Vụ Bí Ẩn Thằng Bù Nhìn Xấu Xa - Chương 07 - 08

Chương 7

Một câu chuyện khủng khiếp

Letitia! Lần này cố gắng đừng lên cơn nhé!

Charles Wooley vừa nói vừa giúp cô ngồi xuống ghế gần bàn. Rồi ông đưa cho cô một chiếc khăn tay sạch:

- Cô lau mắt đi và cố gắng bình tĩnh lại. Tôi hứa với cô rằng mấy con kiến này sẽ vô hại khi tôi vẫn coi chừng chúng. Mà các cậu đây sẽ giúp ta làm rõ chuyện thằng bù nhìn di động kia.

Letitia cầm khăn tay, chấm mắt.

- Ý anh muốn nói gì khi nói “giúp ta”? - Cô hỏi. - “Ta” ở đây là ai? Anh và tôi à?

- Tất nhiên. Cả hai ta đều là nạn nhân của thằng bù nhìn mà, đúng không? Nó lợi dụng bóng tối hoàng hôn xuống để tấn công cô, còn tôi thì bị nó đập đầu và ăn cắp một lu kiến. Tôi nghĩ nên chấm dứt trò đùa này.

Letitia Radford nén tiếng nức nở cuối cùng:

- Phải... anh nói đúng. Nhưng, ba cậu này... còn là trẻ con.

- Không lẽ cô đi gặp một thám tử tư để kể rằng cô bị một thằng bù nhìn rơm quậy phá? - Wooley đáp. - Tôi nghĩ hắn ta - nếu bất lương - sẽ vui vẻ lấy tiền của cô mà không động đến ngón tay út để giúp cô.

- Đúng! - Letitia thở dài. - Hắn sẽ nghĩ tôi khùng rồi.

- Còn tôi, tôi biết câu chuyện của cô có thật. - Wooley nói tiếp. - Chứ cô không bị ảo ảnh. Có lý do chính đáng: thằng bù nhìn mắc dịch ấy đã tấn công tôi.

Cô gái rùng mình.

- Bù nhìn! - Cô kêu khẽ. - Tôi căm ghét bù nhìn. Chúng gớm ghiếc và đầy nhện.

- Đầy nhện à? - Hannibal hỏi lại. - Thường chúng đầy rơm chứ.

- Tất nhiên! - Letitia đồng tình. - Nhưng rơm của chúng là chỗ trú cho nhện. Cậu chỉ biết được nếu thằng bù nhìn rớt trúng mình. Tôi có bị như vậy lúc nhỏ. Có ngày, cha mẹ dẫn tôi đi mua sắm tại một nông trại ở thung lũng. Có thằng bù nhìn ngồi trên hàng rào, y như ở đây. Tôi đến xem gần hơn. Tôi trèo lên hàng rào rồi... bị...

- Nó rơi trúng cô hả? - Hannibal nói hết câu.

- Phải. Tôi đã khiếp sợ kinh khủng. Thằng bù nhìn dơ quá! Có lẽ nó ngồi trên hàng rào ít nhất cả triệu năm rồi. Khi rớt xuống nó gãy làm đôi và... đầy nhện. Cả ổ nhện! Mấy con ấy chạy khắp mắt tôi và tóc tôi. Gớm! Ngày nay, chỉ nghĩ đến thôi, tôi cũng muốn bệnh luôn.

- Hừm! - Hannibal kêu. - Vậy là cô bị bệnh sợ nhện... và sợ bù nhìn!

- Không chỉ mình nhện! - Letitia chỉnh. - Tôi sợ mọi loại côn trùng.

Cô nhìn quanh mình, nét mặt gớm ghiếc, như đột nhiên nhớ ra mình đang ở đâu. Phòng thí nghiệm của một nhà côn trùng học không phải địa điểm lý tưởng cho một người sợ côn trùng!

- Tôi hiểu, - Wooley nhanh miệng nói. - Rằng cô sẽ rất vui nếu tôi rời khỏi đây. Nhưng xin cô hãy tin tôi, tôi không hề tìm cách làm cô sợ. Tôi làm thế thì có lợi ích gì đâu nào?

- Nhưng ai sẽ có lợi? - Letitia đáp. - Tôi có quấy ai đâu. Tôi chưa bao giờ hại ai cả. Tôi chỉ muốn được sống yên thân ở nhà mình... vậy mà không thể làm như vậy được nữa. Thằng bù nhìn ấy khiến tôi muốn điên luôn!

Cô gái có vẻ như sắp òa khóc nữa. Hannibal vội vàng nói tiếp.

- Cô Radford ơi! Cô cố gắng suy nghĩ lôgic đi! Kẻ cứ tìm cách quấy cô bắt buộc phải biết rằng cô đặc biệt sợ thằng bù nhìn rơm. Có bao nhiêu người biết chuyện này?

Letitia táy máy chiếc vòng đeo tay bằng vàng một hồi, cố gắng suy nghĩ.

- Điểm yếu này của tôi không phải là một bí mật lớn. - Cuối cùng cô nói. - Có lẽ có khá nhiều người biết... trước hết có dì Chumley. Dì ấy đi cùng vào ngày... cái đồ khủng khiếp kia ngã vào tôi. Dì đã thấy nhện. Nhưng tưởng tượng người đàn bà tội nghiệp kia giả làm thằng bù nhìn thật là phi lý! Dì luôn rất tốt với tôi. Mà cho dù có ý đồ làm cho tôi sợ, dì cũng không thể làm nổi. Dì đã không rời ghế lăn năm năm nay rồi... trừ khi lên giường ngủ. Mà lúc đó cũng có người giúp.

- Còn vợ chồng Burrow? - Hannibal vặn hỏi. - Cặp này có biết chuyện trước khi xảy ra vụ thằng bù nhìn di động?

- Tôi... tôi nghĩ là họ biết. Ít lâu sau khi tôi về tới biệt thự, có lần tôi ngồi xem truyền hình cùng dì Chumley trong phòng khách. Màn ảnh nhỏ bắt đầu chiếu Nhà pháp sư xứ Oz. Tôi đã nhảy phắt dậy để tắt truyền hình. Tôi không thể chịu nổi khi thấy thằng bù nhìn, mặc dù biết rất rõ vai này do một diễn viên dễ thương đóng. Tôi nhớ là Burrow có mặt trong phòng khách khi phim bắt đầu. Tôi đã nhắc lại nỗi sợ bù nhìn của tôi. Có thể sau này dì Chumley đã kể chi tiết cho anh ấy nghe về chuyện đánh dấu thời thơ ấu và gây nên bệnh sợ ấy của tôi.

- Chắc chắn là có kể, - Wooley xen vào. - Vì bà ấy đã kể cho chính tôi. Bà thấy ngạc nhiên rằng sau bao nhiêu năm rồi mà cô vẫn không xem được Nhà pháp sư xứ Oz.

- Gérald Malz cũng có mặt cùng chúng tôi. - Letitia nói thêm. - Tôi mới nhớ ra. Mà ông ấy cũng thường xuyên ghé qua thăm dì Chumley, thế nào dì cũng có kể về nỗi sợ bệnh hoạn của tôi.

-Tất cả xảy ra trước khi thằng bù nhìn ra tay lần đầu tiên ạ? - Hannibal hỏi.

- Phải. Trong tuần lễ tôi vừa mới về nhà. Khi đó, tôi đang cố gắng thư giãn nghỉ ngơi để quên khá nhiều chuyện không hay. Tôi... tôi vừa mới trải qua một giai đoạn đau buồn ở châu Âu.

Cô im lặng. Hannibal nhớ đến chuyện đám hỏi bị hoãn mà Wooley đã kể. Thám tử trưởng tự hỏi không biết Letitia bao nhiêu tuổi. Quanh miệng cô có nếp nhăn, và ánh nhìn khá chán chường. Có lẽ không còn trẻ lắm. Và dường như đau khổ kinh niên.

- Vào một buổi tối, - cô kể tiếp. - Vài ngày sau buổi truyền hình, tôi lấy xe đi chơi dọc theo bờ biển. Thằng bù nhìn rơm núp phía sau ghế tôi. Nó đột ngột phá lên cười rùng rợn và ngồi dậy. Nó thò tay tới và đột nhiên tôi cảm thấy trên tóc có nhện, và những con nhện khác chạy trên người tôi. Nhện và những con khác nữa... mấy con đen đen nhỏ có trong đất ẩm khi lật cục đá lên... Tôi hét lên. Thằng bù nhìn nhảy xuống xe. Tôi chỉ mới sang số một và mui xe chưa kéo lại, nên nó thoải mái hành động. Khi tôi la, anh chị Burrow chạy ra khỏi nhà, nhưng trễ quá! Thằng bù nhìn đã biến mất!

- Cháu rất hiểu rằng cô bị xúc động mạnh vì chuyện này. - Peter nói.

- Chỉ nhớ lại thôi, tôi cũng còn ớn lạnh.

- Vậy, - Hannibal tóm tắt. - Rõ ràng là thằng bù nhìn biết hai bệnh sợ của cô. Có thể người trong nhà đã kể cho nó nghe... hay Gérald Malz. Cô hãy kể về ông này đi...

Letitia vẫn còn rùng mình.

- Thật ra cũng không có gì nhiều để nói. Ông ấy chịu trách nhiệm về bộ sưu tập Mosby từ khá lâu rồi. Ông ấy đã ở đây từ thời ông già Mosby. Ông ấy vẫn tiếp tục sống trong nhà và chăm lo cho nhà bảo tàng. Vậy thôi.

- Nói cách khác là biết rất ít. - Bob đang ghi chép nhận xét.

Khi đó Hannibal quay sang Wooley dò hỏi. Nhà côn trùng học lắc đầu:

- Hỏi tôi cũng vô ích thôi. - Ông nói. - Tôi không chú ý nhiều đến người này.

Letitia Radford cố gắng tập trung, nhưng bỏ cuộc.

- Không, tôi không có gì nói thêm ngoài những gì đã nói về Gerry. Tôi biết ông ấy học trường Mỹ thuật Graham ở Los Angeles trước khi về làm cho ông Mosby. Ông ấy sống tại nhà bảo tàng và luôn chỉ đạo những người đến làm việc trong ngày. Ông ấy lo trùng tu một số bức tranh trong bộ sưu tập hội họa và bảo quản các vật khác trong bảo tàng, ông ấy phụ trách việc dẫn khách đi xem các báu vật. Ông ấy chỉ tiếp khách khi có hẹn trước. Công việc của ông ấy khá dễ chịu.

- Ông ấy có gia đình không ạ? - Hannibal hỏi thêm.

- Không. Chưa bao giờ nghe ông ấy nói đến.

- Con người đơn độc! Ông ấy giải trí nghỉ ngơi như thế nào ạ?

- Lúc rảnh rỗi ông ấy đến chơi cờ quốc tế với dì Chumley. - Mắt Letitia đột ngột sáng lên.

- À! - Cô kêu. - Hôm nay ông ấy đến ăn trưa. Dì Chumley và ông sẽ chơi một ván cờ. Các cậu muốn gặp ông ấy không? Tôi có thể mời luôn các cậu đến dùng cơm trưa?

Hannibal vội vàng nhận lời:

- Sáng kiến hay! Tụi cháu sẽ rất vui được nói chuyện với ông ấy. Cháu nghĩ cần phải biết tất cả những người mà cô gặp thường xuyên... Bởi vì kẻ hành hạ cô chắc chắn là một người mà cô quen biết!

Chương 8

Phòng báu vật

Bữa ăn được dọn trong phòng ăn biệt thự Radford. Bà Chumley và
Letitia ngồi đối mặt nhau. Gérald Malz ngồi bên tay phải bà quản gia, nói huyên
thuyên về nhà bảo tàng Mosby.

- Các cậu có biết rằng nhà bảo tàng chúng tôi có bức Vermeer
tuyệt nhất thế giới không? - Ông hỏi ba thám tử.

Cặp mắt xanh của ông sáng lên
sau cặp kính gọng vàng. Mái tóc ông vàng đến gần bạc. Nước da hồng hào của ông
có chỗ bị bệnh sùi đỏ mặt.

- Vermeer là một họa sĩ tài
ba. - Ông hăng say nói tiếp. - Một trong các bậc thầy Hà Lan! Chị Chumley thuộc
một trong những người ái mộ ông ấy nồng nhiệt, đúng không chị?

Người phụ nữ bị liệt gật đầu.

- Dì Chumley có một bản sao bức Vermeer của
viện chúng tôi. - Malz nói tiếp. - Bức tranh tên là Người phụ nữ cầm hoa hồng.
Do một sinh viên vẽ lại. Chúng tôi cho phép các họa sĩ muốn nghiên cứu kỹ thuật
của các bậc thầy thời xưa được vào ngồi trong hành lang tranh và sao vẽ những
bức danh tiếng. Tất nhiên là phải xin phép trước và bản sao không được có cùng
kích cỡ với bản gốc.

Bà Chumley xen vào:

- Bản sao Vermeer của tôi lớn hơn bức tranh
thật. - Bà giải thích. - Nếu không sẽ rất khó phân biệt bản sao với bản gốc.

Do bữa ăn sắp kết thúc, bà xếp khăn ăn lại
bỏ lên bàn rồi đề nghị với ba thám tử:

- Các cậu có thích xem tranh của tôi không?

Không thèm chờ trả lời, Malz đứng dậy khỏi
bàn, kéo xe lăn, đẩy ra tiền sảnh. Letitia bước theo đến một phòng khách nhỏ có
cửa sổ nhìn ra bãi cỏ sau nhà. Phòng khách thông với một gian khác: phòng ngủ
của bà quản gia.

- Xưa kia phòng này của mẹ tôi. - Letitia
giải thích. - Tôi luôn thích chỗ này. Ở đó yên tĩnh và dễ chịu lắm, nhất là vào
mùa đông khi có lửa cháy trong lò sưởi!

- Dì cảm thấy chỗ này không hợp với dì lắm,
Letitia à. - Bà quản gia nói. - Phía cánh nhà dành cho gia nhân có phòng trống.
Có lẽ dì nên dọn sang đó!

- Dì đừng nói bậy nào! - Letitia mắng. -
Chẳng có lý do gì dì phải dọn đi cả!

Rồi chỉ tấm tranh treo trên tường phòng
khách nhỏ, Letitia nói thêm:

- Bản sao Vermeer đây!

Ba thám tử im lặng ngắm tranh. Bức tranh
vẽ, độ lớn như thật, một người phụ nữ trẻ mặc váy xanh dương và đội nón ren,
đứng cạnh cửa sổ, tay cầm một hoa hồng màu vàng.

- Tuyệt vời, đúng không? - Gérald Malz nói
khẽ.

Bà Chumley lăn xe để đối mặt với ông chủ
nhiệm nhà bảo tàng.

- Dường như hôm nay anh không có khách. -
Bà nói. - Sao anh không dẫn ba cậu này đi tham quan hành lang tranh? Chỉ có một
con đường phải băng qua. Và chắc chắn ba cậu sẽ thích được xem các báu vật của
anh.

- Tôi sẵn sàng thôi. - Malz đáp. - Nhưng
hôm nay ta có hẹn chơi cờ mà?

- Ta sẽ chơi sau.

- Vậy thì được. Các bạn trẻ nghĩ sao về lời
đề nghị này?

- Tụi cháu rất thích ạ! - Hannibal trả lời thay mặt cho tất cả. - Chú
thím cháu có tham quan nhà bảo tàng cách đây vài năm, thời ông Mosby còn sống.
Thím rất hay nhắc lại chuyến tham quan này.

Malz liếc sang Letitia:

- Cô có muốn đi cùng không? - Ông hỏi.

- Cám ơn, nhưng câu trả lời là không. Tôi
đã xem nhà bảo tàng đó ít nhất cả triệu lần rồi!

Cố tình làm ngơ trước thái độ khó chịu của
cô gái, ông chủ nhiệm nhà bảo tàng chỉ nói khẽ:

- Một lát nữa chúng tôi sẽ quay lại.

Đi theo ông, Hannibal, Bob và Peter băng qua con đường,
đến tòa nhà không có cửa sổ ẩn chứa các bộ tranh danh tiếng của Mosby.

- Nhiều phòng sắt ở ngân hàng cũng không
được bảo vệ kiên cố như pháo đài này đâu. - Malz giải thích.

Ông bấm chuông ở cửa. Một bảo vệ ra mở cửa.
Cả nhóm bước vào một tiền sảnh vuông vức chỉ chứa vài tủ kính và tranh thêu
hình cô gái đang ngồi đọc sách giữa cánh đồng hoa.

- Ở đây tất cả đã được thực hiện để làm tôn
vinh nét đẹp của các tác phẩm mỹ thuật và để bảo vệ chúng. Các cậu đã thấy là
nhà bảo tàng không có cửa sổ nào. Hệ thống báo động đã được thiết kế cho nhà
bảo tàng này. Ban ngày có nhân viên bảo vệ theo dõi khách tham quan. Có đèn
chiếu sáng thay cho ánh sáng ban ngày và bố trí để làm nổi bật tranh mà không
làm hư hại như ánh nắng mặt trời. Độ ẩm cũng được kiểm soát. Nhiệt độ không
thay đổi hai mươi bốn trên hai mươi bốn. Một nơi lý tưởng đối với một chủ nhiệm
nhà bảo tàng!

Nói xong, ông dẫn ba vị khách trẻ đi tham
quan cơ ngơi, ở tầng trệt, ba thám tử trẻ thấy những gian trang trí bằng tấm gỗ
lợp tường xuất xứ từ các lâu đài ở châu Âu và ngắm các tủ kính có chén dĩa và
đồ pha lê vừa cổ xưa vừa quý giá và những quyển sách cổ trang trí thủ công.

- Hành lang tranh nằm ở đâu ạ? - Hannibal hỏi.

- Trên kia! - Gérald Malz chỉ. - Đi! Ta hãy lên tham quan.

Đi theo ông, ba thám tử leo lên một cầu thang có hai bậc thềm nghỉ, một
thềm có chiếc đồng hồ cổ kêu tích tắc hiền hòa.

Những cái bàn mặt bằng đá hoa cương tựa vào tường của thềm nghỉ phía trên.
Trên đó trưng bày những đồ vật lạ lùng và xinh đẹp.

- Nhìn kỹ đi! - Gerald Malz đột ngột nói.

Ông vừa mới dừng trước một cái bàn và nhìn đồng hồ đeo tay.

- Gần hai giờ rồi. Hãy nhìn các lăng kính pha lê toòng teng ở những cái giá
đèn cầy này.

Hannibal, Bob và Peter nhìn các giá đèn cầy bằng bạc khối to. Đúng lúc đó,
đồng hồ gõ giờ... và tất cả các miếng pha lê rung lên gây nên một tiếng nhạc
nhẹ nhàng.

- Tôi thích lắm. - Malz thú nhận. - Điều này xảy ra mỗi khi đồng hồ gõ giờ.
Dường như các mảnh lăng kính pha lê được điều chỉnh theo đồng hồ. Mấy giá đèn
cầy này là một trong những món mới mua. Tôi mua được hồi năm ngoái, tất nhiên
là có sự chấp thuận của ban điều hành.

Ông dẫn ba thám tử sang một phòng nhỏ hơn, có cái bàn viết làm bằng gỗ màu
rất đẹp, một cái ghế chạm trổ tinh vi và một bức tranh duy nhất.

- Úi chà! - Peter khâm phục thốt lên.

Bức tranh là bản gốc của bức treo trong phòng khách nhỏ của bà Chumley.

Bob xem thật kỹ bức chân dung của người phụ nữ cầm hoa hồng.

- Tấm tranh này giống y chang cái kia. - Bob nhận xét. - Vậy mà lại khác.

- Sự khác biệt là ở chỗ bức tranh này do Vermeer vẽ. - Malz mỉm cười giải
thích. - Có thể bản sao chép rất xuất sắc... nhưng chỉ là một bản sao. Còn
thiếu bút tích của bậc thầy.

Ba thám tử im lặng một hồi. Rồi Bob ngạc nhiên nhận xét:

- Cháu thấy ngạc nhiên là bức tranh này có vẻ mới quá... Vermeer chết lâu
chưa?

- Hơn ba trăm năm rồi, cậu ơi! Bức tranh này được vẽ vào khoảng năm 1660.
Khi ông Mosby mua, có nhiều lớp vecni phủ tranh làm tối nó hẳn. Tôi đã xóa các
lớp vecni để làm cho màu tươi phía dưới hiện lên.

- Chú làm có khó không? - Peter hỏi.

- Làm sạch một bức tranh là cả một nghệ
thuật! Đòi hỏi phải khéo và quen tay. Việc rất khó, nhưng đáng công. Trong
phòng tiếp theo, có nhiều tranh Rembrandt. Tất cả đều tối tăm, nâu nâu hoặc
vàng vàng, với những chỗ đen. Rembrandt không hề vẽ tranh theo những sắc màu
như vậy. Thế là tôi bắt tay vào việc và bây giờ các bức tranh đã lấy lại được
màu sắc nguyên thủy và nó như sống lại. Đi! Tôi sẽ cho các cậu xem...

Ba thám tử bước theo ông. Đột nhiên Hannibal hít mũi ngửi.

- Mùi gì lạ quá! - Thám tử trưởng nói. - Có
phải là mùi của một hóa chất mà chú dùng để làm việc không?

- Mùi gì? - Malz hỏi lại. - Tôi quen quá
rồi! Chắc là mùi sơn dầu, hay mùi chất dung môi mà tôi dùng để xóa lớp vecni.
Xưởng của tôi nằm trên lầu ba. Khách không được vào đó... Ở tầng đó còn có
phòng ở của tôi nữa.

Bob nhìn xung quanh.

- Chắc chú cảm thấy khá cô đơn trong nhà
bảo tàng rộng mênh mông này. Ở đây im lặng quá.

- Phải. - Malz thừa nhận. - Có khi tôi cảm
thấy cô đơn thật. Nhưng tôi còn có nhà ở Santa
Monica. Tôi ghé đó vài ngày khi không chịu được nỗi cô
đơn nữa. Nhưng thường thì tôi rất thích ở một mình.

Malz dẫn ba cậu khách sang gian kế tiếp,
nơi trưng bày các bức tranh Rembrandt mà ông đã trùng tu: có một bức quang cảnh
tuyệt đẹp và bức chân dung một bà già. Rồi ông dẫn ba bạn đi tham quan hành
lang triển lãm tranh, từng gian một. Ba thám tử trẻ được ngắm tranh của Rubens,
Van Dyck và những bậc thầy khác, cũng như các tác phẩm của các họa sĩ khác,
không danh tiếng bằng.

Nửa tiếng nữa trôi qua, rồi Malz mới thông
báo rằng chuyến tham quan đã kết thúc. Khi đó tất cả bước xuống cầu thang, đi
về phía cửa vào. Bảo vệ không còn ở tiền sảnh nữa. Nên Malz tự đóng cánh cửa
nặng phía sau mình. Rồi cùng ba thám tử, ông băng qua đường về biệt thự
Radford.

Khi gần đến, bỗng có tiếng hét chói tai phá
vỡ buổi chiều mùa hè yên tĩnh. Tiếng hét cao thé thé, không dứt.

- Thôi rồi! Lại bị nữa! - Peter lầm bầm.

Peter là người đầu tiên chạy nhanh về hướng ngôi nhà.

Báo cáo nội dung xấu