Bức Xúc Không Làm Ta Vô Can - Chương 07
QUẲNG GÁNH LO ĐI VÀ XEM TRUYỀN HÌNH THỰC TẾ :
Sau nhiều năm làm mưa làm gió trên màn ảnh nhỏ, vị trí thống trị của phim tập Hàn Quốc đang bị lung lay. Thách thức tới từ truyền hình thực tế. Tuy đa dạng, nhưng các chương trình này có một điểm chung cơ bản: thay vì cần tới diễn viên chuyên nghiệp và một kịch bản cầu kỳ, người ta để công chúng thi thố nhau trong một chuyện gì đó. Chỉ trong vòng hai, ba năm qua, số lượng chương trình thuộc thể loại này đã bùng nổ. Bắt đầu với các show có bản quyền nước ngoài như Thần tượng âm nhạc, Giọng hát Việt (ca hát) , hay Bước nhảy hoàn vũ, Thử thách cùng bước nhảy (nhảy múa) , qua Vietnam’s Next Top Model, Project Runway (thời trang) , rồi Ơn giời, cậu đây rồi! (hài) , và Vietnam’s Got Talent (tổng hợp) , các chương trình thuần Việt như Điều ước thứ 7, Hoa khôi áo dài, Vợ chồng mình hát, Solo cùng bolero, v. v... cũng đã mọc lên như nấm sau mưa. Năm qua, một loạt các phiên bản cho thí sinh trẻ em ra đời, mở ra một hướng khai phá mới. Tới nay đã có tổng cộng gần 40 chương trình nội ngoại khác nhau, cạnh tranh khốc liệt các khung giờ vàng trong cả tuần. Chúng hút khách tới mức giá quảng cáo lên tới 350 triệu đồng cho 30 giây, doanh thu cho mỗi chương trình lên tới hàng trăm tỷ đồng, với chi phí sản xuất thấp hơn chi phí các chương trình truyền thống rất nhiều.
Vì sao những ngôi sao Hàn xinh đẹp lại có thể bị cạnh tranh bởi mấy cô cậu nghiệp dư nào đó ở Thái Bình hay Lào Cai? Một trong những điểm tạo nên sức hút của truyền hình thực tế là nó đánh vào lòng hiếu kỳ của người xem. Bằng các tiết mục dự thi kỳ dị như nuốt cá kèo sống hay xỏ rắn lục vào mũi rút ra từ miệng, giống một gánh bán thuốc rong; bằng các xung đột, thị phi thật hay giả giữa các thí sinh và giữa thí sinh với giám khảo; bằng các màn trình diễn của các thí sinh bất tài, bị đem ra cười nhạo công khai trước cả nước. Cộng lại, chúng thu hút người xem như một đám ẩu đả ngoài đường. Helmut Thoma, giám đốc hãng truyền hình tư nhân RTL có tiếng là thương mại câu khách của Đức, nói thẳng toẹt: “Truyền hình thực tế là cái may mắn được chứng kiến một tai nạn.”
Không chỉ thỏa mãn lòng hiếu kỳ bằng những cái rẻ tiền, truyền hình thực tế còn xây dựng quyền lực của mình bằng các thủ thuật tinh vi khác. Dưới cái vỏ “giải trí” vô hại, nó truyền tải những triết lý sống và thế giới quan gây ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội.
Một trong những kỹ thuật kinh điển của truyền hình thực tế là lấy cái nghèo và người nghèo ra để kích dục thương hại và để tầng lớp khán giả trung lưu khẳng định đặc quyền của mình. Trong Sống khác, với khẩu hiệu “Vượt qua thử thách” , một số thanh niên thành phố được giao cho những việc mưu sinh của người nghèo.
Một cậu ấm trắng trẻo phải đi kéo xe bò. Bà Tưng được giao nhiệm vụ đi bán chó con (và phần lớn thời gian bận rộn chụp selfie với người hâm mộ qua lại). Hai nữ sinh phải ngủ qua đêm cùng một gia đình nghèo. Camera dùng kỹ xảo biến căn lều tồi tàn thành một căn nhà ma rùng rợn, rồi cận cảnh các cô đang thút thít vì sợ. Hôm sau, các cô đóng vai hiệp sĩ, vượt qua “thử thách” là nấu cơm bằng bếp củi, đãi gia đình chủ nhà một bữa thịnh soạn.
Đáng nói là chương trình không chọn cách đi theo người nghèo để xem họ vật lộn với cuộc sống, ngày qua ngày, không có hồi kết, như thế nào. Bởi như thế thì nó lại là thực tế mất rồi, không phải truyền hình thực tế nữa. Cái mà người xem muốn không phải là cái thực tại trần trụi ngoài kia, mà chỉ là một trò chơi “bắt chước”
người nghèo, rồi bố thí cho họ, để rồi cả nhà sản xuất, người tham gia và người xem cùng hài lòng là mình nhân văn.
Trẻ em là cái cần câu cơm khác của truyền hình thực tế. Hơn mọi chỗ khác, ở đây cái kệch cỡm và cái sến sẩm ra sức thi tài với nhau. Một bé gái 6 tuổi hát các bài tình ca sướt mướt. Một cậu 11
tuổi hóa trang như ca sĩ da đen Mỹ thập kỷ 1970, đánh hông tục tĩu sau lưng một bé gái 7 tuổi. Một bé gái đang thay răng cửa mặc váy cứng đơ bó chặt như khỉ nhảy disco trên sân khấu mù mịt khói.
Phụ huynh, người làm chương trình, và người xem, mỗi người bóc lột lũ trẻ cho mục đích riêng của mình. Lũ trẻ bị biến thành những người lớn thu nhỏ, những sản phẩm giải trí, và để dễ dàng tiêu thụ, chúng được nhét vào một số các khuôn mẫu nhân tạo. Ni cô mồ côi Huyền Trân 14 tuổi thì đã “thấu hiểu sự đời” , Ngọc Anh khiếm thị 12 tuổi thì luôn ảo não “mưa rơi trong lòng làm mình cô đơn”. Chúng cư xử như những người máy tí hon. “Con biết, con đường phía trước còn nhiều khó khăn,” một thằng bé 6 tuổi cương nghị nói, rồi chỉ ngón trỏ vào camera như người Mỹ vẫn hay làm.
Một bé gái 6 tuổi khác nói như súng máy: “Nếu con thắng con sẽ đưa bố mẹ và anh Hai con đi du lịch, bố mẹ và anh Hai con chưa bao giờ được đi du lịch hết, và cả con cũng vậy,” đoạn đặt tay phải lên tim rồi nháy mắt với người xem.
Cô bé răng sún chưa bao giờ đi du lịch kia là một ví dụ điển hình cho một công thức khác hay được áp dụng: nhiều thí sinh được trình bày như những cứu tinh cho gia đình mình. Xuất thân lao động của chúng được nhấn mạnh qua những biệt hiệu như “cậu bé chăn dê” hay “cô bé bán kẹo kéo”. Những hoàn cảnh éo le, làm mủi lòng vừa đem tới người xem một cảm giác mùi mẫn, vừa cho họ một ảo giác quyền lực rằng họ có thể ảnh hưởng tới cuộc sống của người khác khi bỏ phiếu để một thí sinh đi tiếp. Ảo giác này làm họ quên đi cảm giác bất lực trước cuộc sống của bản thân mình.
Theo giáo sư Beverley Skeggs, tầng lớp lao động Anh nhìn thành công của Susan Boyle, một phụ nữ trung niên, nghèo và xấu, trong Britain’s Got Talent, như một minh chứng rằng vẫn có một cơ hội cho những người mà dường như đã bị tất cả các cánh cửa đóng sập trước mặt. Những câu chuyện như thế nuôi dưỡng những tưởng tượng về một thế giới công bằng và có hậu. Theo một khảo sát ở Anh, sau khi xem show The X Factor (phiên bản tiếng Việt là Nhân tố bí ẩn) , 39% cảm thấy là trên đời này “mọi thứ đều có thể”.
Trong vũ trụ của truyền hình thực tế, các giám khảo, tư vấn, huấn luyện viên hiện ra thông thái và nghiêm khắc, thuộc về một đẳng cấp khác. Họ như những người canh cửa vào một thế giới hạnh phúc, mãn nguyện và đầy đủ. Trong một buổi chung kết của Giọng ca Việt nhí, một giám khảo phấn khích tuyên bố: “Từ hôm nay các con đã trở thành nghệ sĩ, cuộc sống của các con sẽ tuyệt vơơơơơời!” Câu này đúc kết một cách nhìn thế giới mới. Cuộc sống của các con sẽ tốt đẹp không phải vì các con được yêu thương, các con được học hành. Không, cuộc sống của các con sẽ tuyệt vời khi các con được show biz chấp nhận.
Truyền hình thực tế tạo ra sự đói khát nổi tiếng. Điều quan trọng trong cuộc sống, nó dạy ta, đó là hào quang trên sân khấu và sự chú ý của đám đông. Theo một khảo sát ở Anh, cứ 10 thiếu niên thì có một người sẵn sàng bỏ học để xuất hiện trên TV. 16% tin rằng rồi chúng sẽ nổi tiếng. Vietnam Idol 2015 thu hút 30.000 thí sinh dự thi. Hai vợ chồng hát rong Đào và Thanh trong Điều ước thứ bảy đặt tên con là Sao Mai để mong sau này nó được lên Sao Mai điểm hẹn. Trong Vietnam Next Top Model, một thí sinh xuất thân nông thôn sung sướng nói vào ống kính: “Tôi rất phấn khích, tôi cảm thấy mình như một người lổi tiếng.”
Quả thật, chứng kiến một cô gái cao lêu đêu lóng ngóng quê mùa, chỉ sau mấy tập của Vietnam Next Top Model đã treo mình bên ngoài vách kính của một cao ốc hiện đại làm người mẫu cho một bộ ảnh thời trang, người xem truyền hình khó tránh được cảm giác mình đang chứng kiến một cuộc hóa thân ngoạn mục, như câu chuyện cô gái bình dân may mắn gặp hoàng tử.
Truyền hình thực tế đã trở thành thuốc phiện mới của quần chúng. 40% diện tích đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ bị nhấn chìm bởi ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ư? Mỗi năm hàng nghìn ha rừng ở Tây Nguyên bị tàn phá và lấn chiếm ư? Hãy để những chuyện đó sang một bên, đừng làm tớ mất tập trung, cuộc đua giữa “hoàng tử tóc xoăn” và “cô bé khiếm thị” đang gay cấn.
“Quẳng gánh lo đi và xem truyền hình thực tế” là khẩu hiệu sống mới.
“Khi dân chúng bị sao nhãng bởi những điều tầm phào, khi đời sống văn hóa được tái định nghĩa thành một cuộc giải trí vĩnh cửu, khi những hội thoại nghiêm túc trở thành cái bập bẹ của trẻ nhỏ,”
nhà phê bình Neil Postman viết trong cuốn Tiêu khiển cho tới chết: Diễn ngôn công trong thời đại show biz của ông, “tóm lại, khi người dân trở thành khán giả, những quan tâm của họ thành trò tạp kỹ, thì một dân tộc đang gặp hiểm nguy; cái chết về văn hóa là một khả năng rõ ràng.”
Gần đây, báo chí đã ca thán khá nhiều về sự nhạt nhẽo và tình trạng bão hòa của các show truyền hình thực tế ở Việt Nam, và kêu gọi xã hội cần “tỉnh táo”. Liệu chúng ta có thể hy vọng làn sóng truyền hình thực tế sẽ có điểm dừng?
Các tác giả Đức Georg Seeßlen và Markus Metz cho rằng không.
Sự nhố nhăng, kệch cỡm, thô thiển và rẻ tiền của các chương trình này, các cố gắng gây sốc, gây sốt của chúng sẽ vẫn tiếp tục. Hai tác giả gọi các ngành công nghiệp truyền thông, quảng cáo, show biz, thời trang hiện đại là những cỗ máy làm con người ta trở nên đần độn. Trong cuốn Những cỗ máy làm đần: Quá trình sản xuất ra sự ngớ ngẩn, họ cảnh báo là quá trình đần độn hóa này sẽ luôn tiếp diễn. “Một đặc điểm cơ bản của cỗ máy làm đần này là nó muốn tạo ra giải trí bằng mọi giá. Mục tiêu của nó là tăng trưởng vô độ, và do đó, sự sản xuất ra những tiêu khiển liên miên một mặt gây cảm giác thừa mứa, mặt khác tạo ra mong muốn có thêm những tiêu khiển nữa, mới hơn, đần độn hơn.” Nói nôm na, giống như với bất cứ thói nghiện nào, càng ngày người ta càng cần những liều nặng đô hơn. Họ thèm khát cái khoái cảm chốc lát mà không biết là mình đang đi vào bần cùng, ở đây là bần cùng về tinh thần.
Với triết gia người Đức Norbert Boltz, sự khác nhau giữa trước kia và ngày nay là trước kia cái thô thiển và rẻ tiền phải bị giấu giếm đi, còn ngày nay chúng chiếm những vị trí quan trọng nhất, dương dương tự đắc, vì chúng đem lại nhiều tiền nhất.
Theo nhà nghiên cứu truyền thông Mỹ George Gerbner, người kể những câu chuyện văn hóa cũng là người chi phối các hành vi của con người. “Trước kia, người kể chuyện là cha mẹ, trường học, tôn giáo, cộng đồng,” ông chỉ ra thêm một thay đổi nữa trong xã hội. “Ngày nay, đó là một nhóm nhỏ các công ty, họ không có gì để kể nhưng lại có rất nhiều thứ để bán.”
Chúng ta đã trở thành những con bò ngoan ngoãn ăn cỏ trong chuồng của những tập đoàn truyền thông. Trong cơn đói tiêu khiển vô độ, chúng ta đã quên mất rằng mình không còn tự do.
Tháng Năm 2015 .
THAY CHO GIỚI THIỆU TÁC GIẢ(1) :
Là tiến sĩ kinh tế người Áo gốc Việt, anh đã có một cuộc sống có thể nói là giấc mơ với rất nhiều người Việt tại một quốc gia phát triển hàng đầu châu Âu. Vì sao anh quyết định về nước?
Mỗi người có một giấc mơ khác nhau. Người thì mong có một công việc ổn định, thu nhập cao, người lại chỉ muốn leo được lên đỉnh Everest. Tôi muốn có một môi trường mới mẻ, gặp được những người thú vị, làm được nhiều điều khác nhau. Tôi ưa thích một tương lai bất ngờ, khó đoán định; và không muốn một lộ trình được vạch ra rõ ràng...
Anh trở về Việt Nam vì muốn tìm một tương lai mạo hiểm hơn ư?
Cuộc sống ở Việt Nam nhiều bất ổn hơn, nhưng cũng thú vị hơn nhiều cuộc sống ở châu Âu...
Ở góc độ nào?
Bất ổn vì tỉ lệ tai nạn giao thông cao hơn, nền y tế không hiện đại bằng, mua nhà đất thì cũng rủi ro vì chả biết khi nào bị thu hồi, v. v...
Nhưng ở Việt Nam người ta có thể thử nghiệm bản thân trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này chỉ có thể làm được trong một xã hội chưa có độ chuyên môn hóa cao. Ở phương Tây, mỗi người có một chỗ đứng như một mắt xích trong dây chuyền xã hội. Việt Nam đang chuyển dịch, đang đầy những đứt gãy xã hội, những xung đột về giá trị và văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa. Điều này thực sự thú vị, tuy rằng có thể gây hoang mang.
Có nghĩa giấc mơ phương Tây sẽ không tròn trịa khi ở trong nó?
Anh từ bỏ “thiên đường châu Âu” để về với “sự lộn xộn” của Việt Nam?
Nếu đã sống ở nhiều nơi, bạn sẽ thấy không có nơi nào hoàn hảo cả. Ở đâu cũng có cái hay và cái dở, nhưng chắc chắn không có xã hội nào chỉ lung linh như một giấc mơ. Ở đâu thì khả năng bạn không hạnh phúc cũng khá cao.
Phương Tây có thể sạch sẽ và giàu có, nhưng không phải thiên đường. Tuần trước CNN vừa đưa tin là ở một thành phố Mỹ, một người phụ nữ độc thân đã chết trong nhà, và chỉ sau năm năm người ta mới phát hiện ra, khi lệnh trả tiền tự động hằng tháng của bà ta không được thực hiện nữa vì tài khoản của bà ta hết tiền.
Trong năm năm đó, không có người thân, bạn bè, hàng xóm nào để mắt xem bà ta sống chết thế nào.
Sự lộn xộn, nhếch nhác ở Việt Nam gắn liền với mức phát triển kinh tế của chúng ta, nó không có gì đặc thù Việt. Các nước đang phát triển khác cũng lộn xộn, bụi bặm, thiếu quy củ như vậy. Cũng khó mà yêu cầu những người nghèo đang vật lộn hằng ngày phải lịch sự, đi nhẹ nói khẽ, và nhường nhịn người xung quanh. Những người không còn nghèo nữa thì vẫn mang thói quen từ thời bao cấp đã ăn sâu trong tiềm thức, nên họ vào resort cao cấp rồi mà vẫn chen lấn nhau khi lấy đồ ăn.
Anh có vẻ lạc quan về “thói xấu” của người Việt?
Tôi chỉ muốn đưa ra những phân tích và lý giải - khi hiểu vì sao họ lại xử sự như vậy thì ta cũng dễ yêu thương và thông cảm với họ hơn.
Người Việt mỗi khi bức xúc hay nói: “Ở Tây khác lắm, Tây sẽ không thế đâu.” Người “từ bển về” như anh có đồng tình?
Không có văn hóa nào lại ưu việt toàn phần hơn các văn hóa khác. Tôi ngạc nhiên thấy tâm lý sùng bái phương Tây hiện hữu đến vậy ở Việt Nam. Theo tôi, phương Tây đang có những bế tắc trong xã hội, trong quan hệ giữa người và người. Nói một cách thật khái quát thì chừng nào lệnh chuyển tiền tự động của bạn vẫn hoạt động, không ai quan tâm bạn sống hay chết.
Có lý do gì để anh “phá” giấc mơ phương Tây thế nhỉ? Giấc mơ phương Tây đang được thể hiện rõ qua khát vọng đưa con đi du học để đổi đời của người Việt, thậm chí có thể bán nhà bán cửa nếu cần?
Giấc mơ này rất mâu thuẫn và hời hợt. Họ muốn con họ có bằng cấp của Tây, nhưng nếu chúng thấm nhuần văn hóa và suy nghĩ phương Tây - ví dụ con gái không chịu lấy chồng, hay con trai mà đi học triết học - thì họ sẽ rất hốt hoảng. Người Việt không muốn thành phương Tây đâu, họ chỉ mơ cuộc sống vật chất phương Tây mà thôi. Có thể nói là giấc mơ phương Tây bị mắc kẹt trong cái bảo thủ phương Đông.
Nhưng anh nói rằng phương Tây đang “thèm khát” văn hóa gia đình, bạn bè của người phương Đông mà?
Đúng vậy, nhưng không nên cực đoan quá. Phương Tây đặt cá nhân lên trên hết, và làm con người mất phương hướng. Người Việt lại quá lo lắng xem tập thể nghĩ gì về mình, khiến họ tự đàn áp cái tôi của mình. Điều này làm thui chột sự sáng tạo và khiến người ta khổ sở.
Người Việt cũng hay rơi vào giữa hai thái cực cực đoan, khi thì kiêu ngạo, nghĩ mình là ưu tú hơn hết, lúc thì tự ti, coi mình thuộc loại vô phương cứu chữa.
Điều gì khiến anh thấy khó chịu nhất khi sống ở phương Tây?
Họ cao to quá, mình nhỏ bé hơn nhiều (theo nghĩa đen) , khi nói chuyện mình cứ phải ngước hết cả lên, mỏi cổ và khá khó chịu.
Nghiêm túc hơn: xã hội phương Tây coi trọng thành công vật chất. Xe xịn, nhà to, những chuyến đi đặc biệt... là những khát vọng cơ bản thúc đẩy xã hội phương Tây vận hành. Việt Nam cũng vừa đi lên con đường cao tốc này. Chúng ta đang có hai loại đền thờ, một là chùa chiền để người ta tới cầu may từ thánh thần. Loại thứ hai là các shopping mall thờ chủ nghĩa vật chất, người ta tới chiêm ngưỡng hàng hiệu như một trải nghiệm gột rửa tâm linh.
Để mỗi cá nhân hội nhập thành công, theo anh yếu tố cốt lõi là gì?
Nên tôn trọng bản thân, không quá lo lắng xem mọi người sẽ phản ứng như thế nào. Hãy coi mình là một cá thể độc lập, trước khi băn khoăn mình có làm mất thể diện của họ tộc nhà mình, làng mình, tỉnh mình, và quốc gia của mình hay không.
BI THƯƠNG NGƯỢC DÒNG CHẢY THÀNH SÔNG :
Tác giả chỉ nhờ tôi viết lời bạt. Nếu anh tham khảo tôi từ lúc đặt tên, có thể tôi sẽ đề xuất với anh một cái tên lâm li hơn, theo kiểu tản văn của các tác giả trẻ hay là ngôn tình Trung Quốc bây giờ.
Kiểu như là Bi thương ngược dòng chảy thành sông của Quách Kính Minh chẳng hạn.
Đặt tên thế nhiều khả năng sẽ bán chạy hơn. Vài vạn bản. Bạn thấy đấy, chúng ta sống trong một thời đại mà ở những bữa ăn ngon nhất, khung cảnh lãng mạn nhất, trên những nền tảng công nghệ tiện ích nhất, ta vẫn phải quay quắt với câu hỏi điều gì đang diễn ra trong xã hội mình. Đâu đó trên mặt báo sáng nay, trên vỉa hè chiều nay là một câu chuyện đắng chát. Những chuyện ấy, ta kể cho nhau nghe khi ăn cơm. Một thời đại thực sự bi thương.
Sách của anh Giang buồn. Chính luận mà buồn. Vì nước ta bây giờ cái gì cũng có vẻ buồn. Tôi thấy nhiều nhà báo quanh tôi bây giờ thay vì viết chính luận lại đăng thơ Lưu Quang Vũ lên facebook. Thơ rất buồn. Anh Giang kể chuyện nhân viên của cái trường đại học, gom những phong bì lại, để ngoan ngoãn đi ăn giỗ mẹ- ông-hiệu-trưởng, tôi thấy buồn. Anh lập luận về nền du lịch Việt Nam đang đi đến cái nước “rồi tất cả sẽ trở thành Đồ Sơn” , tôi cũng thấy buồn. Anh bênh người nghèo, tôi càng buồn, vì sao người nghèo đã đi đến cái nước cần phải được bênh vực trước sự lạnh lùng của dân thị thành?
Đặt tên lãng mạn một chút cũng không sao. Bởi sự bi thương mà chúng ta đang nếm trải trong thời đại này là một thứ gì rất xa vời như tiểu thuyết. Chuyện ở dãy phố bên kia, nghe như chuyện trong tiểu thuyết Balzac thế kỷ 19, đau lòng như thế và xa xôi như thế. Chẳng phải là chuyện của bất kỳ ai.
Anh Giang là một nhà khoa học, anh sẽ không đồng ý với tôi. Anh sẽ nói rằng đây là một cuốn sách thực sự nghiêm túc mang tinh thần phản biện xã hội, với những luận cứ trùng trùng của một người uyên bác. Sự nhiệt huyết, chân thành và trọng thị của tác giả, trong việc phân tích những bi thương, rốt cuộc, tôi cũng không biết có phải là một loại bi thương không.
Nhưng cuối cùng, trong thâm tâm, tôi mong tác giả sẽ giữ tinh thần của cuốn sách này được nhiều năm nữa để tôi còn có cái mà đọc, không bị ảnh hưởng bởi những thứ quan điểm thị trường và sự lãng mạn kiểu đô thị như tôi. Một góc nhìn thẳng thắn và tỉnh táo, xoáy vào nhiều vấn đề bằng một con dao mổ sắc cạnh của tri thức.
Ngày trước, tôi yêu một cô gái học trường Y. Cô thần tượng những con dao mổ. Chúng nhỏ bé, tinh xảo và toát lên vẻ nghiêm khắc của nghề chữa bệnh. Là một thứ biểu tượng của tinh thần khoa học. Dao mổ đắt tiền, sinh viên không dễ mà mua được. Cô ấy tìm mua đâu được một con dao mổ cũ cho thỏa cơn thèm. Tôi nhớ có lần, chúng tôi chơi đùa, tôi đã thử ấn ngón cái vào lưỡi dao xem sao. Nó đúng là thứ chẳng mang một tí lãng mạn nào.
Từ lâu, những cây viết của nước ta vẫn dùng dao gọt hoa quả có lưỡi lượn sóng để mổ xẻ các vấn đề, như chính tôi, bạn đã thấy: chỉ làm cho bi thương trở thành một thứ lãng mạn và dễ đọc, dễ bán.
Bản thân tôi khi ăn sushi cũng hay cười nói rổn rảng với tư cách một người chiến thắng của nền xuất bản. Chúng ta thiếu những con dao mổ lạnh, nằm trong những bàn tay ấm.
Cuốn sách với cái tên kiểu này sẽ khó mà bán chạy được. Lại là một kiểu nỗi buồn. Nhưng bạn sẽ hiểu tại sao nó lại ra đời, ở ngay những trang đầu, trong bài Vẻ đẹp của người chạy marathon về chót.
ĐINH ĐỨ C HOÀNG .
VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI CHẠY MARATHON VỀ CHÓT :
Mỗi khi có dịp tới xem một cuộc chạy marathon, tôi thường không quan tâm lắm tới người vô địch và liệu anh ta có phá được kỷ lục này nọ hay không. Tôi thấy những người về chót thú vị hơn nhiều.
Lần nào cũng vậy, khi những người thắng cuộc đã lên bục nhận giải, chụp ảnh, trả lời truyền hình, rồi đã về nhà tắm rửa xong, thì nhóm người này vẫn hì hục, nhẫn nại ở những cây số cuối cùng.
Tôi đứng ở ven đường để ngắm lòng quyết tâm đầy đau đớn của họ. Thường khi họ rẽ vào khúc ngoặt cuối cùng dẫn tới đích thì các băng rôn đã được tháo xuống từ lâu, cũng không còn ai đứng ở vạch đích để bấm thời gian cho họ, và người xem cũng đã ra về gần hết. Bám sát gót những người đang lê lết này là các nhân viên vệ sinh khua chổi quét đường.
Tôi không để ý tới những người về đầu vì họ là dân chuyên nghiệp, họ sinh ra để dẫn đầu, họ có tố chất để làm điều siêu phàm. Những người về cuối thì hiểu rằng họ không có vai trò gì trong cái cuộc thi thố này. Họ chẳng đem lại vinh quang cho ai, mà thất bại của họ cũng không làm ai mảy may quan tâm. Động cơ để họ cắn răng lê bước tiếp không phải là những gửi gắm của một tập thể, chẳng phải là danh dự của một quốc gia, hay danh tiếng của bản thân mà họ cần phải bảo vệ. Họ đơn thuần bướng bỉnh và có thể hơi điên rồ. Họ tiếp tục chỉ vì bỏ cuộc không phải là lựa chọn của họ.
Cái bướng bỉnh và điên rồ của những con người bình thường này có cái gì đó thật lôi cuốn tôi. Nó làm tôi liên tưởng tới câu chuyện mà tôi mới được biết về em bé sáu tuổi da đen Ruby Bridges - cũng là một cuộc chạy marathon, nhưng ở dạng khác.
Vào cuối những năm 1950, bang New Orleans ở Mỹ đã xóa bỏ sự phân biệt màu da ở các thư viện, trên xe buýt và ở các công viên công cộng, duy ở các trường học thì vẫn không. Năm 1960, một tòa án liên bang ra quyết định bắt chính quyền bang này phải cho phép học sinh da đen tới các trường vốn dành cho da trắng. Ruby đăng ký học lớp một ở một trường gần nhà. Em sẽ là học sinh da đen đầu tiên và duy nhất của trường vào năm đó. Ngày nhập trường, bốn cảnh sát tòa án liên bang hộ tống Ruby và mẹ em tới trường trong một chiếc xe limousine lớn. Đợi họ ở cổng trường là một đám đông da trắng giận dữ, gào thét, chửi rủa. Xuống xe, hai cảnh sát đi trước, hai đi sau để bảo vệ, họ đi dọc những bức tường đầy vết cà chua và những dòng chữ thóa mạ. Một người đàn bà da trắng gào lên: “Tao sẽ đầu độc mày, tao sẽ tìm được cách.” Nhớ lại hành trình đi qua đám đông hung dữ đó, một cảnh sát liên bang nói về Ruby: “Em không khóc. Em không thút thít. Em chỉ rảo bước đi, như một người lính bé nhỏ. Tất cả chúng tôi đều rất tự hào về em.”
Cả ngày hôm đó, hai mẹ con không dám bước chân ra khỏi phòng hiệu trưởng. Qua vách kính, họ chứng kiến cảnh các phụ huynh da trắng xông vào trường và giận dữ kéo con mình ra ngoài.
Ngày hôm sau, cảnh sát lại hộ tống Ruby, đám đông da trắng lại gào thét ở cổng trường. Ám ảnh nhất với Ruby là hình ảnh một chiếc quan tài với một búp bê da đen nằm bên trong. Bên trong trường vắng tanh, không có một học sinh nào khác ngoài em. Toàn bộ các giáo viên cũng từ chối đứng lớp. Toàn bộ, trừ một cô giáo trẻ tên là Barbara Henry. Hôm đó, cô bắt đầu dạy bảng chữ cái, như trước một lớp học bình thường. Và trong một năm học đó, ngày này qua ngày khác, lớp chỉ có một thầy một trò.
Đọc những dòng trên thật dễ dàng, chỉ vài giây là xong. Nhưng chúng ta hãy dừng lại một chút để hình dung ra những gì mà Ruby và gia đình em đã trải qua. Một năm trời lủi thủi một mình, không có bạn chơi, một năm trời một đứa bé lớp một hứng chịu sự căm thù của người lớn. Cái giá phải trả không chỉ là sự cô đơn và khủng bố tinh thần mà Ruby sáu tuổi phải trải qua hằng ngày. Bố Ruby bị đuổi việc vì sự cả gan của mình. Cửa hàng thực phẩm quen từ chối bán hàng cho mẹ em. Ngay cả ông bà của Ruby ở Mississippi cũng bị đuổi khỏi mảnh đất mà họ đã thuê để trồng trọt trong 25 năm qua, khi câu chuyện lan tới bang này.
Trong năm đó, mỗi ngày là một cơ hội để Ruby chuyển sang trường tiểu học khác, nơi các bạn da đen của em đang học với nhau, và cuộc sống sẽ trở lại bình thường, sẽ như cũ. Bố mẹ Ruby không phải những người hoạt động xã hội hay tham gia chính trị gì. Với một đứa bé sáu tuổi, với một gia đình lao động nghèo và ít học, sự cám dỗ để bỏ cuộc đã phải lớn tới mức nào. Thật khó mà lý giải được sự bướng bỉnh và điên rồ nơi họ. Họ vẫn tiếp tục vì bỏ cuộc không phải là lựa chọn của họ. Vì “như cũ” không phải là điều họ muốn.
Chúng ta hay có xu hướng bám lấy những người siêu phàm, những người được cho rằng một tay thay đổi thế giới, mà bỏ qua câu chuyện của những kẻ người trần mắt thịt như chính bản thân chúng ta, những người lê lết đau đớn ở cuối đoàn marathon, những người như em Ruby. Đây là một điều đáng tiếc. Bởi vì khi chúng ta bị thu hút bởi những người xuất chúng và nổi tiếng, chúng ta dễ rơi vào tâm lý chờ đợi, phó thác. “Cái thể chế này nó thế,” chúng ta nói, và khoanh tay chờ đợi. Chúng ta đợi một Lý Quang Diệu mới xuất hiện để bộ máy công quyền trơn tru hơn, đợi một Mẹ Teresa mới để lòng tử tế nảy nở trong cộng đồng, đợi một Martin Luther King mới để sự bình đẳng được lan truyền trong xã hội.
Khi Ruby lên lớp hai, em không cần cảnh sát liên bang hộ tống nữa. Không còn đám đông la ó trước cổng trường nữa. Trẻ em da trắng lại tới trường, cùng với Ruby và thậm chí cả vài học sinh da đen khác.
Điểm chung trong cuộc vật lộn của những con người vô danh này là họ hành động vì họ cho rằng họ cần làm như vậy, không phải vì có người khác nhìn vào họ, trông chờ vào họ, hay trao nhiệm vụ cho họ. Họ không đại diện cho ai cả, và có lẽ sự kiên cường của họ đến từ điểm này. Những cuộc marathon bướng bỉnh và điên rồ của những con người bé nhỏ, nếu may mắn như trong trường hợp của Ruby thì được nhắc tới trong một chú thích bé tí của lịch sử, nhưng phần lớn xảy ra âm thầm, không ai biết tới.
Nhưng tôi tin rằng không có họ thì cũng không có thay đổi trong xã hội.
Tháng Hai 2014
CÁI TÁT HỮU HÌNH CỦA BÀN TAY VÔ HÌNH :
Trong một thời gian dài, Việt Nam tin rằng nhà nước có thể làm được mọi việc. Cho tới tận giữa những năm 1990, người ta đi theo cơ chế kinh tế kế hoạch. Điều đó có nghĩa là hằng năm, người ta phải lên kế hoạch năm đó Việt Nam sẽ phải sản xuất bao nhiêu mét vải, bao nhiêu cái kim, bao nhiêu cái cúc, sẽ phải có bao nhiêu máy khâu để bao nhiêu người thợ may sử dụng trong bao nhiêu nhà máy may mặc, rồi phải chở quần áo bằng bao nhiêu xe tải tới bao nhiêu cửa hàng và bán với giá như thế nào. Một bài toán có độ phức tạp khổng lồ, và như chúng ta đã biết, giấc mơ vĩ đại mang tên kinh tế tập trung đã phá sản, nhưng chỉ sau khi đã kéo đất nước xuống đáy của nghèo đói.
Thay vào đó là sự thông thái và uyển chuyển của nền kinh tế thị trường. Bàn tay vô hình của thị trường, nói theo Adam Smith, sẽ khéo léo điều tiết nhịp nhàng giữa cung và cầu mà nhà nước không cần can thiệp. Nó sẽ thiết lập mức giá cả, dịch chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu, nhân lực, và vốn đầu tư từ chỗ này qua chỗ khác, tất cả để phục vụ cho mục đích tối cao là kẻ bán và người mua gặp nhau. Điều duy nhất mà nhà nước phải bảo đảm để bàn tay của thị trường biểu diễn điệu múa vô hình là tạo ra sự yên tâm cho các bên, bên sản xuất và bên tiêu dùng: tài sản cá nhân được bảo vệ, các hợp đồng được tuân thủ dưới con mắt theo dõi của pháp luật, và thông tin được lưu thông để những người tham gia thị trường có những quyết định mua bán hợp lý.
Không còn nghi ngờ gì nữa, sự chuyển dịch từ kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường đã là yếu tố quyết định cho quá trình tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của Việt Nam trong hai thập kỷ qua.
Trong khi các siêu thị và shopping mall trở thành những đền thờ tôn vinh chiến thắng của thị trường tự do, thì những thảm họa của các tập đoàn nhà nước trong mấy năm gần đây là những minh chứng vì sao nhà nước nên để sân chơi cho các công ty tư nhân.
Một nền kinh tế bị chi phối chủ đạo bởi khu vực nhà nước là một nền kinh tế kém hiệu quả, kém cạnh tranh, kém sáng tạo, trì trệ, và là nơi ẩm thấp để tham nhũng nảy nở.
Tuy nhiên, trước khi cổ súy hết mực cho thị trường tự do, chúng ta cần ý thức được về những điểm yếu của nó, những điểm yếu không hề nhỏ - thậm chí đã trở thành vấn nạn cho các quốc gia, đã đạt tới mức khủng hoảng toàn cầu. Khi nào thì điệu múa của bàn tay vô hình trở nên những chuyển động điên rồ làm ta điên đảo?
Người đầu tiên viết về những bất cập của thị trường là Francis Bator, với bài Phân tích sai lầm của thị trường (The anatomy of market failure) năm 1958, và trong nửa thế kỷ qua, lực lượng tham gia lĩnh vực nghiên cứu này đã trở nên hết sức hùng hậu, với các học giả nổi tiếng như Joseph E. Stiglitz, người được giải thưởng Nobel Kinh tế năm 2001. Chúng ta hãy điểm qua những cái tát của bàn tay vô hình mà chúng ta sẽ nhận được khi nhà nước không đủ khả năng điều tiết và quản lý:

