Tưởng Giới Thạch - những bí mật về cuộc đời và gia thế - Phần 07 - Chương 05 - 12

4. Tại sao Tưởng Giới Thạch không
an táng xuống đất mà lại quàn tạm ở Từ Hồ?

Trong tục chôn cất truyền thống ở
Trung Quốc, chôn xuống đất là an, mà đem quan tài quàn tạm ở một chỗ gọi là đặt
linh cữu (quàn) đợi táng. Ngày 16 tháng 4 năm 1975,s au nghi thức đại liệm,
linh cữu của Tưởng Giới Thạch được quàn tạm ở chính sảnh hành quán của Từ Hồ,
mà cha an táng xuống đất.

ở Đài Loan, Tưởng Giới Thạch có
47 tòa hành quán, Từ Hồ là một trong những hành quán mà ông thích nhất.Từ Hồ nằm
ở huyện Đào Viên cách phía nam Đài Bắc 60 cây số, ở chỗ giáp giới thị trấn Đại
Khê với làng Phục Hưng. Từ Hồ trước kia gọi là “Bì Vĩ”, mà Bì Vĩ sở tại được
dân làng gọi là “Động Khẩu”.

ở Đài Loan, bờ biển phía Tây,
phía Bắc, phía Nam phần lớn là những bãi cát bằng phẳng hoặc những đồi núi thấp
phẳng; bờ biển phía tây phần lớn vách núi dựng đứng. Miền trung lại là tầng tầng
lớp lớp dãy núi lấy dãy núi Ngọc Sơn làm chủ thể, cách trở đông tây, giao thông
vô cùng bất tiện. Nhà đương cục Đài Loan, vì cải thiện việc giao thông ở khu vực
miền trung, tăng cường sự liên hệ giữa hai miền đông tây, bắt đầu từ giữa năm
1950 trở di đã đại tu đường quốc lộ xuyên ngang miền trung đảo Đài Loan, trước
sau tổng cộng đã tu sửa thành 8 con đường. Bì Vĩ sở dĩ được gọi là Động Khẩu (cửa
hang) chính là bởi vì nó nằm ở chỗ cửa vào đường hầm đường quốc lộ xuyên ngang
đoạn phía bắc. Đường hầm được đặt tên là “Bách Cát”, thế nhưng dân chúng lại gọi
nơi đây là “Động Khẩu”, hơn nữa tên gọi cũ này vẫn được bảo lu, công ty vận
chuyển khách quốc lộ Đào Viên đã xây dựng một trạm nhỏ ở đây, tên trạm được gọi
là “Động Khẩu”.Trên mặt quản lý hành chính, Bì Vĩ thuộc Phúc An Lý cuả thị trấn
Đại Khê. Phúc An Lý nằm ở trong một dãy núi thấp xen kẽ thú vị, núi Thảo Lĩnh kề
bên, núi Bạch Thạch ở phía đông, núi Thạch Ngu ở phía Nam, cùng với các núi như
núi Sáp Thiên, núi Giác Bản, núi Lạp Lạp v.v.. ở xa hơn một chút vây tròn bốn xung
quanh. Làng Phúc An (Phúc an lý) có hơn một ngàn cư dân, chủ yếu làm nghề nông. ở trong những hẽm
núi xa gần đều là tầng tầng ruộng bậc thang, trong những khoảng không của ruộng
bậc thang trồng rất nhiều trúc, cây long não, nhà nông nửa ẩn nửa hiện, dới khe
núi nước chảy róc rách trong suốt nhìn thấy đáy, cảnh trí cực kỳ u nhã tĩnh mịch.
Bì Vĩ vốn là cái hồ ở dới chân núi Giác Bản làng Phúc An, Hồ trước tương đối lớn
ớc độ 5 héc ta, hồ sau hơi nhỏ, tương đối hẹp và dài. Giữa hai hồ trước sau vắt
ngang một dãy núi xanh thẳm nhưng lại có một dòng nước nối liền. Hồ như ở trong
núi, luôn luôn bao phủ một tầng sương
mù, đỉnh núi xanh thắm xuyên sương
mù xuất hiện ra, trên đỉnh núi thường hiện ra quang cảnh như cánh thuyền
nổi trên biển mây. Sờn phía nam hồ lớn có một con đê dài, thẳng liền với quốc lộ
vắt ngang. Đầu năm 1960, khi Tưởng Giới Thạch đánh xe tới thăm núi Giác Bản qua
làng Phúc An, nhìn thấy một khoảnh đất linh thiêng tú lệ như vậy, vô cùng yêu
thích. Đặc biệt là ở chỗ cao con đường quốc lộ giữa núi đưa mắt nhìn thấy thị trấn Đại Khê ở cạnh con suối
Đại Hán, có cảm giác như từ trên vách đá cao ngàn trượng của Phụng Hóa nhìn
sang thị trấn Khê Khẩu, không những có cảnh sắc cuả Thủy hương Giang Nam, hơn thế còn lờ mờ một ảo giác chỗ
ở cũ Khê Khẩu. Ông ngớc mắt nhìn thắng cảnh non xanh hồi Tưởng đến bà mẹ vương
Thái phu nhân của mình, do đó đã đem Bì Vĩ đổi tên thành Từ Hồ và xây dựng hành
quán ở đây. Trong “Một tháng coi sóc linh cữu cha” Tưởng Kinh Quốc đã từng viết:
“Tấm thân này trú ngụ ở Từ Hồ Đài Loan, con tim này lại Tưởng nhớ tới từ am của
tổ mẫu ở cố hương...cha tôi đã đặt tên
công trình kiến trúc nhỏ này là Từ Hồ, ý tứ của người là để kỷ niệm tổ mẫu đó vậy”.

Từ Hồ hành quán ba mặt là núi vây
quanh, trong rừng cây xanh rậm rạp có một góc Hồng Lâu. Cửa chính là hai cánh cửa
lớn sơn đen, trên cửa khắc một đôi vòng đồng đầu sư tử, sắc cổ hương cổ, ở chính giữa khuôn cửa treo tấm biển gỗ
“Từ Hồ” tự tay Tưởng Giới Thạch viết, biển hồng thẫm như vàng.Sau khi vào cửa
phân ra hai đường hành lang bước lên từng bậc, hai bên là nhà ngang, phía trước
sân chơi là chính sảnh, hai bên nhà sảnh đều có hai gian phòng trên. Trước và
sau hành quán, mỗi bên đều có một chiêu đãi sở, là nơi cho các tân khách nghỉ
ngơi, phía trước là nhà băng, phía sau là nhà lầu, lng đều dựa vào núi giác bản
mặt nhìn ra hồ nước. Sau khi hành quán của Tưởng Giới Thạch xây dựng xong, “Bì
Vĩ” cũng được tu chỉnh, trên bờ hồ đều trồng hoa cỏ, đưa cọ, liễu rủ, cong thẳng thông u, trên hồ có
con thuyền gỗ hai mái chèo, cũng có ca nô chạy. Trên sân chơi hành quán của Tởmg
có một con đường núi mòn có thể chạy thẳng ra bờ hồ, những năm cuối Tưởng thường
đi dạo chơi, đọc sách, thủng thẳng nhàn tản giữa cảnh nước non này. Phong cảnh
Từ Hồ tú lệ, thế nhưng nguyên nhân chủ yếu khiến cho Tưởng chú tâm vào nơi này
còn là cảnh đẹp núi xanh suối biếc của Từ Hồ gần giống như Khê Khẩu làng cũ của
Tưởng.

Năm 1930, khi Tưởng Giới Thạch
trùng tu mộ của Mẫu vương Thái ngọc, ông đã từng nói bản thân mình phải chọn một
mộ địa ở Khê Khẩu, chuẩn bị cho sau khi trăm tuổi. được biết như vậy, có người
nói sau khi Tưởng Giới Thạch chết sở dĩ còn quàn tạm tại Từ Hồ chính là vì để
sau này có thể lại đem linh cữu của mình chuyển về Phụng Hóa, chôn ở bên cạnh
người mẹ đã sinh ra ông. Vậy mà, trước khi lâm chung Tưởng Giới Thạch căn dặn
rõ ràng “Linh cữu tạm thời quàn tại Từ Hồ”, đợi sau khi “quang phục” sẽ táng tại
lăng “Trung Sơn”, sẽ cùng với Tôn Trung Sơn tiên sinh coi sóc lẫn nhau. Thế mà,
trong quyết nghị của ủy ban thường vụ Trung ương ngày 7 tháng 4 Quốc dân đảng, lại nói “chờ
sau khi quang phục sẽ an táng tại đại lục”, không hề nói rõ an táng cụ thể ở chỗ
nào. Nên nói rằng, cả ba cách nói kể trên, đại để đều là đúng cả, bởi vì chúng
đều khẳng định, sở dĩ Tưởng Giới Thạch chôn tạm quan tài ở Từ Hồ là vì trong
tương lai phản công đại lục, “quang phục đại lục”, là quyết kế đem mình chôn ở
đại lục mà không phải ở Đài Loan.Trong “Tưởng Kinh Quốc truyện”, Giang Nam tiên
sinh nói: Phản công đại lục chỉ là một truyện thần thoại, “từ đầu chí cuối, ông
Tưởng không có dự định này”, thế nhưng do vì “những thần thoại chính trị này”,
“những lời hứa công trái này”, những “con người thần thoại” này, có lợi cho nền
thống trị của tập đoàn Quốc dân đảng, nên ông mới hết sức lợi dụng. Lời kết luận
của Giang Nam tiên sinh có từ tháng 3 năm 1984, trong lời nói chuyện của ông
trong lần tới thăm Ngô Quốc Chinh tiên sinh ở châu Maiami bang Florida. Ngô Quốc
Chinh nói với Giang Nam, ông ấy cho rằng đầu năm 50 Đài Loan chỉ có thể công,
không thể thủ, trường kỳ đối địch cuối cùng sẽ bị thất bại; Tháng 12 năm 1950,
chí nguyện quân nhân dân Trung Quốc xuất quân sang Triều Tiên, sau khi công bố
tin tức này, Ngô Quốc Chinh “Chủ tịch tỉnh Đài Loan” đương nhiệm lập tức tới gặp
Tưởng Giới Thạch, yêu cầu triển khai hành động quân sự với đại lục, phái cử
quân đội tiến lên đảo Hải Nam, Tưởng Giới Thạch bằng lòng suy nghĩ kỹ rồi sẽ
nói. Sau ba ngày nhắc lại chuyện cũ, Tưởng Giới Thạch nói sơ sài qua quýt với
Ngô: “Ông không phải là quân nhân, không hiểu được việc quân sự”. Tức thì Ngô
Quốc Chinh cho rằng vịệc phản công đại lục của Tưởng Giới Thạch chỉ là điều nói
suông mà thôi, “từ trước tới sau, ông ta không có dự định này”. Kỳ thực, cách
nói này rất có chỗ xoay sở để thương lợng. Năm 1950, thậm chí suốt cả năm 1950,
quân đội Quốc dân đảng qua thất bại thảm hại ở đại lục mà đã mất hết nguyên
khí. Công cuộc khôi phục kinh tế và phát triển xã hội của đại lục đã sôi sục
hàng ngày, Tưởng Giới Thạch muốn phản công đã không có điều kiện vững mạnh lại
chẳng có cơ sở xã hội tương ứng. Cho nên điều Tưởng Giới Thạch phê bình Ngô Quốc
Chinh “không hiểu quân sự” lúc đó phải nên nói là điều đã tự biết rõ mình rồi,
thế nhưng điều này không thể nói rõ Tưởng Giới Thạch không dự định phản công đại
lục. Di chúc của Tưởng Giới Thạch và các công việc tiến hành điều tra, thăm dò,
bao vây, phá hoại mà ông chỉ đạo quân đội đối với đại lục đều nói rõ ông luôn
luôn khắc cốt ghi xương muốn phản công chiếm lại đại lục, quàn tạm quan tài đợi
chôn cất cũng là biểu hiện nội dung chủ yếu trong bản di chúc chính trị của ông
già chính trị này. Không phản công chiếm lại đại lục, không giành lại giang san
đã mất, thì Tưởng Giới Thạch có chết cũng không nhắm được mắt. Về điểm này,
trong nhật ký ngày 4 tháng 5 năm 1975 của Tưởng Kinh Quốc cũng đã có thể được
chứng minh.”Trước buổi tra, từ núi Giác Bản trên Từ Hồ, hai bên đường tuy cây
xanh trúc thắm, núi biếc lúa non, ở đây thực sự là cảnh tự nhiên tuyệt đẹp. Thế
nhưng nhìn thấy bạn nhà nông chai tay chai chân làm việc đồng áng, tôi đặc biệt
cảm thấy họ vô cùng gian khổ. Ngồi lặng lẽ trên mai đài, nhìn núi non đồng ruộng
trùng trùng điệp điệp, làng xóm tha thớt, bỗng tôi hồi Tưởng lại người cha năm ấy
(chỉ năm 1967-ngời viết ghi chú)... đã dạy con rằng: “Thù riêng có thể không
trả, thù lớn không thể không trả. Bởi vì thù riêng là thù của cá nhân, thù lớn
là thù của đất nước, của nhân dân, của dân tộc. Đại trượng phu có thể không
tính đến thù riêng, nhưng không thể không báo trả đại thù của dân tộc của đất
nước được!”. Điều nung nấu mộng mỵ cầu đạt trong suốt nửa cuộc đời sau của Tưởng
Giới Thạch chính là chiếm lại đại lục, xây dựng lại vương triều nhà Tưởng. Thế
nhưng không những khi ông qua đời, nguyện vọng này cha thực hiện được, khi con
trai ông là Tưởng Kinh Quốc qua đời cũng cha thực hiện được, lịch sử có thể bảo
cho ông biết điều sau cùng. Công việc “Quang phục đại lục” của ông là một giấc
mộng không thể viên mãn được! Có điều linh cữu của Tưởng Giới Thạch sẽ có một
ngày có thể an táng tại đại lục được, đó chính là sau khi tổ quốc được hòa bình
thống nhất.

5- Gia đình họ Tưởng trước và sau
khi Tưởng Giới Thạch qua đời

Để cho Tưởng Kinh Quốc bước vào
trung tâm chính trị của Đài Loan là dự kiến vốn có từ lâu của Tưởng Giới Thạch.
Sau khi binh bại ở đại lục trốn ra Đài Loan, Tưởng Giới Thạch càng tăng cường
công tác bồi dỡng và dìu dắt về phương diện này. Đầu năm 1950, Tưởng Kinh Quốc
được cử giữ chức thượng Tướng chủ nhiệm
“Tổng bộ chính trị Bộ Quốc phòng”, chủ nhiệm “Đoàn thanh niên chống cộng cứu nước
Trung Quốc” cùng với chủ nhiệm “Phòng tư liệu phủ tổng thống” lãnh đạo “ủy ban
công tác tình báo Đài Loan”. Cuối năm 1950, Tưởng Kinh Quốc là “ủy viên quốc vụ
viện” kiêm “Chủ nhiệm ủy ban phụ đạo thoái trừ binh dịch quân đội nhà nước Viện
Hành chính”, chính thức nhập vào nội các, là quan chức cấp bộ quan trọng. Đầu
năm 1960, Tưởng Kinh Quốc làm chủ “Bộ quốc phòng”, trở thành nhân vật gần chính
yếu. Cuối năm 1960, ông đã là “Phó viện trưởng Viện hành chính”, mà “Viện trưởng”
do “phó tổng thống” Nghiêm Gia Cán kiêm nhiệm. Trên thực tế, lúc này “Tổng thống”
là lão Tưởng, “Viện hành chính” là Tiểu Tưởng quản giữ.

Ngày 20 tháng 2 năm 1972, sau khi
Tưởng Giới Thạch một lần nữa “trúng cử” “Tổng thống”, ngày 1 tháng 6 lập tức ủy
nhiệm Tưởng Kinh Quốc làm “Viện trưởng viện hành chính”, hoàn thành được một bước
quan trọng nhất trong việc chuyển giao quyền lực. Do vậy, Tưởng Giới Thạch vừa
chết, ngày 28 tháng 4, Hội nghị ủy ban Trung ương Quốc dân đảng liền suy cử Tưởng Kinh Quốc
làm Chủ tịch Trung ương Quốc dân đảng,
từ nhân vật gần chính yếu biến thành nhân vật trung tâm. Ba năm sau, ông thay thế
Nghiêm Gia Cán lên làm “Tổng thống”, thực hiện được “di nguyện” của Tưởng Giới
Thạch.

Khi Tưởng Giới Thạch vừa bệnh ốm
qua đời, Đài Bắc đã phát biểu hai cuốn trước thuật quan trọng của Tưởng Kinh Quốc,
một là cuốn ông viết về “Ngời cha của tôi” năm 1956, hai là cuốn “Ghi chép một
tháng bên linh cữu cha” viết từ ngày 5-4 đến 5-5-1975. Cuốn thứ nhất đăng tải
liên tục trên “Trung ương nhật báo” bắt
đầu từ ngày 10 tháng 4, trong đó có lời tựa nói rằng khi sinh nhật Tưởng 70 tuổi,
Tưởng Kinh Quốc đã viết văn hiến dâng cha làm lễ thọ. Thế nhưng “số lợng in có
hạn, cha phát hành rộng rãi được ra ngoài, rất nhiều người muốn được đọc cuốn
sách này, đến nay vẫn cha có cơ hội. Kể từ hôm nay trở đi bản báo cáo sẽ đăng lại.

“Ngời cha của tôi” dài tới hơn
tám vạn chữ chủ yếu miêu tả những “phong công vĩ tích” của Tưởng Giới Thạch đối
với quốc gia, đối với dân tộc, thế nhưng cũng đã bộc lộ ra rất nhiều những tình
tiết đáng quan tâm của các sự kiện trọng đại, như ẩn cư ở Khê Khẩu, ăn cắp vàng chuyển đi, chạy trốn
khỏi Trùng Khánh Thành Đô v.v..”Ngời cha của tôi” còn tập hợp ghi chép rất nhiều bài nói chuyện
và nhật ký của Tưởng Giới Thạch, Tưởng Giới Thạch thường xuyên kể mình đã học tập
“Ông Tằng Văn Chính” như thế nào, yêu cầu Tưởng Kinh Quốc nghiên cứu học tập Tằng
Quốc Phiên.

“Ghi chép một tháng coi giữ linh
cữu cha” là ghi chép nhật ký của 31 ngày sau khi Tưởng Giới Thạch qua đời.
Trong 31 ngày đó, đúng là lúc hai tập đoàn ở Đông Dương - Nguyễn văn Thiệu ở
Sài Gòn và Lon Nol ở Căm pu chia, trải qua những ngày binh bại như núi lở đất sụp,
tan rã tơi bời, cũng đúng là những ngày mà những người đứng đầu nước Mỹ và tập
đoàn Nguyễn Văn Thiệu, Lon Nol ôm đầu lủi chạy như chuột. Sự thất bại triệt để
và tháo chạy thảm hại của chúng gợi nhớ những hồi ức đau đớn thảm thương của Tưởng
Kinh Quốc đối với việc vương triều nhà Tưởng bị tống cổ khỏi đại lục năm nào.
Trong “Ghi chép coi giữ linh cữu” dài hơn vạn chữ đó, Tưởng Kinh Quốc đã ghi lại
những cảm Tưởng đau khổ của mình nói: “Tưởng Giới Thạch sau khi qua đời, cục thế
đã phát sinh đại biến, tình thế châu á xấu đi thê thảm nhanh chóng, mặt trận chống
cộng ở bán đảo Trung Nam đã bị giải thể, thời cơ chiến đấu ở bán đảo Triều Tiên
ngày càng xấu đi nghiêm trọng, điều này
thực sự là nỗi đau môi hở răng lạnh.” Ông ta lại viết: “Trước hết con
người ta phải cầu lấy sự sinh tồn và yên định, mới có thể có chỗ xoay xở của vận
mệnh. Đông Nam á đã trở thành đại bi kịch, điều tiếp tục đến nữa có thể là còn
có không ít bi kịch lớn hơn”. “Chính phủ Việt Nam đã đầu hàng Việt Cộng, điều
này chính là 38 năm trước (năm 1949- người viết chú thích) từ khi chính phủ ta
bị đuổi ra khỏi đại lục đến nay là một lần đại bi kịch của nhân loại”. “Hôm nay
nghĩ tới Sài Gòn rơi vào tay Việt Cộng, thật quá đau lòng. Sự việc này tất
nhiên sẽ ảnh hưởng đến thế cục, tất nhiên ta cần phải kiểm thảo tường tận trên
mặt ngoại giao và chính trị của mình. Tưởng Kinh Quốc cần phải: “Nghiêm trang
kính cẩn tự cường, gặp biến không kinh sợ”.

Ngày Tưởng Giới Thạch qua đời hôm
ấy, Tưởng Kinh Quốc đã từng ba lần tới thăm viếng, đã từng giao đàm với cha, đại
để có thể nói là coi sóc hầu hạ ở bên cạnh cha. Thế nhưng trong lúc đó Tưởng Vĩ
Quốc đang bận rộn ở khu vực Đài Trung tiến hành diễn tập quân sự, bởi “quân lệnh
trên hết” mà cha thể trở về vĩnh biệt cha, sau đó, khi ông ta vội vàng trở về
Đài Bắc thì Tưởng Giới Thạch đã “qua đời” từ lâu rồi, việc ký trên di chúc cũng
không có phần của ông. Về sau với danh nghĩa của mình ông đã phát biểu một bài
văn chương mang tính chất điếu niệm. Bất kể thân thế lai lịch Tưởng Vĩ Quốc như
thế nào, thời thơ ấu ông đã từng nhận được sự yêu mến của Tưởng Giới Thạch. Sau
này, khi Tưởng Giới Thạch dốc toàn lực thu vén vun trồng cho người con cả, Tưởng
Vĩ Quốc là con thứ nhận được sự lạnh nhạt.
Đặc biệt là sau “Sự kiện binh biến Hồ Khẩu” phát sinh ra ngày 21 tháng 1 năm
1964, trong giới quân sự, giới chính trị ông đều không được nắm giữ đại quyền.
Bởi vì lúc đó ông là tư lệnh bộ đội thiết giáp, mà nhân vật chính trong vụ
“binh biến” là trợ thủ của ông - phó tư lệnh Triệu Chí Hoa, ông là cấp trên trực
tiếp cũng khó thoát khỏi liên lụy.

10 giờ sáng ngày hôm đó, phó tư lệnh
bộ đội thiết giáp quân Quốc dân đảng Đài Loan Triệu Chí Hoa khi lên đài phát biểu
chào mừng về việc tới kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu của sư đoàn Thiết
giáp thuộc căn cứ Hồ Khẩu, đột nhiên phát biểu diễn thuyết bất ngờ khiến cho
người ta không thể Tưởng tợng được. Nội dung chủ yếu là: Tình hình quốc tế bất
lợi cho nhà đương cục Đài Loan, chính sách ngoại giao của Quốc dân đảng có nguy
hiểm sa vào chỗ bị cô lập. Trước mắt các Tướng lĩnh quân sự cao cấp chỉ chăm lo
hưởng thụ sinh hoạt của mình, không kể gì đến đời sống bộ đội. Đàn chó mà Châu
Chí Nhu “Tham quân trưởng phủ tổng thống” đang nuôi, tiền tiêu phí mỗi tháng
còn nhiều hơn mức ăn của cả một đại đội. Việc tuyển chọn các tiểu thư Đài Loan
đã khuyến khích cuộc sống xa xỉ, bản thân các tiểu thư cũng trở thành đối tợng
truy cầu của con em các quan chức cao cấp. Bộ đội thiết giáp là quân tinh nhuệ
của đất nước, cũng đã từng là “Ngự lâm quân” trấn giữ Đài Bắc, lý ra nên vương
thẳng mình mà đi. Trong diễn thuyết hơn một tiếng đồng hồ, Triệu Chí Hoa đã rút
súng lục ra bắn lên trời hai phát, hiệu triệu “Hãy đi theo tôi!” Triệu Chí Hoa
đã bị bắt, thi hành theo quân pháp, Tưởng Vĩ Quốc cũng đã mất quyền chỉ huy quân sự, chuyển sang hệ thống
giáo dục và nghiên cứu quân sự, trước sau đã nhậm chức Hiệu trưởng trường Đại học
chỉ huy tham mu lục quân, Hiệu trường trường Đại học tam quân và Viện trưởng học
viện chiến tranh.

Tháng 5 năm 1980, Tưởng Vĩ Quốc
chuyển sang đảm nhiệm chức “Tổng tư lệnh bộ tổng tư lệnh tham mu liên hợp cần vụ”, kết thúc doạn đời giáo dục quân sự trong 18
năm, thế nhưng vẫn không có quyền chỉ huy thực tế. Đối với việc bản thân mình bị
đuổi khỏi vị trí chỉ huy, Tưởng Vĩ Quốc rất bất mãn, tuy không có sự đối kháng
công khai, thế nhưng ấm ức oán trách thì luôn luôn có. Nghe nói có một lần Tưởng
Vĩ Quốc nói với Tưởng Giới Thạch: “Trong các Tướng lĩnh quân sự của Trung hoa
dân quốc có hai người trước sau không đựoc chuyển ngành và lên chức. người thứ
nhất là cha (Tưởng Giới Thạch là thượng
Tướng đặc cấp năm sao, là quân hàm cao nhất quân đội Quốc dân đảng), người
thứ hai là con (từ năm 1961 Tưởng Vĩ Quốc làm trung Tướng. Sau đó không hề được
thăng chức)”. Nhìn chung có thể nói, Tưởng Vĩ Quốc ở Đài Loan đã chịu sự bài xích
lâu dài của Tưởng Kinh Quốc.

Nhưng đến tháng 6 năm 1986, Tưởng
Vĩ Quốc được bổ nhiệm làm “Bí thư trưởng ủy ban An toàn quốc gia thời kỳ động
viên dẹp bạo loạn”. Đây là một chức vụ quan trọng có sức mạnh ràng buộc nhất định
đối với cả bốn hệ thống Đảng, Chính quyền, Quân sự và kinh tế. Đây là sự sắp xếp
công việc chính trị về sau quan trọng của Tưởng Kinh Quốc. Bởi vì bệnh đái đường
lâu năm của ông ta lúc này ngày càng có xu hớng nghiêm trọng, tình trạng sức khỏe
ngày càng xấu đi nhanh chóng, ông ta có khả năng sẽ chết bất kỳ lúc nào bởi bệnh
xuất huyết lớn trong nội tạng, do đó ông cần phải suy nghĩ đến việc sắp xếp
nhân sự về sau của ông ta để ổn định cục diện chính trị Đài Loan. Tưởng Kinh Quốc
cảm thấy Tưởng Vĩ Quốc lúc này đã là ngọn cờ của phái nguyên lão, lại là hiệu
trưởng của rất nhiều Tướng lĩnh, ông nhận thấy rằng em trai mình có thể giúp đỡ
một số người mới như Lý Đăng Huy, Lý Hoảng, Du Quốc Hoa, Trần Lý An, Tống Sở Du
v.v... duy trì củng cố lại chính cuộc Đài Loan. Lập tức, ông ta liền đặt Tưởng
Vĩ Quốc lên trên vị trí của “Giám quốc”. ở thời kỳ Tưởng Giới Thạch và Tưởng
Kinh Quốc, “ ban an toàn quốc gia” chỉ là cái thứ hữu danh vô thực, không mấy
tác dụng, thế nhưng sau khi họ qua đời, “ủy ban” này đã có tác dụng cân bằng,
chỉ đạo công tác “Đảng Chính Quân Kinh” của Quốc dân đảng, giúp đỡ Lý Đăng Huy
nhanh chóng đứng vững trên thượng tầng
Quốc dân đảng trong lúc rất nhiều thế lực đấu đá nhau, Tưởng Vĩ Quốc đã hoàn
thành được sự ủy thác nặng nề “Giám quốc” mà anh trai mình đã giao phó.Thế
nhưng việc đời như một bàn cờ, mỗi nước cờ đều mới cả. Trên thượng tầng Quốc dân đảng Đài Loan mấy năm gần đây
đấu tranh kịch liệt, không ngừng tiến hành phân phối lại quyền lực từ đầu, Tưởng
Vĩ Quốc đã sắp xếp lịch trình sau cùng của mình như thế nào còn là một câu đố
cha giải được.

Kể từ khi Tưởng Giới Thạch cố ý
vun trồng xây đắp cho Tưởng Kinh Quốc, khiến cho ông ta từng bước đi vào trung
tâm vũ đài chính trị, thì địa vị của Tống Mỹ Linh đã bắt đầu hạ thấp. Cho dù Tống
Mỹ Linh cho rằng theo Tưởng Giới Thạch dần dần bước vào cảnh già, bà so với Tưởng
Giới Thạch kém hơn mời tuổi phải được làm chủ Đảng làm chủ “chính quyền”, đối với
việc vun trồng bồi dỡng Tưởng Kinh Quốc thì không nên như vậy. Thế nhưng bà đã
không quản nổi gia đình của Tưởng Giới Thạch, bà đã không thể cải biến nổi chủ
ý của ông già “kiên cường, cơng nghị, cố chấp, thậm chí tàn ác giảo trá, độc
đoán chuyên quyền, chỉ cho mình là trung tâm” này, đành giơng mắt nhìn Tưởng
Kinh Quốc vây cánh phát triển đầy đủ. Do đó năm tháng sau khi Tưởng Giới Thạch
qua đời, bà đã sang Mỹ chữa bệnh, bắt đầu phiêu bạt ở tận chân trời xa lạ.

Ngày 17 tháng 9 năm 1975, Tống Mỹ
Linh sang Mỹ điều trị bệnh, đã phát biểu một bài viết, giọng điệu bi ai thống
thiết, ẩn ý giấu giếm rất nhiều, khiến cho mọi người phải dò xét phán đoán về
tâm dạ của bà lúc đó cùng với mối quan hệ của bà với Tưởng Kinh Quốc. Bài phát
biểu trên giấy của Tống Mỹ Linh mở đầu đã nói:”Mấy năm gần đây, tôi liên tiếp gặp
cảnh người thân qua đời. Đầu tiên là người anh của chú dợng (Khổng tường Hy)
qua đời, em Tử An, anh Tử Văn lần lợt cũng qua đời. Năm trước già ái Linh đốc bệnh
ở Mỹ, lúc dó Tổng thống mới cảm thấy không dễ chịu, cho nên cứ chần chừ không
đi được, chờ khi tới được thì bà đã hấp hối rồi, không kịp quyết biệt nữa. Tình
cảm chân tay không thể bù đắp được, điều nuối tiếc sâu xa, quốc nạn nhà buồn đến
cùng liên tiếp. Hai năm về trước, tôi cũng dần dần tích bệnh, thế nhưng không
thể tự chạy chữa được, bởi vì sức khỏe của Tổng thống chẳng tốt lành, việc chăm
sóc chỉ sợ có chút sa sẩy trong lòng chẳng lúc nào được yên. Sức khỏe của Tổng
thống có quan hệ tới sự an nguy của quốc gia, sự tiếp tục thay thế của Chủ
nghĩa tam dân, tiền đồ của Trung Hoa dân quốc, tất thảy đều gánh vác đè nặng
trên vai của người. Tôi đêm ngày hầu hạ thuốc thang chỉ mong sao Tổng thống
khôi phục sức khỏe, lãnh đạo quản lý công việc đại sự, có thể lãnh đạo được
thêm một năm, thì đất nước có thể đâm chồi nảy rễ thêm được một năm. Thế nhưng
vài ba năm nay, người vẫn không có ý bỏ tôi ra đi. Mà bản thân tôi vẫn trường kỳ
kiên nhẫn chống đỡ đón nhận muôn vàn đau thương, tới nay tôi đã thực sự cảm thấy
tâm thân mệt mỏi, cảm giác tỉnh táo đã thực sự tật bệnh rồi, rất đòi hỏi phải
được chữa chạy.” Đoạn trường gặp phải nỗi bất hạnh liên tục của bà trong mấy
năm gần đây, nói rõ bà phải sang Mỹ để chữa bệnh. Thế nhưng tiếp sau đó bà lại
nói: “Phàm khẩu hiệu “đoàn kết” mà người dân nước ta nên kịp thời vận dụng, tận
lực phát huy, kiên trì hò hét không thể hô lên suốt ngày được; thực tiễn không
phải là chuyện dễ, hô khẩu hiệu quyết không phải là biện pháp”. Lại nói: “Lấy
hoàn cảnh cụ thể của nước ta mà nói, quả thực người người nên tận dụng khả
năng, cùng chia sẻ với nỗi buồn này...” Đoạn nghị luận đột nhiên biến điệu này
tại sao lại phát ra như thế? phát ra đối với ai? Rất cần được ngoại giới bình
luận.Nói chung đều cho rằng: Sau khi tập đoàn Tưởng Giới Thạch rút chạy trốn ra
Đài Loan, để gắng gợng chống đỡ nền thống trị lung lay sắp đổ, Tưởng đã tổ chức
“ẹy ban cải tạo”, quyết tâm “cải tạo” Quốc dân đảng, lôi kéo một số quan chức
nguyên lão, khởi dựng một nhóm nhân sĩ trung thanh niên, thế nhưng lại không thể
không cho các nguyên lão một ít việc làm, còn cần phải lợi dụng ảnh hưởng của
các bậc nguyên lão để ổn định nhân tâm, quân tâm. Bởi vậy, Tưởng Giới Thạch đã
xây dựng ra ẹy ban bình nghị Quốc dân đảng. Phía Đài Loan chính thức giải thích
rằng, ẹy ban bình nghị tương đương với “Viện nguyên lão” của nước ngoài, đây là
một loại giải thích lố lăng bậy bạ. Bởi vì Viện nguyên lão của nước ngoài là cơ
cấu của chính giới, ẹy ban bình nghị Quốc dân đảng là tổ chức của phương diện
chính đảng. Điều này không cần phải quản tới nó nữa, vấn đề chủ yếu là, Tống Mỹ
Linh là ủy viên thứ nhất của ẹy ban bình nghị, rõ ràng đã thực sự bịt chặt miệng
các vị nguyên lão thất sủng mất quyền: Các ngài nhìn xem, ngay cả bà cũng chỉ
là một ủy viên bình nghị thôi!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3