính của quân đoàn 2. Tiểu
đoàn phó Hạnh lo sốt vó, chạy ngược chạy xuôi tìm người canh gác, người đến
phân loại tù binh, người lo cho bọn chúng ăn uống. Nào có ít ỏi gì cho cam, quân
số của “khách” đã tăng gấp rưỡi quân số của “chủ nhà”.
Rồi thương binh cũng được đưa về.
Rồi súng đạn, chiến lợi phẩm.
Rồi các bản báo cáo, tổng hợp tình hinh; những yêu cầu, thỉnh thị v.v...
Ban chỉ huy tiểu đoàn phải phân công mỗi người giải quyết một công việc:
Nguyên, nghe các đơn vị báo cáo tình hình chiến đấu, bắt liên lạc với trên, chuẩn
bị phương án chiến đấu cho ngày mai; Hạnh lo chuyện tù binh và chiến lợi phẩm;
Khẩn, nắm tình hình tư tưởng của bộ đội, tình hình thương binh, theo dõi giải
quyết chôn cất anh em tử sĩ, theo dõi các đơn vị giải quyết vấn đề dân tị nạn...
Phân công trách nhiệm như vậy nhưng không thiếu gì những việc Nguyên phải đi
hỏi Khẩn, Khẩn phải tìm hỏi Nguyên... mới giải quyết được. Vì thế, từ lúc ngừng
tiếng súng, lúc nào cũng thấy các cán bộ tiểu đoàn ngược xuôi, tất bật.
Nguyên gầy rộc đi sau một đêm hành quân và một ngày chỉ huy chiến đấu căng
thẳng. Tuy vậy anh vẫn năng nổ, hoạt bát. Tuổi trẻ đã tiếp sức cho anh, niềm
vui chiến thắng đã tiếp sức cho anh. Nghe các đại đội báo cáo xong, anh ngồi
làm con tính và bỗng sững sờ. Chẳng lẽ, kết quả lại lớn đến thế này kia ư?
Bắn cháy: 46 xe tăng và xe bọc thép.
Thu: 26 xe, có 4 xe chở pháo tự hành 175 ly “vua chiến trường”.
Xe hơi: Không đơn vị nào tính vào bảng thành tích vì nhiều quá.
Diệt: 300 tên.
Bắt sống: 420 tên.
Con số ấy những năm trước đây có thể vênh váo với báo cáo cấp trên đó là
kết quả của cả một chiến dịch. Nhưng lúc này điều có ý nghĩa nhất, chiến thắng
lớn nhất mà đơn vị anh giành được không chỉ là những con số ấy. Điều quan trọng
nhất là đơn vị anh đã thực hiện được nhiệm vụ sư đoàn giao cho: “Hình thành một
bức tường thép, không để cho bất cứ một chiếc xe, một tên địch nào lọt qua”.
Tuy vậy, qua hỏi cung một số tù binh, anh biết địch đã lọt qua khu vực này
một số lực lượng đáng kể trước khi đơn vị anh kịp ra chốt chặn. Mặc dù biết đơn
vị mình đã cố gắng hết sức, không thể đến vị trí chốt chặn sớm hơn nhưng anh
vẫn cảm thấy áy náy. Đến khi nhận được bức lệnh của Bộ tư lệnh sư đoàn biểu
dương tiểu đoàn 3, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong ngày chốt chặn đầu
tiên anh mới tạm yên tâm.
Anh đi tìm gặp Khẩn để thông báo tin vui ấy. Khẩn cũng vừa tổng hợp xong
tình hình. Con số thương vong của tiểu đoàn không đáng kể. Riêng đại đội 3
thiệt hại nặng hơn cả, sáu chiến sĩ đã hy sinh, trung đội của chú Mánh mất bốn.
Đợi cho Nguyên đọc xong những con số anh vừa tổng hợp được, Khẩn mới buồn bã
báo tin:
- Chúng ta mất cậu Thắng rồi.
Nguyên giật mình, tưởng nghe lầm:
- Anh nói sao, Thắng... đàn bầu ấy à?
Khẩn khẽ gật đầu. Họ lặng đi trong niềm thương xót vô hạn. Thắng vốn là
công vụ của tiểu đoàn, được Khẩn rất yêu mến và ra sức bồi dưỡng. Chính Khẩn là
người giới thiệu Thắng vào Đảng. Mới đêm qua thôi, trên đường hành quân, Thắng
còn rủ rỉ kể chuyện cho Khẩn nghe. Lại vẫn những ước mơ, những dự kiến của
Thắng về âm nhạc, về cây đàn bầu của mình. Thắng biết chơi đàn bầu từ khi lên
bảy tuổi. Vào bộ đội, Thắng vẫn chơi đàn và tài năng của anh ngày càng được
khẳng định. Không mùa hội diễn nào tiếng đàn bầu của Thắng không giật giải nhất
về độc tấu nhạc cụ. Đoàn văn công mặt trận đã phát hiện ra Thắng và đề nghị đơn
vị cho Thắng về đoàn để tăng cường cho dàn nhạc dân tộc. Tiểu đoàn, trung đoàn
và cả sư đoàn cũng đã đồng ý để Thắng đi. Thắng vui vẻ lắm, anh chuẩn bị bước
vào một giai đoạn mới, có đầy đủ điều kiện để học tập, rèn luyện tài năng để
trở thành một nhạc công sống trọn đời với cây đàn của mình. Nhưng đến khi mọi
thủ tục, giấy tờ đã làm xong, chỉ còn khoác ba lô lên đường, Thắng bỗng đột
ngột thay đổi ý kiến. Anh xin được ở lại đơn vị. Ai hỏi anh cũng chỉ cười, chẳng
giải thích gì cả. Riêng đối với Nguyên và Khẩn, anh cũng chỉ trả lời ngắn gọn: “Được
về công tác ở một đoàn nghệ thuật là điều hết sức may mắn đối với tôi. Nhưng
thiếu tiếng đàn bầu của tôi đơn vị sẽ kém vui rất nhiều. Ở đây tôi cảm thấy
mình có ích cho mọi người hơn. Dàn nhạc của đoàn văn công có thiếu cây đàn của
tôi thì họ vẫn tìm được người thay, còn ở đây, sẽ không có ai thay được tôi cả.”
Thắng đã ở lại chiến đấu và say mê chơi đàn. Ở hậu cứ, sau bữa cơm chiều, Thắng
lại mang đàn bầu ra chơi trước lán. Khi tiếng đàn trong trẻo, ngọt ngào của
Thắng vút lên, các chiến sĩ liền kéo tới đông nghịt. Họ vây quanh anh lắng nghe,
đôi khi hát theo tiếng đàn của anh. Họ càng yêu mến anh hơn khi anh quyết định
ở lại với họ. Họ gọi anh là “nhạc sĩ của chúng ta”, “nhạc sĩ Mạnh Thắng”, Thắng
cũng tự hào vì mình đã trùng tên với một nghệ sĩ đàn bầu nổi tiếng của đất nước.
Ai dám bảo rằng anh không hề nghĩ tới một ngày nào đó cả nước sẽ nghe tiếng đàn
bầu của anh qua làn sóng điện?
Nhưng Thắng không còn nữa. Cả tiểu đoàn tiếc thương anh. Khi đặt Thắng
xuống lòng đất, trước đông đảo các chiến sĩ, Khẩn không khóc, anh phải tỉnh táo
để nói với các chiến sĩ về tấm gương hy sinh của người đã khuất. Nhưng bây giờ
trước Nguyên, anh lặng lẽ khóc. Nguyên cũng im lặng quay mặt đi nơi khác để
khỏi rơi nước mắt. Khu rừng đột nhiên im ắng lạ thường, chỉ nghe đâu đó tiếng
xào xạc mơ hồ của lá rừng. Tưởng như, chỉ giây lát nữa thôi, tiếng đàn bầu sẽ
lại vút lên, trong trẻo và thanh thản.
***
Sau khi chôn cất Thắng xong, trung đội trưởng Mánh lại ghé vào tiểu đoàn bộ
tìm Nguyên. Mặc dù biết chú không việc gì và có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, nhưng
không hiểu sao khi nhìn thấy chú mình sau một ngày chiến đấu căng thẳng, Nguyên
vẫn cảm thấy như bị bất ngờ. Anh ôm chầm lấy chú tưởng như đã lâu lắm chú cháu
không được gặp nhau:
- Cháu lo cho chú quá!
Trung đội trưởng Mánh lắc đầu cười lớn:
- Bom đạn nó vẫn kiêng mặt chú, cháu ạ. Ước gì tao cũng bị thương lấy một
tí.
Nguyên ngước lên nhìn chú:
- Chú chỉ nói dại.
Rồi anh lại gục đầu vào đôi vai của chú mình. Anh nhận ra mùi mồ hôi của
chú quện với mùi thuốc đạn khét lẹt. Lại nhớ, một buổi xa nào đó, khi chú đi
làm về Nguyên đã chạy ra ôm chầm lấy chú để rồi nhận được một miếng bánh hay
một chiếc kẹo; mùi mạt cưa của một loại gỗ nào đó quện với mùi mồ hôi của chú
tỏa ra thật dễ chịu. Lại nhớ, cái hôm về phép gặp chú giữa đường, khi chú cháu
ôm lấy nhau anh cũng nhận ra mùi mồ hôi của chú quện với mùi ét-xăng. Và, chắc
chắn, cũng đã có lần anh nhận thấy mùi mồ hôi chú quện với mùi bùn đất tanh
nồng hay hương lúa đồng thơm ngát. Con người chú, cuộc đời chú là tất cả những
cái đó cộng lại. Da thịt chú rắn rỏi, gân bắp chú cứng cáp, đôi mắt chú thông
minh lúc nào cũng nheo cười như muốn giễu cợt tất cả. Mỗi khi làm việc gì khó, chú
chỉ nói “để xem” rồi xắn tay áo lên. Đến khi chú phủi tay đứng dậy và hỏi “chỉ
có vậy thôi à?”, nghĩa là việc đó đối với chú chẳng còn xa lạ nữa. Đối với chú
không có những việc không làm được mà chỉ có những việc chưa làm được.
Hôm nay lần đầu tiên chú hỏi Nguyên:
- Mày xem chú đánh được không?
Lần đầu tiên chú nghi ngờ kết quả “công việc” của mình. Nguyên hiểu vì sao
có câu hỏi ấy. Anh đã nghiên cứu kỹ trường hợp tự động ra lệnh rút khỏi trận
địa của chú mình và đã có kết luận. Nhưng muốn trêu chú một chút xem sao nên
anh hỏi lại:
- Chú thử tự xét đoán xem?
Chú Mánh nhíu mày suy nghĩ: “Nó hỏi vậy có nghĩa là nó đã biết tất cả. Mặc
nó, mình phải có quan điểm của mình chứ.” Nghĩ vậy nên chú trả lời chắc như
đinh đóng cột.
- Tao đánh đấm được.
- Thế còn trường hợp chú tự động rút khỏi trận địa khi chưa có lệnh của đại
đội?
“Nó chất vấn mình đây. Phải trả lời thế nào nhỉ? Hừm. Trên nguyên tắc như
thế là sai. Nhưng đánh giặc đâu phải là xẻ một mạch cưa mà cứ nhất nhất phải
theo vết mực của ông phó cả.” Nghĩ thế, nhưng trả lời thật khó. Chú không quen
diễn tả dài dòng công việc của mình. Vậy nên chú hỏi lại:
- Nếu rơi vào tình huống đó cháu sẽ hành động như thế nào?
Nguyên mỉm cười. Anh biết khó mà bắt bẻ nổi chú nên đành trả lời theo điều
mình đã kết luận: - Sai đấy chú ạ.
Nhưng Mánh đâu phải tay vừa. Chú muốn đi tới cùng, muốn biết những nhận
định đánh giá của ban chỉ huy tiểu đoàn nên vặn lại.
- Tại sao?
- Xét về toàn cục đây không phải là chốt cứng, mà là một hình thức chốt kết
hợp với vận động tiến công, cho nên xét cho cùng, cũng có thể nó kết quả là ở
chỗ có thực hiện được ý đồ vận động tiến công để chặn đánh địch hay không. Chắc
chú nghĩ thế và cho rằng mình rút lui, nhưng lại chủ động tiến công bọn địch
định đánh úp chú, hòng đánh ta từ cả hai phía, như vậy là đã hoàn thành nhiệm
vụ rồi! Và chắc chú cho rằng trong trận đánh cụ thể này, cuối cùng chúng ta vẫn
giữ vững trận địa. Bọn bộ binh và xe tăng địch tưởng lọt sàng nhưng lại xuống
nia; tràn qua được chốt của chú, nhưng không còn đủ sức vượt qua được các chốt
khác. Nhưng cái sai của chú là ở chỗ này: chiến đấu trong đội hình đại đội, chưa
có lệnh trực tiếp đã tự động rút lui. Tại sao không xin ý kiến? Trong chiến
tranh, đâu phải mọi tình huống diễn biến đều rập khuôn như nhau. Và đâu phải
những người chỉ huy phân đội lúc nào cũng hiểu hết được ý đồ của trên? Cháu hỏi
chú: trường hợp cả trung đội chú cần hy sinh đến người cuối cùng vì lợi ích của
toàn trận địa thì chú nghĩ sao?
Anh trung đội trưởng “Trung đội gió lốc” ngồi lặng đi. “Bỏ mẹ rồi! Cứ cái
kiểu linh hoạt vượt ngoài nguyên tắc thì có ngày ra tòa án binh sớm...” Phải
chịu cái thằng nó nói đâu ra đấy, lý lẽ ra trò, mà nó cũng hiểu chú nó tới tận
gan ruột mới bợm chứ!
Xong cái chuyện đánh giặc, chú Mánh chẳng còn biết nói chuyện gì nữa. Chú
đứng dậy, định ra về thì đồng chí trung đội trưởng trinh sát mang đến cho
Nguyên cuốn sổ ghi những tin tức vừa thu lượm được. Nguyên chăm chú đọc qua một
lượt rồi nhíu mày, hỏi lại:
- Tin này nhận được qua nguồn nào?
- Báo cáo thủ trưởng, qua đài kỹ thuật. Bọn địch lệnh cho nhau chuẩn bị đi
đêm. Chúng đã yêu cầu trực thăng soi đèn.
Nguyên khẽ gật đầu.
- Được rồi! Đồng chí cứ tiếp tục theo dõi nhé, có tình hình gì mới thông
báo cho tôi ngay.
Đồng chí trinh sát đi rồi, Nguyên quay sang nói với chú:
- Chúng định quần nhau với ta cả đêm đấy!
Mánh chậc lưỡi:
- Thì ta đánh đêm.
- Vâng! Phải đánh chứ. Chú về chuẩn bị đi. Nhờ chú nói với anh Quảng cho
đại đội sẵn sàng.
Tự nhiên chú Mánh đứng nghiêm lại, chú đưa tay lên vành mũ chào.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng: Rõ. Tôi xin phép về.
Rồi chú quay gót đi thẳng, không ngoái lại.
2
Đêm xuống chậm. Mặt trời, trước khi tụt xuống bên kia dãy núi phía Tây
thung lũng còn hắt lên nền trời những quầng sáng đỏ như lửa. Từ mặt đất, hơi
nóng bốc lên hừng hực. Hiếm hoi lắm mới có một làn gió nhẹ, mỏng, mang theo hơi
nước từ sông Ba phả lên dịu mát. Thỉnh thoảng, một tiếng đại bác lạc lõng hú
dài dọc triền thung lũng rồi nổ ầm, vang vọng một hồi lâu trong không gian. Hai
chiếc AC.130 bay dai dẳng suốt buổi chiều, chứng kiến trận đánh dưới mặt đất, trước
khi chuồn về Nha Trang còn xối xuống vài trang 20 ly và lụp bụp vãi ra bầu trời
vài quả pháo sáng. Những đốm sáng nhợt nhạt, vô duyên bị gió thổi bạt đi, để lại
những vệt khói dài lòng thòng bay tản mác trên không trung.
Mánh dẫn các chiến sĩ của trung đội mình đi chuẩn bị cho trận đánh đêm. Họ
đi thành hàng dọc trên con đường còn hừng hực hơi lửa của những đám cháy. Con
sông Ba vẫn hiền lành, uốn lượn dưới chân họ. Mánh mở bung cúc áo ngực cho
những đợt gió mang hơi nước của dòng sông Ba lùa vào da thịt. Đầu óc anh bỗng
tỉnh táo hơn, thanh thản hơn. “Dòng sông có cái gì giống như một người mẹ hay
một người vợ, một người bạn gái, lúc nào cũng biết cách an ủi, vỗ về ta; biết
chăm sóc ta rất đúng lúc.” Mánh mỉm cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh đó chợt nảy ra
trong đầu mình. Nhưng, có lẽ đúng vậy chăng? Lúc nào rỗi phải hỏi lại Hưng, nó
sẽ bảo mình là thông minh hoặc lẩm cẩm.
Đến một đoạn đường cong có vòng cua tròn như một nửa cái vành thúng. Mánh
cho trung đội dừng lại. Đây là vị trí tiểu đoàn chỉ định làm điểm chặn đầu cho
trận đánh đêm nay. Dấu vết của trận đánh ban ngày vẫn còn ngổn ngang đây đó. Đại
đội bạn đã “ăn nên làm ra” ở đoạn đường này. Cứ nhìn cảnh ngổn ngang trên đường
cũng đủ biết. Xe cháy, xe đổ, xe còn nguyên đầy rẫy. Những chiếc M.48 kềnh càng
chúi mũi xuống bờ sông hoặc sa lầy trên bãi cát; những chiếc GMC chở hàng vẫn
đang âm ỉ cháy; những chiếc xe chỉ huy, xe du lịch sang trọng; những chiếc bánh
xích kéo pháo hoặc kéo theo máy nổ, ra đa v.v... Rồi những “bãi giày” thối
hoăng, đen ngòm dài dằng dặc; nhưng đống va li, hòm xiểng, quần áo ngổn ngang
khắp nơi. Xác lính ngụy chết bắt đầu bốc mùi khăn khẳn... không hiểu anh chàng
nào đó trong đơn vị đã gọi cái mùi khó chịu ấy với cái tên rất đúng là “mùi... tùy
nghi di tản”.
Mánh cho trung đội bố trí thanh hai cụm để tiện việc chỉ huy. Anh và Đạt
mỗi người nắm một cụm. Công việc chuẩn bị không có gì phức tạp trừ việc phải
chôn mìn. Nhưng, Hưng đã tìm được một cách gỡ bí. Anh chỉ vào những đống quần
áo, chăn màn vất ngổn ngang trên đường và nói với mọi người:
- Việc gì mà đi cuốc đường cho nhọc xác. Cứ đặt mìn xuống mặt đường rồi lấy
những thứ lằng nhằng kia phủ lên. Bố thằng địch cũng chẳng biết đường nào mà
lần.
Trung đội trưởng Mánh vỗ vai Hưng, trầm trồ khen ngợi:
- Chà, cái thằng thông minh tệ, sinh viên có khác.
Không hiểu sao Hưng lại cảm thấy khó chịu vì lời khen ấy, anh nhăn mặt, lẩm
bẩm:
- Có quái gì đâu, thông minh gì cái chuyện vặt.
- Cậu bảo như vậy không là một sáng kiến hay à? - Mánh hỏi lại. - Tớ thì tớ
nghĩ rằng mọi ý kiến hay đều đáng được trân trọng. Ối người có nghĩ ra đâu. Đằng
kia bọn nó đang cuốc choang choang ra đấy. Mình phải đi phổ biến sáng kiến của
cậu đây.
Nói rồi anh chạy đi thật. Hưng nhìn theo cái bóng gồ ghề của trung đội
trưởng và thầm nghĩ: “Anh ấy mới thật là người thông minh. Mình nghĩ ra được
một điều, rồi mình coi thường nó. Còn anh ấy thì lại thấy nó có ích cho cuộc
chiến đấu.”
Công việc chuẩn bị được hoàn thành nhanh chóng. Bây giờ lại bắt đầu những
phút chờ đợi. Ổn lỉnh ngay ra chỗ đoàn xe chở hàng. Một lát sau, cậu ta khệ nệ
bê về một ba lô những kẹo, bánh, thuốc lá quân tiếp vụ và cả một két bia 33 rồi
đứng giữa đường, dõng dạc tuyên bố:
- Căng tin mở cửa trong mười
phút. Mời quý vị đến lấy đồ về nhậu chơi.
Hưng vội quát khẽ:
- Này! Nhỏ cái mồm đi một
chút. Ông Mánh về lại ăn bạt tai bây giờ.
Ổn chắc lưỡi:
- Thì cũng... thoải mái một
chút. Đi đánh nhau mà cứ như ở trường lục quân ấy. Mệt thấy cha. Này, thằng Kén,
gì mà mày tham thế. Để cho anh em khác với chứ. Tiêu chuẩn chỉ có một chai, muốn
lấy nữa ra xe. Thằng Cẩn thì đừng có mà nốc vào, lại say bí tỉ như hôm ở đường
14 thì chết cha tao.
Om sòm, chí chóe một lúc Ổn
cũng tẩu tán xong cái món chiến lợi phẩm vừa lấy về. Một lát sau, Ổn ôm một lô
một lốc những cái “của nợ” ấy tới trước mặt Hưng:
- Báo cáo! Thủ trưởng tiểu
đội dùng gì?
Hưng phì cười, vung tay thụi
cho Ổn một cái và đe:
- Tếu vừa chứ. Ông Mánh mà
biết thì bỏ đời.
Ổn vẫn cười khơi khơi:
- Lúc nào đánh nhau thì đánh
tới số. Còn thì cũng phải sống cho rôm rả chứ. Tôi mới hơn hai chục cái xuân
xanh. Có thất tình như...
Hưng vội đưa tay bịt miệng Ổn
vì thoáng thấy bóng Đạt đang đi tới. Ổn hốt hoảng đặt thịch cái hòm gỗ xuống, trước
khi chuồn, cậu ta còn ghé vào tai Hưng nói nhỏ:
- Phần anh và... ông thất
tình đấy, để cho hai ngài “giải sầu”.
Nghe Ổn nhắc tới chuyện đó, Hưng
lại chợt thấy thương Đạt. Từ hôm nhận được lá thư ấy của Dung, Đạt sống âm thầm,
lặng lẽ hơn. Nhiều lúc anh bắt gặp Đạt ngồi một mình, bần thần suy nghĩ. Nhưng,
những ngày gần đây Đạt đã đổi khác. Anh vui vẻ hơn, nói cười hồn nhiên hơn. Đôi
lúc còn thản nhiên đem chuyện thất tình của mình ra đùa với mọi người. Tuy vậy,
trong những lời nói, nụ cười của Đạt vẫn còn những dư vị chua xót đắng cay. Đôi
khi, ngồi nghe anh em bàn luận về tình yêu, anh mỉm cười mai mỉa rồi cất giọng
chua chát đọc câu thơ của Nguyễn Bính: “Một trăm con gái thời nay ấy. Đừng nói
nhân tình với thủy chung”. Anh đang khủng hoảng lòng tin. Nhưng rồi anh sẽ tin
ở tình yêu, anh Đạt ạ. Khi nào anh gặp được một tình yêu của mình, thực sự của
mình, anh sẽ nghĩ khác bây giờ.
Đạt tới, lặng lẽ ngồi xuống
bên Hưng. Hình như anh lại đang buồn. Hưng bóc một phong bích quy và bật nút
hai chai bia đặt trước mặt Đạt:
- Nào, xin mời! Chúc mừng
chiến thắng của chúng ta.
Đạt khẽ cười, cụng chai với
Hưng đánh cốp một cái rồi ngửa cổ tu liền một hơi hết chai bia. Hưng ái ngại
hỏi:
- Uống dữ thế?
- Ăn thua gì đâu. - Đạt vừa
nhấm nháp miếng bánh vừa trả lời. - Hồi còn đóng quân ở Hà Nội, minh được mệnh
danh là “cây bia” kia mà. Nhưng mình không nghiện. Khi đến quầy bia thấy phải
xếp hàng dài là mình chuồn.
Nói vậy rồi Đạt lại im lặng
ngước nhìn vầng trăng đầu tháng mỏng mảnh như mắc hờ hững trên nền trời. Lát
sau anh khẽ thở dài, nói nhỏ:
- Có trăng non rồi.
Và, không dừng được anh nói
tiếp:
- Hôm nay là ngày nhập ngũ
của mình. Cậu nhớ chứ? Kể cũng kỳ lạ thật, mãi tới lúc cậu đưa mình chai bia
mình mới nhớ ra điều đó. Thôi, hãy coi như chúng mình vừa uống mừng mình tròn
sáu năm tuổi quân. Cậu biết không? Chính vào ngày hôm nay mình với Dung đã nói
với nhau những lời hò hẹn. Buổi sáng mình lên huyện tập trung, đêm đó còn ngủ
lại huyện. Quãng giờ này thì Dung đến tìm mình. Hai đứa dắt nhau đi chơi trên
bờ sông Máng, dưới những hàng phi lao vi vút tiếng gió và ngắm trăng non. Từ đó,
bất cứ ở đâu, hễ nhìn thấy trăng non là mình nhớ...
- À ra vậy? - Hưng nhẹ nhàng
đặt tay lên vai Đạt, biểu lộ niềm cảm thông. Đạt có biết đâu Hưng cũng đang nhớ.
Nỗi nhớ bắt đầu từ vầng trăng kia.
Cũng vào một đêm trăng non, anh
và Hương đã ngồi bên nhau trên một con mương ở trường Đại học Sư phạm. Ngồi
trên bờ cỏ xanh mượt, Hương đã say sưa kể cho anh nghe bao nhiêu chuyện về quê
biển miền Trung của mình. Gục đầu trên vai anh, Hương ngước nhìn vầng trăng đầu
tháng và bảo:
- Anh trông kìa! Vầng trăng
non giống hệt một bông lúa đang uốn câu.
Bây giờ “bông lúa đang uốn
câu” ấy đang ở trên đầu anh. Đang chiếu sáng trận địa của anh, gọi về bao kỷ
niệm. Anh bạn của anh đang buồn, anh ấy đã không gặp được một người như em. Nếu
trăng có gợi cho anh ấy những kỷ niệm xót xa thì đâu phải lỗi tại trăng? Mà lỗi
tại con người, phải không em? Thiên nhiên bao giờ cũng rộng lượng. Chỉ có lòng
người là đôi khi chật hẹp mà thôi. Hãy cứ để cho anh ấy buồn một chút, đôi khi,
như thế lại cần thiết cho cuộc đời một con người. Ai mà chẳng có thể gặp những
bất hạnh. Nhưng, kẻ bất hạnh nhất là kẻ không nhận ra nỗi bất hạnh của mình.
- Có lẽ các cậu cho rằng mình
nuối tiếc phải không? - Đạt hỏi. - Anh Mánh đã có lúc lo cho mình có thể vì
thất tình mà liều lĩnh. Không, các bạn đừng hiểu lầm mình, mình không tầm
thường như thế đâu. Mình không tiếc Dung và cũng không oán trách gì cô ấy nữa. Chiến
tranh, sự xa cách đã thử thách tình yêu của chúng mình và đã trả lời một cách
phân minh. Nếu không, cho đến trọn đời mình vẫn không thể hiểu hết được người
mình đã yêu. Nếu mình có buồn thì là ở chỗ mình đã đánh mất một cái gì đó, sự
trong sáng của mối tình đầu chẳng hạn, cái đó không bao giờ còn trở lại.
- Mình hiểu.
- Còn đối với chiến tranh, mình
không đùa bỡn. Mình không bao giờ phung phí tuổi trẻ một cách vô ích, cậu hiểu
không? Mình nói với cậu điều đó để, nếu chẳng may mình hy sinh trong một trận
đánh nào đó thì trước hết cậu, bạn thân của mình, phải hiểu rằng mình đã hy
sinh một cách tỉnh táo và tự nguyện.
- Đạt!
- Có như vậy thôi. - Đạt chợt
cất tiếng cười hồn nhiên. - Bây giờ thì mình hoàn toàn yên tâm, mình chỉ sợ
mình không kịp nói với cậu điều ấy.
- Chà... Cậu rắc rối thật!
- Tuổi trẻ chúng mình như vậy.
Sống một cách rắc rối, phải không? Nhưng thôi... để lúc khác ta lại thảo luận
về cái sự “rắc rối” ấy, trực thăng của tụi nó lên rồi đấy. Mà cái ông Mánh đi
đâu mất hút con mẹ hàng lươn thế không biết.
- Mánh đây. - Trung đội
trưởng Mánh bỗng hiện ra đột ngột phía sau lưng họ. - Xin lỗi vì đã nghe lỏm
câu chuyện của hai bạn.
Đạt ngượng ngập hỏi lại:
- Anh thấy thế nào?
- Rất hay? Mình đang tự hỏi, có
lẽ mình già quá rồi chăng?
- Sao vậy?
- Vì mình không biết sống “một
cách rắc rối” như các cậu nữa!
Mánh nói vậy và bỗng phá lên
cười. Anh đẩy hai anh bạn trẻ về hai phía và ra lệnh:
- Thôi, mời hai ngài về vị
trí và sẵn sàng cho. Tụi nó bắt đầu rồi đó. Này, đứa nào còn nhấp nhô ngoài
đường kia? Về vị trí đi! Trực thăng nó rọi đèn vào tận đũng quần bây giờ.