Tưởng Giới Thạch - những bí mật về cuộc đời và gia thế - Phần 07 - Chương 05 - 09
8.QuáI thai của nền văn hóa phong
kiến và tư Tưởng phatxít.
Nhìn tổng quát cuộc đời của Tưởng
Giới Thạch từ thói ngang ngạnh, ương bớng,
cố chấp ở thời kỳ thanh niên đến thói độc đoán chuyên quyền sau khi chấp chính,
đã thực thi nền thống trị phát xít; Từ kẻ “vô lại” ở tuổi trẻ con đến những lời
nói không giữ chữ tín trong cuộc đấu tranh chính trị, đều thể hiện bản chất
gian hùng; Từ việc tiêm nhiễm thói xấu trong gia đình buôn muối tới tính bẩm
sinh tích trữ hàng qúy, bề ngoài Tưởng đạo mạo nghiêm trang luôn thể hiện hình
tợng “lãnh tụ”, thế nhưng trong xương trong tủy lại thể hiện ra tính đưa nghi trắng trợn và giận giữ tất sẽ báo thù.
Tưởng phất cờ gióng trống rùm beng khẩu hiệu “Thiên hạ là chung” của Tôn Trung
Sơn, thế nhưng ngấm ngầm thì trái tim tự tư nặng hơn trái tim vì việc chung.
Nói tóm lại, biểu tợng của những hành vi ngang ngạnh ương bớng, cố chấp, xảo trá, tư tự, tàn ác hung bạo,
coi mình là cái rốn của vũ trụ, nói lời không giữ chữ tín, hẹp hòi đưa nghi v.v..đã cấu thành những đặc trưng tính
cách khác với người thường của Tưởng Giới Thạch.Lý luận khoa học tâm lý cho rằng
tính cách của con người là những đặc trưng tâm lý tương đối ổn định, có tác dụng
hạt nhân trong cá tính. Những đặc trưng tâm lý này quyết định phương thức thái
độ và hành vi tương đối ổn định của một người đối với hiện thực hoàn cảnh xung
quanh. Thế nhưng, những đặc trưng tâm lý cấu thành tính cách của con người
không phải sinh ra một cách vô căn cứ, nó là kết tinh của bối cảnh văn hóa đặc
định và hoàn cảnh, kinh nghiệm của cuộc sống. Đối với Tưởng Giới Thạch mà nói,
nền văn hóa Trung Quốc truyền thống cổ lão với lý luận phát xít cận đại Tây
phương, đã cấu thành cơ sở tư Tưởng trong hành vi tính cách của Tưởng.Trong việc
hình thành đặc trưng tính cách của Tưởng Giới Thạch, nền văn hóa truyền thống
Trung Quốc đối với Tưởng đã phát sinh ra những ảnh hưởng sâu sắc nhất. Còn căn
cứ vào cách nói của bản thân Tưởng, nhân sinh quan của ông ta được hình thành
sau khi đọc xong cuốn “Đại học” năm 1914, lúc đó Tưởng mới hơn hai chục tuổi. Đối
với cuốn hạ “Đại học chi đạo”, Tưởng nói: “Mãi tới khi 28 tuổi, Thủ Tướng đã giảng
cho tôi nghe biết đạo của đại học, mới hiểu được bộ sách này là một bộ triết học
chính trị rất có giá trị... sau đó tôi đã không ngừng nghiên cứu, mới cảm thấy
mỗi câu nói trong đó, đều có đạo lý sâu sắc, tức thì nhân sinh quan của tôi đã
được xây dựng từ đây”. Trong bộ sách này, Tưởng rút ra được đạo lý làm việc cần
phải “áp đảo người trước”, đây chính là “Hiểu biết tường tận nơi phát sinh ra sự
vật ban đầu, nghiên cứu kỹ khi tâm ý mới phát sinh ra hành động”. Miếng võ “áp
đảo người trước” này đã sử dụng rất nhiều lần, vui vẻ không biết mệt mỏi. Tưởng
Giới Thạch đã dùng nó để đối phó với Đảng Cộng Sản và phái phản đối Tưởng về
sau này.Trên mặt chính trị, Tưởng Giới Thạch chủ Trương tự cường tự lập lấy “Đại
học”, “Trung Dung” làm lý luận chính trị cơ bản, thực hành nền chính trị chuyên
chế phong kiến. Trong bài viết “Trách nhiệm và sự tu Dương tất yếu của học sinh
đại học lục địa” Tưởng Giới Thạch đã nói: “Chơng thứ nhất của “Đại học” chẳng
qua chỉ có hơn hai trăm chữ, nói rõ ràng minh bạch đạo lý nhất quán trước sau của
việc làm việc, làm người cho đến việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Thiên chức
của quân nhân chúng ta tức là trị quốc, bình thiên hạ. Muốn trị quốc bình thiên
hạ thì cần phải bắt đầu từ việc tu thân đức sáng. Cho nên đạo của đại học chẳng
những là triết học cơ bản của nhân sinh và chính trị, cũng hoàn toàn là triết học
cơ bản của quân sự”.[45]. Những nguyên tắc chính trị phong kiến này cộng thêm
việc hấp thụ tư Tưởng của khoa học kỹ thuật tiên tiến ngoại quốc, đã khiến Tưởng
Giới Thạch trở thành phái sính Tây của thời đại mới. Tưởng tôn sùng Tằng Quốc
Phiên, chủ Trương “Cớp ngoài trước hết phải yên trong”, cho rằng sự uy hiếp lớn
nhất đến từ nội loạn.Tính cách ngang ngạnh ương bớng và ý chí phấn đấu cá nhân của Tưởng Giới
Thạch chủ yếu bắt nguồn từ sự giáo dục nghiêm khắc của gia đình, trước hết xuất
phát từ sự giáo dục của người mẹ từ thời thơ ấu và hoàn cảnh phấn đấu cô đơn
gian khổ của cả hai mẹ con. Đúng như bản thân Tưởng đã nói: “Lừa đảo lăng nhục,
uy hiếp, áp bức, không ngày nào được yên... đã trở thành đạo lí dạy cho tôi biết
khắc khổ tự lập... Mẹ tôi chỉ kiên trì một niềm tự tin, coi việc xây dựng lại
gia đình là trách nhiệm duy nhất. Mẹ tôi thường nói: gian nan, khốn khổ, nguy
hiểm, tai nạn... là điều thường xảy ra ở trên đời, chỉ có tự lập tự cường mới
có thể khiến ta khắc phục được hết. Cho nên gia đình càng khó khăn thì lễ phép
càng không thể thiếu được; phúc của gia đình càng mỏng thì chí khí càng không
thể không kiên trì phấn đấu. Những người cô quả yếu đuối muốn tồn tại được, chỉ
có phấn đấu tự lập khắc khổ tự cường, ngoài ra không có con đớc nào khác “ [46]
người mẹ của Tưởng Giới Thạch là một người phụ nữ truyền thống điển hình nhẫn
nhục gánh vác trách nhiệm nặng nề, bà đã dồn hết hy vọng gửi gắm cả vào trên
thân con trai, dùng luân lý phong kiến để dạy dỗ con trai, đã có ảnh hưởng rất
to lớn đối với tư Tưởng và tính cách của Tưởng.Điều rất có thể phản ánh được
hương vị văn hóa truyền thống đó trong
xương thịt Tưởng Giới Thạch, chính là “Phong trào đời sống mới” mà Tưởng thi
hành rộng rãi. Tháng 2 năm 1934, Tưởng Giới Thạch đã thành lập “Hội xúc tiến
phong trào đời sống mới” tại Nam xương, Tưởng tự nhận chức Hội trưởng. Kỳ thực
ngay từ tháng 4 năm 1932, Tưởng đã đề xuất quan điểm dùng lễ nghĩa liêm xỉ để cứu
vãn nhân tâm.Tưởng cho rằng: “ Hiện tại ngoài việc tinh thần thành thực thân
ái ra còn phải cộng thêm bỗn chữ Lễ Nghĩa Liêm Xỉ nữa. Mọi người không được cho
rằng đó là tư Tưởng cũ kỹ hủ bại... Tới ngày nay chúng ta không lấy Lễ Nghĩa
Liêm Xỉ cộng thêm vào, thì không thể cứu vẫn được dân đức và nhân tâm đã sa đọa
lạc hậu, không thể xác định đớc cơ sở cách mạng của chúng ta.” Tháng 6 năm
1934, Tưởng lại để suất tám đức “Trung Hiếu, Nhân ái, Tín nghĩa, Hòa bình” và
coi đó là cơ sở chính trị của Tam dân chủ nghĩa. Tháng 5 năm 1935, khi Tưởng Giới
Thạch nói chuyện với học sinh tại Côn Minh lại đem tứ duy “Lễ Nghĩa Liêm Xỉ “
và bát đức” Trung hiếu, Nhân ái, Tín nghĩa, Hòa bình” này vẽ một dấu ngang bằng
với Chủ nghĩa Tam dân.Mặc dù Tưởng Giới Thạch đem “phong trào đời sống mới” rùm
beng ba hoa khoác lác, đem phong trào đó với chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung
Sơn gộp làm một, khoác lên chiếc áo ngoài “hiện đại”, trên thực chất, phong
trào này là một phong trào phục hồi lễ giáo phong kiến, cũng là phong trào giáo
dục đế chế đề sớng trung thần hiếu tử. Mục đích phổ biến rộng rãi phong trào
này là “giáo hóa” dân chúng trong toàn quốc “bỏ nhận dục, tồn thiện lí” trên mặt
tinh thần, sống và làm việc có quy tắc quy củ, phục tùng nền thống trị của
vương triều họ Tưởng, làm một người dân thuận theo “phi lễ vật động phi lễ vật
thính, phi lễ vật thị, phi lễ vật hành”.Những cơ sở tư Tưởng trong tính cách
hành vi của Tưởng Giới Thạch, ngoài tư Tưởng truyền thống Trung Quốc rễ sâu
thân chắc ra, lí luận phát xít Tây phương cũng là vũ khí lí luận mà Tưởng tôn
sùng. Tháng 5 năm 1931, trong hội nghị quốc dân triệu tập ở Nam kinh, Tưởng Giới
Thạch nói: “Quan sát tổng hợp hiện tại chính phủ thống trị các nước trên thế giới,
tuy hình thức có khác nhau, còn lập trường lí luận của chúng đại khái có thể
chia làm ba... thứ nhất là lý luận chính trị cuống phát xít vốn là tinh thần của
chủ nghĩa siêu tợng dựa vào học thuyết cơ thể quốc gia làm căn cứ, dùng tổ chức
công đoàn để vận dụng. Cho rằng quốc gia là thực thể chí cao vô thượng, quốc gia phải đòi hỏi bất kỳ sự hy sinh nào
của quốc dân, để kéo dài sinh mệnh của dân tộc, không thể dùng phúc lợi trước mặt
làm chuẩn tắc, quyến thống trị phải được cùng tồn tại với xã hội mà không có thứ
nào trước thứ nào sau, kẻ thao túng nó chính là nền thống trị có hiệu năng nhất
trong giai đoạn của hệ tiến hóa. Thứ hai là lí luận chính trị của chủ nghĩa cộng
sản... Thứ ba là lí luận chính trị của chủ nghĩa tự do dân trị...” Sau khi phân
tích và so sánh 3 loại chủ nghĩa kể trên, Tưởng Giới Thạch đã làm lóe sáng lên
quân át chủ bài của mình. Tưởng nói: “Cứu vãn nguy nan của đất nước không thể
chờ đợi được nữa, lãnh đạo dân tộc mà không có kinh nghiệm chính trị thì không
thể thi hành quyền thống trị tương đối có hiệu năng được”. Sau đó Tưởng lại làm
ra vẻ tuân theo ý dân nói: “Hiện tại điều yêu cầu đối với cả nước là thi hành
quyền thống trị có hiệu năng, để đạt tới mục đích giải trừ sự thống khổ của dân
chúng”. Rất rõ ràng, Tưởng Giới Thạch chủ Trương dùng chủ nghĩa phát xít “thống
trị có hiệu năng nhất” để cai trị Trung Quốc.Khi nghiên cứu lịch sử, người ta
đã đem những chủ Trương “Trung học là thể, tây học là dụng”, gọi những người
duy trì và bảo vệ vương triều phong kiến hòng dùng kỹ thuật “làm thày các dân tộc
man di” là “Phái sính Tây”, còn đối với tầng lớp sau này thì không đợng “tôn trọng”
như vậy. Kỳ thực, lấy cơ sở tư Tưởng mà nói Tưởng Giới Thạch cũng có thể gọi là
“Phái sính Tây”. Tưởng đã tiến dẫn lý luận phát xít, còn đem giống cỏ độc này cấy
rễ trên cặn bã phong kiến của tư Tưởng mình, khiến cho chúng kết hợp Trung quốc
và Tây phương, hợp tác chặt chẽ, rồi trở thành cơ sở tư Tưởng trong tính cách
hành vi của Tưởng.
Phần thứ chín
Bí mật về cái chết
Tưởng Giới Thạch đã chết, chết bởi
già yếu hay chết bởi thất bại, hoặc chết bởi cả hai lẽ? Tưởng Giới Thạch chết
mà không có điều gì nuối tiếc hay là chết mà không nhắm được mắt? Tại sao quan
tài lại quàn tạm tại Từ Hồ? Sau khi Tưởng Giới Thạch chết, sấm chớp giao nhau,
gió ma tầm tã, có người nói “ trời đất cùng buồn”, lại có người nói “ông là một
tinh rùa”. Vậy thì ai đúng, ai sai?
1. Trước và sau khi Tưởng Giới Thạch
qua đời
Ngày mồng 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng
Giới Thạch qua đời. Tưởng Giới Thạch chết bởi già yếu, chết bởi đau ốm, đó là
điều chẳng còn gì để nghi ngờ. Thế nhưng có ai lại có thể phủ nhận rằng ông
không phải đã bị chết bởi những đòn đả kích nặng nề tới tấp do những thất bại
cay đắng liên tiếp nảy sinh trong những sự kiện quốc tế? Đối với Tưởng Giới Thạch,
năm 70 là một năm đen tối bởi rất nhiều “tai biến”, “bệnh” họa liên tiếp xảy tới.
Tai họa thậm chí không phải bắt đầu từ đầu năm này mà đã bắt đầu một cách từ
tháng giêng năm 1969.
Tháng giêng năm 1969, Ních-sơn -
tổng thống đương nhiệm của nước Mỹ - lên
cầm quyền lập tức tuyên bố “chính sách đối với đại lục Trung Quốc, sẽ là một bộ
phận chủ yếu trong chính sách ngoại giao mới của nước Mỹ”. Ních-sơn lại chỉ thị
Hội nghị an toàn quốc gia nghiên cứu lại chính sách đối với Trung Hoa, đề xuất
lý thuyết cân bằng thế giới. Ních-sơn chuẩn bị giao hảo với nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa. Nói rằng thế lực tàn d của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan lúc này
đã bắt đầu thời kỳ chao đảo của gió ma vần vũ là điều không quá đáng.
Ngày 26 tháng 12 năm 1970, Tổng
thống Rumani Ceausêscu tới thăm nước Mỹ, trong cuộc nói chuyện với ông ta,
Ních-sơn đã nhờ vị lãnh đạo có quan hệ hữu hảo với Trung Quốc này chuyển lời với
Bắc Kinh rằng: nước Mỹ hy vọng rằng quan hệ Trung - Mỹ được bình thường hóa.
Trong diễn văn chào mừng tại bữa tiệc chiêu đãi hoan nghênh tổng thống
Ceausescu, lần đầu tiên Ních-sơn gọi “Trung Quốc” là “Nước Cộng hòa nhân dân
Trung hoa”. Đồng thời với điều này trong đại hội lần thứ 25 của hội đồng Liên hợp
quốc khi biểu quyết đề án của Anbani, ủng hộ nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa
khôi phục lại địa vị ở Liên hiệp quốc, lần đầu tiên số phiếu đã vợt mức quá bán,
địa vị của thế lực Tưởng Giới Thạch ở Liên hiệp quốc đã vô cùng nguy nan như trứng
để đầu đẳng.
Ngày 21 tháng 6 năm 1971, tổng thống
Ních-sơn tuyên bố xóa bỏ cấm vận kéo dài suốt 21 năm đối với nước Cộng hòa nhân
dân Trung hoa, Kít-sinh-giơ trợ lí đặc biệt của Ních-sơn lại đột nhiên từ
Pakistan bí mật tới thăm Bắc Kinh từ 9 đến 11 tháng 7, bàn định với Thủ Tướng
Chu Ân Lai để Ních-sơn tới thăm Trung Quốc.
Ngày 16 Ních-sơn lại phát biểu
công báo tới thăm Trung quốc, công khai biểu lộ ủng hộ nước Cộng hòa nhân dân
Trung hoa khôi phục lại địa vị ở Liên hiệp quốc. Trước tình thế này, Tưởng Giới
Thạch đã phát biểu thông cáo “Trang nghiêm kính cẩn tự cường” nổi tiếng. Thông
cáo nói rằng: “Cổ nhân thường nói: “Việc trong thiên hạ, do con người làm; quyết
không thể vì sóng gió nhất thời mà tự hủy diệt tráng trí của mình... Chỉ cần tất
cả mọi người trang nghiêm kính cẩn tự cường, gặp tai biến không kinh sợ, thận
trọng tìm mu kế phán quyết, kiên trì giữ vững tinh thần độc lập tự cường của quốc
gia và quốc dân, thế thì bất kỳ thử thách nào cũng đều vợt qua tất!”. Thông cáo
này của Tưởng Giới Thạch tuy đã cổ vũ mình, đồng viên người, nhưng làm sao có
thế che giấu được nỗi đớn đau, khổ sở, buồn nản và bất lực ở trong lòng ông già
này. Tưởng Giới Thạch biết rằng Chính phủ Mỹ bất đắc dĩ mới phải chuyển sang ủng
hộ việc khôi phục địa vị ở Liên hiệp quốc của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa,
chiếc ghế và đại biểu ở Liên hiệp Quốc của ông sắp sửa bị quét ra khỏi cửa rồi.
Ngày 10 tháng 10 năm này, trong
“Ngày Quốc khánh”, Tưởng Giới Thạch lại phát biểu bài “Th gửi đồng bào trong
toàn quốc”. ông đau đầu buốt óc nói rằng: “Ngày nay thế giới đang ở vào một thời
đại đớn đau thê thảm ở trong thời đại này, sự phân biệt giữa chính nghĩa và cường
quyền, thiện và ác, đen và trắng, ngày một tiêu tán đi; sự tham lam, giả dối và
hỗn loạn đã bao trùm tất thảy...” Tưởng Giới Thạch đã không phải là với tinh thần
tuy có muôn vàn bi ai sầu khổ nhưng vẫn trấn tĩnh tự kiềm chế được như trong
“Thông cáo”, mà do vì trong tâm can tràn đầy phẫn nộ uất hận, không thể tự nhịn
được mà đã mở rộng miệng chửi ầm lên, ông đã chửi kẻ thù, chửi bè bạn, chửi thế
giới, chửi thời đại, suýt nữa ông đã chửi cả mình.
Sau nửa tháng (ngày 25-10-1971) đại
hội lần thứ 26 Liên hiệp quốc đã chính thức tiếp nạp nước Cộng hòa nhân dân
Trung hoa, đuổi cút đại biểu của Tưởng Giới Thạch. Bức thư viết gửi từ Đài Loan
công khai nhục mạ chửi bới Liên Hiệp Quốc “Đã trở thành một tổ chức lưu manh, để
cho thế lực tà ác hỗn loạn nắm quyền, mất hết công bằng và chính nghĩa, không
thể cứu vãn được!” Điều này có lẽ nào chẳng phải là sự căm giận và uất nghẹn của
Tưởng Giới Thạch.
Vậy mà sự việc lại không chỉ dừng
ở đây. Ngày 21-2-1972 Ních-sơn tổng thống nước Mỹ đã tới thăm Trung Quốc, ngày
28 đã phát biểu “ Thông cáo chung Trung - Mỹ “ nổi tiếng tại thượng Hải. Ngày 25-9-1972, Thủ Tướng Nhật Bản
Tanaka Kakuci đã tới thăm Trung Quốc. Ngày 29, chính phủ hai nước đã tuyên bố
quan hệ hai nước Trung Nhật bình thường hóa. Tiếp liền theo sau đó phần lớn các
nước bè bạn liên minh ngày xa của “chính quyền” Tưởng Giới Thạch đã dồn dập cắt
đứt “ quan hệ ngoại giao” với ông ta. Tháng 10 năm 1970, các quốc gia “xây dựng
quan hệ ngoại giao” với “chính quyền” Quốc dân đảng Đài Loan có 68 nước, đến
tháng 2 năm 1972, chỉ còn 39 nước vẫn giữ “quan hệ ngoại giao” với họ, hơn thế
còn có 19 nước đang suy nghĩ “cắt đứt quan hệ ngoại giao” với họ, để lập quan hệ
ngoại giao với nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa. (đến tháng 1 năm 1974, các quốc
gia vẫn giữ quan hệ ngoại giao với “chính quyền” Quốc dân đảng Đài Loan đã giảm
xuống còn 20 nước). Sấm chớp của thế giới nhấp nhô, gió ma của Đài Loan chao đảo.
Tưởng Giới Thạch vung gậy đập bàn ở Đài Bắc, chửi rủa om xòm Liên hiệp quốc và
người Mỹ là “bội tín bỏ nghĩa, lấy bạo lực rải đường”, chửi bới người Nhật Bản
là “vong ân phụ nghĩa, lật mặt bỏ người”, phát ra lời thề “Hơn lúc nào hết càng
phải tự dựa vào mình”, “xin thề với trời xanh” sẽ làm cho “Thế giới này rất
nhanh chóng trở lại mảnh đất chính nghĩa, tự do và hòa bình...”Nếu nói năm 1949
sự thất bại toàn diện ở đại lục là một đòn đả kích trầm trọng của nhà chính trị
gia hùng tâm vững chí, thế thì năm 1970 mở đầu sự thất bại trên võ đài quốc tế
là một đòn đánh chí mạng đối với một lão già đã bước vào những năm tàn như ngọn
nến lét leo trước gió.
Năm 1972, Tưởng Giới Thạch đã
mang bệnh nặng trên thân. Đầu tháng 3 năm ấy ông đã phải tiến hành cuộc phẫu
thuật lớn bởi bệnh phì đại tiền liệt tuyến. Thế nhưng hậu qủa không tốt, đã
chuyển sang viêm tiền liệt tuyến mạn tính, rồi sức khỏe của Tưởng Giới Thạch bắt
đầu suy thoái toàn diện. Trong tháng 7, Tưởng Giới Thạch mắc bệnh cảm nặng phải
nằm viện, bệnh tình xấu đi nhanh chóng, phát triển thành viêm phổi, giới y học
đã tổn phí biết bao công sức mới khống chế nổi bệnh trạng của ông. Thế nhưng, họa
vô đơn chí, ngày 6 tháng 8, trên đường đi điều dỡng ở bệnh viện Vinh Dân ( Đài
Bắc), tại ngã tư đường dinh quan Song Khê ngoài Sĩ Lâm núi Dương Minh, ông ngồi
trên xe bị xe hơi của một viên thiếu Tướng phóng nhanh đụng phải, ông đã bị nạn
bất ngờ. Từ đó, thân thể của Tưởng Giới Thạch không gợng dậy nổi, phải tuyên bố
từ chối không tiếp khách, đã bắt đầu một lịch trình gian nan và dai dẳng giành
giật với tử thần.Thế nhưng, Tưởng Giới Thạch với chí khí kiên cường nổi tiếng
“tràn đầy niềm tự tin phấn đấu” đã không cam chịu sự sắp đặt của vận mệnh. Tết
Nguyên đán năm 1973, theo thường lệ ông vẫn gửi thư thăm hỏi đồng bào. Ông nói:
“Hơn 70 năm qua, quốc dân ta đã dốc sức làm cách mạng dân chủ và thống nhất,
coi đó là mục tiêu duy nhất của cách mạng mà cha hề có một ngày gián đoạn”.
Trong bức thư đó ông đề xớng làm người Trung Quốc “ đường đường chính chính “ cần
phải “phấn đấu tới cùng” vì nền dân chủ và thống nhất.
“Ngày Quốc khánh” năm 1973 ông lại
phát biểu thông báo: “Cho dù quyền lợi của chúng ta có phải phủ lên một bức màn
bi ai đau khổ, bầu không khí của chúng ta tạm thời bị chất độc hóa học bao phủ
bầu trời. Chúng ta quyết không nản chí, chúng ta không thể lạc đường mất phương
hớng. Trước đó vào tháng 2 năm 1972 Hội nghị lần thứ 5 tiến hành “Quốc đại” cứ
6 năm triệu tập một lần tại Đài Loan, để bầu cử “Tổng thống”. Tưởng Giới Thạch
tuy đã có đại chứng tiền liệt tuyến phì, ông vẫn “tráng tâm bất khuất” ông nói,
ông tuổi tác đã cao, không tham gia tranh cử “Tổng Thống” nữa, lại nói, nếu như
mọi ngừơi không chê ông già, ông vẫn tình nguyện dốc sức lực tiếp tục làm việc.
Ngày 21 tháng 3, ông một lần nữa “trúng cử” với số phiếu 1308 trong tổng số phiếu
1316, Nghiêm Gia Cán “trúng tuyển” “Phó tổng thống”.Sau khi “Trúng cử “, Tưởng
Giới Thạch lại phát biểu thông báo: “Duy chỉ có chính phủ và nhân dân chúng ta
mới có thể nghiêm chỉnh dốc sức giành lại lãnh thổ đã mất, cứu vớt lấy ngàn triệu
đồng bào ở đại lục. Chúng ta mới có thể cùng đứng dới ngọn cờ Tam dân chủ
nghĩa, giành hưởng âm trạch của tự do với quyền lợi. Đặt cơ sở trên những lí do
này, bản thân tôi mới có thể dốc hết lòng hăng hái và hạ quyết tâm, hơn thế chẳng
quản tuổi cao và đối mặt với sứ mệnh cực kỳ to lớn, trách nhiệm vô cùng nặng nề
mà đảm nhận chức vụ này... dốc hết sức chống lại bọn Mao cộng bán nước, quyết
chí hoàn thành đại nghiệp, thề đem quân Bắc phạt lần thứ hai thống nhất nước
Trung hoa dân quốc... Tôi xin thề... không phụ lòng mong đợi của toàn dân tộc,
mang hết tinh thần trách nhiệm... chỉ cần bọn Mao cộng và bọn đồng đảng bán nước
còn tồn tại một ngày, nhiệm vụ cách mạng của chúng ta không thể ngừng trệ, cho
dù chúng ta có phải chịu ngàn vạn đòn đả kích và dày vò, cũng quyết không từ
nan, quyết không thối chí. “
Trong đời sống chính trị của Tưởng
Giới Thạch, đây là lần làm “Tổng thống” cuối cùng. Không may, ngày 20 tháng 5 năm 1972, khi Tưởng Giới Thạch
cùng Nghiêm Gia Cán tuyên thệ nhậm chức, đã xảy ra một “sự cố” không lớn không
nhỏ, giống hệt như trong bữa ăn nhìn thấy một con ruồi chết ở trong mâm, sự tởm
lợm không nói ra được trong tâm lý cũng bùng lan ra. Buổi sáng hôm đó, sau nghi
thức tuyên thệ nhậm chức, hai người bước lên lan can “phủ tổng thống” tiếp nhận
sự “hoan hô“ của hai mười vạn dân
chúng, đài vô tuyến truyền hình sẽ phát sóng trực tiếp tới toàn thế giới. Thế
nhưng không biết làm thế nào, khi truyền những nét mặt hoan hô của dân chúng, ở
góc dới màn hình đã xuất hiện những chữ Hán không biết từ đâu tới dòng chữ là
“Đại ca không tốt rồi...” một câu viết như vậy, có khác gì ai đó cố ý lăng mạ,
chửi rủa “tổng thống”. Về sau do người cháu thứ hai của Tưởng Giới Thạch là Tưởng
Hiếu Vũ đích thân tra xét ra, đây là do nhân viên đài truyền hình bỏ sót, chứ
không phải là cố ý dụng tâm. Thế nhưng ở trong tầm mắt những người mê tín bao gồm
một số “nguyên lão quốc đảng”, điều này quyết không phải là điều lành. Sau đó một
loạt bệnh cảm mạo nặng, viêm phổi, tai nạn xe v.v... liên tiếp kéo đến đã khiến
cho họ càng tin chắc rằng những hàng chữ Hán không biết từ đâu đến kia đã là một
điềm ác đối với ông, cũng giống như Tuyên Thống hoàng đế khi đăng cơ còn nhỏ đã
khóc ré lên, khi Nhiếp chính vương Tải Phong vỗ về hoàng đế nói: “Sắp rồi! Sắp
rồi! Sắp hết rồi!” đã bị rất nhiều người nói đó là điều dự báo triều Thanh sắp
sửa bị tiêu vong. Tưởng Giới Thạch tuy là một tín đồ đạo Cơ đốc, thế nhưng cũng
có tư Tưởng mê tín phong kiến rất sâu nặng, sau khi được biết tin này liền nói:
“Xúi quẩy! Xúi quẩy!”.
Tháng 7 năm 1972, sau khi Tưởng
vì cảm mạo nặng dẫn tới viêm phổi phải nằm viện, tuyệt đối giữ bí mật với mọi
người, không để cho một ai được biết. Trong tình trạng ốm lâu không được tiếp
xúc với sự việc, ông vốn nên từ chức, để cho phó tổng thống thay mặt ông giữ chức,
thế nhưng ông đã không làm như vậy, ông muốn để cho người kế tiếp ông là Tưởng
Kinh Quốc tranh thủ được thời gian nhiều hơn. Tới tháng 7 năm 1973 trên báo chí
đã công khai đăng tải ông chụp ảnh chung cùng với mọi người trong buổi lẽ kết
hôn của người cháu thứ tư là Tưởng Hiếu Dũng, là lần thứ nhất lộ mặt công khai
sau một năm ông bị bệnh, cũng là dịp công khai chứng tỏ với dân chúng tình trạng
sức khỏe của ông và cũng kín đáo nói rằng ông đã chữa bệnh tốt. Sức khỏe của Tưởng
Giới Thạch quả thật có chuyển biến tốt. Đến mùa hè năm 1974, mỗi ngày ông đã có
thể tới vờn hoa đi dạo, cùng với người trong gia đình và các chính khách thảo
luận những vấn đề chính trị v.v... Ngày 10 tháng 10 năm đó, theo thường lệ ông
lại phát biểu “Diễn văn quốc khánh” vẫn vọng đàm tới việc “Quang phục đại lục”.
Ngày 31 tháng 10, khi chúc thọ Tưởng, nhà đương cục Đài Loan đã đúc ra khối lợng
lớn huy chương “Tưởng Tổng thống vạn tuế”, hơn thế còn dùng khí cầu cực lớn thả
dù xuống đại lục 10 triệu tấm ảnh Tưởng Giới Thạch. Nghe nói chỉ riêng năm này
nhà đương cục Đài Loan đã thả dù xuống đại lục 280 triệu tấm ảnh của họ Tưởng,
có ý đồ khiến cho mọi người ở đại lục đừng có quên Tưởng Giới Thạch. Thế nhưng
chuyển biến tốt và sự khôi phục sức khỏe của Tưởng Giới Thạch đã không tiếp diễn
được lâu, mà ngày càng suy kiệt, bệnh đã ăn sâu vào xương tủy không thể chữa được
nữa.
Tháng 12 năm 1974, Tưởng Giới Thạch
lại mắc bệnh cúm một lần nữa chuyển sang viêm phổi. Do sức khỏe của ông đã cực
kỳ suy yếu, cũng bởi tại sử dụng kháng sinh lâu, dẫn tới vi khuẩn chống lại thuốc
tăng mạnh, có điều trị cũng phí thuốc, bệnh tình của ông không thấy có chuyển
biến tốt. Kéo dài tới mồng 9 tháng giêng năm sau, trong giấc ngủ ban đêm ông đã
phát sinh ra bệnh tâm cơ thiếu ôxy, tuy đã được cấp cứu chuyển nguy thành an,
thế nhưng sau đó viêm phế quản vẫn cha thể hoàn toàn chữa khỏi sốt nóng lâu
không suy thoái.Ngày 29 tháng 3 năm 1975, có lẽ Tưởng Giới Thạch cảm thấy bản
thân mình không thể sống lâu ở nhân gian nữa, ông đã tiện khẩu truyền di chúc,
do phó bí thư trưởng ủy ban trung ương
Đảng dân quốc là Tần Hiếu Nghi ghi lại. Sau khi di chúc lập xong, Tưởng
Giới Thạch đã bước vào một tuần lễ cuối cùng của cuộc đời ông, sức khỏe lúc
lành lúc xấu, thần trí khi tỉnh khi mê. Dần dà gắng gợng bước vào tháng 4, theo
cách nói dân gian của những người già Trung Quốc - Tết thanh minh đối với những
người bệnh có nguy cơ trầm trọng đã tới. Tưởng Giới Thạch với sức sống vô cùng
suy yếu, cuối cùng đã gắng gợng qua được ngày tảo mộ tế tổ, điếu niệm vong linh
và đã chết trong Tết thanh minh ngày 5 tháng 4 này.