Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi - Chương 03
YẾU TỐ THỜI GIAN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Sau khi đã đề cập đến một số cách thức trong đó tình yêu của cha mẹ (hay sự thiếu vắng tình yêu của cha mẹ) có thể ảnh hưởng đến việc phát triển ý thức kỷ luật, tức qui phạm, nói chung - và khả năng đình hoãn khoái cảm nói riêng; chúng ta hãy khảo sát một số tính cách tuy tế nhị hơn song cũng rất có sức tàn phá - trong đó những yếu kém trong khả năng đình hoãn khoái cảm đem lại biết bao hệ lụy trong cuộc đời của đa số người trưởng thành. Cần ghi nhận rằng đa số chúng ta may mắn có được khả năng tương đối trong việc đình hoãn khoái cảm - và nhờ đó đã đi qua tuổi thiếu thời để đến tuổi trưởng thành mà không phải nếm mùi... “trại giam”; dù vậy, khả năng ấy của chúng ta vẫn không toàn vẹn - bằng chứng là chúng ta vẫn còn tỏ ra ít nhiều chệnh choạng khi giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
Mãi đến năm ba mươi bảy tuổi tôi mới học biết làm thế nào để sửa chữa các đồ dùng bị hỏng hóc. Trước đó thì dường như mọi cố gắng của tôi mỗi lần thử sửa món này vật nọ đều kết thúc trong sự lúng túng, thất bại và nản lòng. Dù đã vượt qua bấy nhiêu năm để tốt nghiệp trường Y và dù là rường cột của một gia đình trong tư cách là một bác sĩ tâm thần được ít nhiều tên tuổi, tôi vẫn tự xếp mình vào loại ngốc trong lãnh vực máy móc. Tôi đi đến chỗ nhất mực tin rằng mình bị thiếu cái “gen” nào đó và bẩm sinh mình không có khả năng về mấy thứ máy móc. Thế rồi một ngày kia vào cuối năm ba mươi bảy tuổi, trong khi đang tản bộ theo thói quen ngày Chủ nhật, tôi gặp một anh hàng xóm đang mải mê sửa chiếc máy cắt cỏ. Sau lời chào xã giao, tôi nói với anh: “Này anh bạn, tôi phải phục anh đó. Tôi chẳng bao giờ tự mình sửa được những dụng cụ trong nhà như anh”. Anh hàng xóm trả lời tôi không chút lưỡng lự: “Ồ, chỉ tại bác không dành thì giờ đủ để làm đấy thôi”. Tôi tiếp tục cuộc tản bộ của mình, trong lòng rất áy náy về câu trả lời chất phác, rõ ràng và thật thẳng thắn của người hàng xóm. Rất có thể anh ta nói đúng đấy chứ! Thế là ít lâu sau, tôi có dịp để thử trắc nghiệm điều anh hàng xóm ấy nói. Cái thắng xe hơi của một nữ bệnh nhân của tôi bỗng dưng bị kẹt, không nhả ra, và chị ta biết rằng cần phải sửa một cái gì đó phía dưới gầm xe để cái thắng có thể nhả ra - song chị ta không biết rõ cái phải sửa đó là cái gì. Tôi xắn tay áo, chui xuống nằm rạp dưới gầm xe, phía trước. Tôi chờ một chút để cho mình cảm thấy dễ chịu với cái tư thế này. Khi đã cảm thấy hoàn toàn dễ chịu, tôi mới bắt đầu xem xét cái xe. Tôi chỉ nhìn thôi chứ không táy máy gì trong mấy phút. Thoạt đầu, tất cả những gì mà tôi trông thấy chỉ là một mớ lung tung những bu-loong, những ống, những dây điện mắc ngang dọc mà tôi chẳng hiểu ất giáp gì về công dụng của chúng. Song tôi cứ nhẩn nha quan sát - và kìa, cuối cùng tôi đã có thể nhận ra bộ phận thắng xe, tôi tập trung chú ý vào bộ phận đó và lần dò xem xét. Có một cái chốt nhỏ chặn ngang không cho phép cái thắng nhả ra. Tôi chậm rãi nghiên cứu cái chốt ấy cho đến khi tôi thấy rõ rằng nếu mình dùng ngón tay ấn nhẹ nó thì nó sẽ không chặn kẹt cái thắng nữa. Tôi làm y như thế, chỉ một cái ấn nhẹ của đầu ngón tay thôi và kết quả đúng như tôi dự đoán. Tôi là một thợ máy xuất sắc đấy chứ!
Dĩ nhiên là tôi không trở thành thợ máy thực đâu, tôi cũng không có thời giờ để học biết cách sửa chữa mọi thứ hỏng hóc thuộc máy móc - vì nghề của tôi là tập trung thời giờ cho những vấn đề không phải máy móc. Cho nên tôi cứ vẫn tiếp tục chạy đến với người thợ sửa máy ở gần chỗ mình. Nhưng bây giờ thì tôi biết rằng đây là điều mình chọn lựa, chứ mình không hề thiếu cái “gen” về máy móc một cách bẩm sinh. Tôi hiểu rằng mình - cũng như bất cứ ai không bị khiếm khuyết tâm thần - đều có thể giải quyết bất cứ vấn đề gì nếu như thật lòng muốn dành thời gian để giải quyết.
Vấn đề “thật lòng muốn dành thời gian” quả rất quan trọng. Bởi vì rất nhiều người duy chỉ vì không dành thời gian đủ mà phải gặp biết bao khó khăn trong cuộc sống về mặt tâm linh, trí thức và xã hội - cũng như bản thân tôi do không dành thời gian đủ mà đã phải dở khóc dở cười với ba cái máy móc kia. Nếu như tôi không hiểu chìa khóa của vấn đề, rất có thể tôi lại lúng túng dí đầu vào gầm xe của người nữ bệnh nhân ấy, lụp chụp sờ soạng hết mối dây này đến con ốc khác mà không hề biết mình đang làm cái chi; thế rồi khi chẳng thấy kết quả gì, tôi sẽ phủi tay và tuyên bố: “Chà, chịu thôi, đây không phải chuyện thuộc khả năng của tôi”. Đấy cũng chính là cách mà phần đông trong chúng ta phản ứng trước những khó khăn trong cuộc sống đời thường. Người nữ chuyên viên phân tích tài chánh được đề cập đến trước đây vốn là một bà mẹ rất yêu thương và nhiệt tâm song cũng có phần bất lực đối với hai đứa con của chị. Chị có đủ nhạy bén và quan tâm để nhận ra mỗi khi các con chị gặp khó khăn nào đó về mặt xúc cảm hoặc mỗi khi có sự cố xảy đến trong quá trình chị nuôi dưỡng chúng. Song rồi chị đã không tránh khỏi chọn một trong hai cách hành động đối với bọn trẻ như sau: - hoặc chị thực hiện ngay điều mà chị vụt nghĩ đến, chẳng hạn bắt chúng ăn thêm trong bữa điểm tâm hay bắt chúng vào giường ngủ sớm hơn vào buổi tối, không cần biết những điều ấy có liên quan thế nào đến chính vấn đề - hoặc chị đến gặp tôi trong buổi trị liệu tâm lý, và thở dài: “Tôi bó tay rồi. Tôi phải làm gì bây giờ, thưa bác sĩ?” Bạn đừng quên đây là một phụ nữ có bộ óc rất sắc bén kể từ khi chị hết còn ì ạch trì trệ nữa, chị đã có đầy đủ khả năng để giải quyết mọi rắc rối trong công việc ở sở. Tuy nhiên, khi đối diện với những vấn đề riêng tư, chị lúng túng y như thể một kẻ hoàn toàn mụ mẫm. Cốt lõi của vấn đề ở đây chính là thời gian. Khi chị nhận ra một khó khăn riêng tư nào đó, chị sốt ruột đến nỗi đòi hỏi sao cho nó phải được dứt điểm ngay; chị không đủ nhẫn nại để chịu đựng nó cho đến khi phân tích được nó một cách bình tĩnh. Việc giải quyết khó khăn đó sẽ đem lại sự khoan khoái cho chị, và chị không đủ khả năng đình hoãn sự khoan khoái này dù trong dăm ba phút thôi - và hậu quả là những cách giải quyết của chị phải triền miên trong tình trạng căng thẳng. Cũng may là nhờ chị kiên trì theo đuổi việc trị liệu tâm lý, chị đã dần dần học biết cách khuôn khổ hóa chính mình và biết dành đủ thời gian cần thiết để phân tích những vấn đề trong gia đình và đi đến những cách giải quyết thực sự sáng suốt và hữu hiệu.
Ở đây chúng ta không đang nói đến những khó khăn thuộc dạng đặc thù của những người rõ ràng tỏ ra có những rối loạn lớn về mặt tâm thần. Người nữ chuyên viên phân tích tài chính ấy là một người bình thường như mỗi người chúng ta thôi. Ai trong chúng ta dám tự nhận rằng mình luôn luôn dành đủ thời gian để phân tích những khó khăn hay những căng thẳng của con cái mình trong gia đình? Ai trong chúng ta có đủ ý thức kỷ luật để không bao giờ thoái thác theo kiểu “chuyện ấy vượt quá khả năng của tôi” khi đối diện với các vấn đề trong gia đình?
Thực ra, có một sai lầm có tính căn cơ hơn và tai hại hơn cả những cố gắng nóng vội trong việc giải quyết vấn đề, sai lầm này xem ra cũng phổ biến hơn. Sai lầm đó là người ta hy vọng rằng các vấn đề sẽ tự nhiên biến mất mà không cần phải xử lý gì. Một chàng trai độc thân ba mươi tuổi làm nghề chào hàng nọ vốn sinh hoạt trong một nhóm trị liệu tâm lý tại một thị trấn nhỏ. Anh ta bắt đầu quan hệ với một phụ nữ vốn là vợ mới ly hôn của một chủ nhà băng đồng thời cũng là một thành viên của nhóm trị liệu. Anh chàng chào hàng biết ông chủ nhà băng là một tay đàn ông ưa cáu kỉnh và ông ta rất bực bội vì chuyện vợ ông chia tay ông. Anh ta cũng biết rằng mình không thành thật cả với nhóm lẫn với người chủ nhà băng kia vì đã không thố lộ mối quan hệ giữa mình với người đàn bà ấy. Anh cũng biết chẳng sớm thì muộn mối quan hệ này sẽ lộ ra thôi. Anh cảm thấy giải pháp duy nhất là thú nhận mối quan hệ ấy với nhóm và sẵn sàng nhận chịu cơn phẫn nộ của người chủ nhà băng - dĩ nhiên là nhóm sẽ có cách nâng đỡ anh. Nhưng anh chẳng làm gì cả. Ba tháng sau, người chủ nhà băng khui ra được mối quan hệ ấy, ông ta nổi giận đùng đùng và nại cớ ấy để bỏ ngang quá trình trị liệu tâm lý của mình. Khi được những người khác trong nhóm chất vấn về cách ứng xử tai hại của mình, anh chàng chào hàng nói: “Tôi biết rằng nếu mình nói chuyện ấy ra sẽ có chuyện ồn ào, và tôi cho rằng nếu mình cứ giữ lặng thinh thì có thể mọi việc sẽ đâu vào đấy mà khỏi có sự ồn ào. Tôi cứ đinh ninh rằng với thời gian thì vấn đề sẽ tự nó trôi qua thôi”.
Các vấn đề sẽ tự nó trôi qua ư? Không đâu, bạn phải xử lý chúng, nếu không thì chúng sẽ cứ còn hoài - và mãi mãi chúng là lá chắn chặn đứng cuộc phát triển tâm linh của bạn.
Nhóm trị liệu đã thẳng thắn vạch ra cho anh chàng chào hàng thấy rằng việc anh tránh né sự giải quyết vấn đề bằng cách phớt lờ vấn đề với hy vọng là tự nó sẽ trôi qua... đó chính vấn đề chủ yếu nhất của anh. Thế rồi bốn tháng sau, vào đầu mùa thu năm ấy, anh chàng chào hàng còn làm cho mọi người sửng sốt hơn nữa khi bỗng dưng anh bỏ nghề chào hàng của mình và chuyển qua nghề sửa chữa các đồ đạc gia dụng - một loại công việc không đòi anh phải đi đây đi đó. Cả nhóm của anh đều lắc đầu, cho rằng anh đang làm một chuyện phiêu lưu rồ dại, họ nói chỉ có kẻ điên mới đổi nghề để đón một mùa đông. Nhưng anh chàng chào hàng trấn an họ rằng anh đã chuẩn bị sẵn sàng để sống được bằng nghề mới của mình. Thời gian thấm thoát trôi, đến đầu tháng hai năm sau anh ta tuyên bố rời nhóm với lý do không còn đủ khả năng trả lệ phí nữa. Anh sa vào tình cảnh khánh kiệt trầm trọng và phải bắt đầu tìm công việc khác. Suốt năm tháng qua anh chỉ nhận được có tám món đồ của khách hàng để sửa chữa. Khi được hỏi tại sao anh không quyết định kiếm nghề khác sớm hơn, anh trả lời: “À, cách đây sáu tuần tôi đã thấy rõ mình đang đi tới chỗ cạn tiền, nhưng tôi vẫn không nghĩ rằng sự việc diễn tiến đến mức này và nhanh như thế này”. Rõ ràng là anh đã dửng dưng với vấn đề của chính anh. Dần dần anh bắt đầu nhận ra rằng trừ phi anh giải quyết được cái bệnh “phớt lờ các vấn đề” của mình thì anh mới có thể bước tiếp những bước khác - nếu không thế, dẫu có huy động tất cả tinh túy của khoa tâm lý trị liệu trên thế giới này cũng chẳng giúp gì anh được.
Xu hướng phớt lờ các vấn đề cũng là một biểu hiện của sự thiếu ý chí đình hoãn khoái cảm. Như tôi đã nói, việc đương đầu với các vấn đề luôn bao hàm những nỗi khổ sở. Sẵn sàng đối diện với một vấn đề ngay từ đầu chứ không để đến khi bị buộc phải đối diện với nó - điều đó có nghĩa là phải chấp nhận gạt qua một bên những sự dễ chịu nào đó để đón nhận những rắc rối, khó khăn. Đó là sự chọn lựa đau khổ bây giờ với hy vọng được khoan khoái về sau - chứ không phải là cứ duy trì sự khoan khoái bây giờ và nuôi mơ tưởng rằng nỗi khổ tương lai... không chắc sẽ xảy tới.
Có lẽ chúng ta thấy rằng anh chàng chào hàng trên kia khi phớt lờ những vấn đề thực tế của mình đã tỏ ra ấu trĩ về mặt xúc cảm và tâm lý. Nhưng một lần nữa, tôi xin nói với bạn rằng mỗi chúng ta đều là một anh chàng chào hàng như vậy, sự ấu trĩ của anh ta có mặt nơi tất cả chúng ta. Một vị tướng lãnh tư lệnh trong quân đội lần kia đã nói với tôi: “Điều đáng ngại nhất trong quân đội của chúng ta - và dường như trong bất cứ tổ chức nào khác - đó là đa số những người có trách nhiệm cứ ngồi im đó mà nhìn các vấn đề xảy đến cho đơn vị mình. Họ chẳng làm gì cả, như thể các vấn đề ấy tự chúng sẽ trôi qua nếu họ đủ kiên nhẫn ngồi chờ.” Vị tướng lãnh ấy đang nhằm nói đến không phải những người suy nhược hay bất bình thường về mặt tâm thần. Ông ta đang muốn nói đến những tướng tá khác, những người được xem là có nhiều bản lĩnh và đã được đào tạo trong kỷ luật chặt chẽ.
Cha mẹ cũng là những nhà điều hành và hữu trách đối với con cái - công việc của họ không kém phức tạp hơn công việc của những người điều khiển công ty, xí nghiệp, cho dù thực tế họ thường được chuẩn bị quá sơ sài để đóng vai trò này. Và cũng giống như các vị chỉ huy trong quân đội nói trên, đa số các cha mẹ thường để mất nhiều năm tháng trôi qua trước khi có một hành động hữu hiệu đối với những vấn đề khó khăn mà họ nhận thấy nơi con cái họ hay nơi mối quan hệ giữa họ và con cái mình. “Chúng tôi cứ nghĩ là thằng nhỏ sẽ dần dần thoát ra khỏi khó khăn đó”, đó là lời của một phụ huynh khi trình bày với một chuyên viên trị liệu tâm lý cho trẻ em về một vấn đề đã dằng dai suốt 5 năm nơi con mình. Nếu công nhận vai trò của cha mẹ là một vai trò phức tạp thì người ta phải đồng ý rằng việc cha mẹ đưa ra quyết định không phải dễ, cũng như không phủ nhận nhiều trẻ em đã “dần dần tự chúng thoát ra khỏi khó khăn”. Nhưng điều đó không bao giờ biện minh cho việc cha mẹ lảng tránh việc xem xét vấn đề một cách thấu đáo hơn. Bởi đó mà điều xảy ra là: trong khi con cái họ thường “dần dần thoát ra khỏi vấn đề của chúng” thì phần họ lại lún lầy thêm. Dù sao đi nữa, có rất nhiều vấn đề của con cái mà hễ cha mẹ càng kéo dài sự dửng dưng thì những vấn đề ấy càng phình ra hơn, càng gây lộn xộn hơn và càng khó giải quyết hơn.
NHẬN LÃNH TRÁCH NHIỆM
Không có cách nào khác để chúng ta giải quyết các vấn đề của cuộc sống, ngoại trừ... giải quyết chúng. Phát biểu như vậy xem ra ngớ ngẩn và buồn cười; và phần đông người ta không ngờ rằng đó là câu phát biểu nghiêm túc nhất. Làm sao chúng ta có thể giải quyết một vấn đề nếu trước hết chúng ta không nhận trách nhiệm về vấn đề ấy? Cứ khư khư bảo rằng “đó không phải là vấn đề của tôi”, thì đương nhiên là vấn đề cứ còn chình ình ra đó. Chúng ta cũng không thể giải quyết được một vấn đề bằng cách mong ngóng một ai đó khác sẽ giúp giải quyết dùm ta. Tôi chỉ có thể giải quyết một vấn đề khi tôi nhìn nhận rằng “đây là vấn đề của tôi và chính tôi có bổn phận giải quyết nó”. Thế nhưng, rất nhiều người tìm cách tránh né những phiền toái của các vấn đề bằng cách tự nhủ rằng “chuyện này do kẻ khác - hoặc do hoàn cảnh xã hội - gây ra, tôi không quyết định được; người khác hoặc xã hội phải chịu trách nhiệm giải quyết chuyện này cho tôi. Đó thực sự chẳng phải là vấn đề riêng của tôi”.
Xét về mặt tâm lý, để tránh né trách nhiệm đối với các vấn đề riêng của mình đôi khi người ta đi xa đến độ buồn cười. Một anh trung sĩ trong quân đội, đóng ở Okinawa, mắc chứng nghiện rượu quá độ. Anh được gửi đi khám nghiệm tâm thần và để được giúp điều trị, nếu có thể. Anh đã từ chối không nhận mình là một kẻ nghiện rượu và cũng không nhìn nhận tật uống rượu của mình là một vấn đề khó khăn cá nhân. Anh nói: “Ở Okinawa, tôi chẳng biết làm gì vào buổi tối - và tôi uống rượu, thế thôi”.
- “Anh có thích đọc sách báo không?” Tôi hỏi anh ta.
- “Ồ, vâng. Tôi thích sách báo lắm”.
- “Thế sao anh không đọc sách thay vì uống rượu?”
- “Ồ, ở trong trại lính ồn lắm, không thể nào đọc gì được”.
- “Vậy sao anh không đến thư viện?”
- “Tiếc là thư viện ở khá xa, thưa bác sĩ”.
- “Thư viện có xa hơn quán rượu mà anh thường lui tới không?”
- “À...à. Nói cho cùng thì tôi không thích đọc sách báo lắm... Đó không phải là sở thích của tôi”.
- “Chắc anh thích đi câu chứ?” Tôi lại hỏi anh.
- “Vâng, đó là môn tôi ưa thích, thưa bác sĩ”.
- “Vậy tại sao anh không đi câu thay vì uống rượu?”
- “Chà, tôi phải làm việc quần quật suốt cả ngày, chẳng mấy khi có thì giờ”.
- “Anh không thể đi câu vào buổi tối sao?”
- “Khổ nỗi, thưa bác sĩ, ở Okinawa này người ta không đi câu buổi tối”.
- “Có đấy”, tôi khẳng định với anh, “Tôi có biết một vài nhóm câu cá ban tối ở đây. Hay là tôi giới thiệu anh với họ nhé?”
- “Ơ...ơ... phải nói thật là... tôi không thích câu cá lắm đâu ạ”.
- “Thế thì ở Okinawa này cũng có thể có những chuyện để anh làm đó chứ, có điều sở dĩ anh chọn uống rượu vì anh thích nhất chuyện uống rượu, phải không?”
- “Dạ, có lẽ vậy”. - “Nhưng chuyện uống rượu đang gây phiền hà cho anh và đang trở thành một vấn đề thực sự rắc rối của anh, phải không?”
- “Thưa bác sĩ, cái hòn đảo khỉ ho cò gáy này rồi sẽ biến người ta thành ma men hết cả thôi...”
Tôi kiên nhẫn theo dõi thêm một thời gian, nhưng chàng trung sĩ này không tỏ ra dấu hiệu gì cho thấy rằng anh nhìn nhận chuyện uống rượu là một vấn đề khó khăn riêng của anh và là một vấn đề mà anh có thể giải quyết - hoặc tự mình, hoặc nhờ sự giúp đỡ. Tôi đã phải lấy làm tiếc mà trả lời với vị sĩ quan chỉ huy của anh rằng anh chưa đủ sẵn sàng để được giúp trị liệu. Sau đó anh vẫn tiếp tục uống rượu li bì, và bị sa thải khỏi quân đội trước thời hạn quân dịch.
Cũng ở Okinawa, một chị vợ trẻ dùng dao lăm cắt vào cổ tay mình và được chuyển đến phòng cấp cứu, chỗ tôi đang công tác. Tôi hỏi chị tại sao chị làm thế.
- “Để tự sát, dĩ nhiên”
- “Vì sao chị muốn tự sát?”
- “Vì tôi không chịu nổi cái hòn đảo chết tiệt này. Bác sĩ làm ơn gửi tôi trở về Mỹ. Tôi không thể tiếp tục sống ở đây thêm chút nào nữa?”
- “Chị có thể nói cho tôi biết cái gì ở Okinawa này làm chị khó chịu không?”
Người thiếu phụ bắt đầu khóc mếu máo:
- “Bác sĩ biết đó. Ở đây tôi không có ai để làm bạn, tôi hoàn toàn một mình”.
- “Ồ, thật vậy sao! Sao lại không làm bạn được với ai nhỉ?”
- “Thưa bác sĩ, tôi sống trong một khu chung cư bát nháo của người địa phương, không một người láng giềng nào biết nói tiếng Anh cả”.
- “Tại sao chị không chuyển đến trại của người Mỹ hoặc tham gia sinh hoạt với câu lạc bộ của những người vợ lính - là những nơi chị có thể kiếm được bạn?”
- “Chúng tôi chỉ có một xe hơi, và chồng tôi - anh ấy phải dùng nó để đi làm”.
- “Chị có thể lái xe đưa anh ấy đến chỗ làm được chứ, điều đó sẽ giúp vơi bớt sự cô độc của chị?” Tôi hỏi.
- “Không được đâu, thưa bác sĩ. Đó là một cái xe dùng cần sang số. Tôi không biết chạy loại xe ấy, tôi chỉ lái loại xe sang số tự động thôi”.
- “Thì chị thử học lái loại xe dùng cần sang số xem sao?”
- “Gì hở, tôi học lái xe loại ấy trên những đường sá nầy à? Bác sĩ điên rồi sao?” Người phụ nữ trố mắt nhìn tôi, có vẻ đầy sửng sốt.
2 CHỨNG RỐI LOẠN
Phần lớn những người tìm đến với bác sĩ tâm thần đều là những nạn nhân của một trong hai chứng rối loạn sau đây: chứng đa mang và chứng tắc trách. Nói một cách nôm na hơn, đó là hai thứ lộn xộn về trách nhiệm - biểu hiện bằng hai kiểu trái ngược nhau trong quan hệ với cuộc sống xung quanh và với những vấn đề của nó. Người đa mang là người nhìn đâu cũng thấy trách nhiệm của mình, còn người tắc trách là người không nhìn nhận đủ phần trách nhiệm của mình. Gặp xung đột với thế giới cuộc sống xung quanh, người đa mang nghĩ ngay rằng lỗi ở tại mình. Cùng một trường hợp như thế, người tắc trách sẽ bảo rằng chính thế giới và cuộc sống xung quanh có lỗi. Có thể thấy rằng hai nhân vật được nhắc đến ở phần trên đều thuộc chứng tắc trách: anh chàng trung sĩ thì cho rằng việc mình uống rượu thái quá là lỗi của hòn đảo Okinawa chứ không phải lỗi của chính mình, tương tự, người thiếu phụ nọ cảm thấy chị vô can trong nỗi cô độc và cô đơn của chị, ai đó hay cái gì đó gây ra nỗi cô độc ấy - chứ không phải chị. Trái lại, một phụ nữ khác cũng bị phiền muộn vì bị cô độc ở Okinawa nhưng chị lại mắc chứng đa mang; chị thở dài: “Tôi đã nhiều lần đến với câu lạc bộ Các Bà Vợ Sĩ Quan để tìm kiếm quan hệ thân hữu, nhưng tôi không cảm thấy dễ chịu ở đó. Tôi nghĩ rằng ở đó không ai thích tôi. Chắc hẳn nơi tôi có gì đó không ổn. Ước gì tôi có thể kết bạn với người ta một cách dễ dàng hơn. Ước gì tôi có được tính cách cởi mở hòa đồng hơn. Tôi muốn tìm hiểu điều gì nơi mình khiến mọi người xung quanh không có thiện cảm”. Người phụ nữ này cho rằng chính chị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về nỗi cô đơn của chị, chị cảm thấy bản thân mình đáng nhận lãnh mọi sự nguyền rủa. Thế rồi trong quá trình trị liệu tâm lý sau đó, chị nhận ra mình là một con người có cao vọng và có trí thông minh đặc biệt, chị cũng thấy rằng thật khó hòa đồng hoàn toàn với những bà vợ sĩ quan khác - ngay cả với chồng mình, chị cũng thấy thật không dễ hòa nhập. Tất cả cớ sự là do ở trí thông minh và cao vọng nổi bật của chị. Dần dần chị hiểu nỗi cô đơn của mình - tuy vẫn là vấn đề thật đấy - song không thiết yếu do lỗi lầm hoặc khiếm khuyết nào đó của mình. Cuối cùng, chị và chồng chị ly dị nhau; chị nuôi con cái nhưng vẫn theo học xong chương trình đại học, chị trở thành chủ bút của một tạp chí - và lấy chồng là một giám đốc nhà xuất bản đầy tên tuổi.
Ngay cả những câu nói cửa miệng của người đa mang và người tắc trách cũng khác nhau rất rõ. “Lẽ ra mình đã phải... Lẽ ra mình không nên...” ...là những kiểu nói thường xuyên được người đa mang thốt ra, cho thấy họ tự nhìn bản thân mình bằng một cái nhìn hết sức tự ti; họ thấy họ là người luôn luôn lầm lỡ. Trong khi đó, người tắc trách thì không ngừng lập đi lập lại: “Tôi không thể... Tôi đã không có điều kiện để... Hoàn cảnh của tôi bắt tôi phải...”; những kiểu nói ấy cho thấy họ muốn gán mọi trách nhiệm cho hoàn cảnh bên ngoài.
So sánh giữa hai loại rối loạn trên, ta thấy người đa mang dễ nhận sự giúp đỡ của khoa tâm lý trị liệu hơn - vì họ tự nhận họ có vấn đề. Các chuyên viên trị liệu tâm lý gặp khó khăn hơn rất nhiều khi đối diện với một con bệnh thuộc chứng tắc trách - bởi người tắc trách không nhận họ có vấn đề và do đó không thấy mình cần thay đổi, họ cho rằng thế giới xung quanh mới có vấn đề và vì thế cái cần phải thay đổi chính là thế giới xung quanh. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều người mắc đồng thời cả hai chứng rối loạn trên; họ đa mang trong một số lãnh vực và tắc trách trong một số lãnh vực khác của cuộc sống. Một khi xây dựng được nơi họ niềm tin và sự tín nhiệm đối với khoa tâm lý trị liệu (qua việc giúp họ thấy rõ trước hết khía cạnh đa mang trong tính cách của họ) - thì người ta có thể dễ dàng đưa họ vào tiến trình khảo sát và điều chỉnh những sai trật trong cách đánh giá trách nhiệm của họ.
Dường như ai trong chúng ta cũng ít nhiều mắc chứng đa mang hoặc tắc trách ở một mức độ nào đó (vì thế không một ai nghiêm túc nhận một tiến trình tâm lý trị liệu mà lại không thu được kết quả ích lợi ít nhiều). Việc phân định đúng đắn đâu là trách nhiệm của mình và đâu không phải là trách nhiệm của mình há không phải là một trong những vấn đề hệ trọng nhất của cuộc sống đó sao? Đó là thứ công việc mà chúng ta không bao giờ hoàn thành xong xuôi được, vì cuộc sống là một dòng chảy các biến cố mới lạ hoài, trong đó ta không ngừng phải xác định đi xác định lại đâu là phạm vi mà mình trách nhiệm. Việc xác định và tái xác định ấy - nếu được làm một cách nghiêm túc - không phải là một công việc êm ái thoải mái lắm cho chúng ta. Nó đòi chúng ta phải có sự nhiệt tình và khả năng để chấp nhận không ngừng khảo sát chính mình. Thế mà, khả năng ấy và sự nhiệt tình ấy thì lại không có sẵn nơi bất cứ ai. Theo một ý nghĩa nào đó, có thể nói mọi đứa trẻ đều mắc chứng tắc trách - cứ hễ có sự xung đột nào đó xảy ra thì khuynh hướng tự nhiên của một đứa trẻ là phủ nhận trách nhiệm phần mình và “đổ thừa” cho đứa khác. Hai anh em đánh nhau và bị mẹ la, dường như luôn luôn là thằng này “đổ thừa” cho thằng kia gây sự trước. Cũng vậy, mọi đứa trẻ đều mắc chứng bối rối đa mang; chúng thường tự nhiên nghĩ rằng do mình nên mới có sự sai hỏng nào đó - sự sai hỏng mà chúng cảm thấy chứ chưa hoàn toàn nắm hiểu. Vì thế, một đứa trẻ bị cha mẹ bỏ bê sẽ luôn nghĩ rằng nó đáng bị bỏ bê hơn là nghĩ rằng cha mẹ nó thiếu sót tình yêu đối với nó. Các chàng trai và các cô gái mới lớn lên nếu không thành công mấy (trong đường tình yêu hay trong thể thao, chẳng hạn) - sẽ nghĩ rằng do có gì đó trục trặc nghiêm trọng nơi chính mình hơn là nghĩ rằng rồi mình sẽ hoàn toàn chững chạc hơn về sau. Phải có một bề dày kinh nghiệm đáng kể và một quá trình trưởng thành lâu dài chúng ta mới có được khả năng để nhìn thế giới và hiểu vị trí của mình trong thế giới một cách đúng đắn được. Và một khi đã nhìn và hiểu được như thế, chúng ta mới có thể xác định đúng đắn trách nhiệm của mình đối với chính mình và đối với cuộc sống xung quanh.
Có rất nhiều chuyện mà các bậc cha mẹ có thể làm để hỗ trợ con cái mình trong tiến trình trưởng thành này. Trong quá trình con cái lớn lên, có cả ngàn cơ hội mà cha mẹ có thể hoặc chỉ ra cho chúng thấy khuynh hướng lẩn tránh trách nhiệm của chúng hoặc xác nhận với chúng rằng những chuyện nào đó không phải là lỗi của chúng. Nhưng, như tôi đã nói, để đừng bỏ nhỡ các cơ hội ấy cha mẹ phải nhạy bén với các nhu cầu của con cái và phải sẵn lòng dành thời gian cũng như chấp nhận sự phiền phức trong việc đáp ứng các nhu cầu ấy của con cái mình. Dĩ nhiên, điều đó đòi hỏi cha mẹ phải có tình yêu và tinh thần trách nhiệm đối với sự trưởng thành của con cái họ.
Mặt khác, cũng có nhiều chuyện mà không ít cha mẹ đã làm gây trở ngại cho tiến trình trưởng thành của con cái họ. Những người có khuynh hướng đa mang, do sự sốt sắng qui trách nhiệm cho bản thân mình, có thể làm vai trò cha mẹ rất tốt (miễn là họ đừng đa mang thái quá đến độ tự khoác lấy những trách nhiệm không thiết yếu và do đó không còn năng lực để chu toàn những trách nhiệm thiết yếu đối với con cái mình). Những người tắc trách, về phần họ, thường sắm vai trò cha mẹ một cách tai hại; họ thường phá hỏng con cái mình mà vô tình không biết rằng mình đang phá hỏng như thế. Người ta có câu “kẻ đa mang đày đọa chính mình, còn người tắc trách thì đày đọa mọi người xung quanh”. Những người xung quanh trước hết bị đày đọa bởi các cha mẹ tắc trách là chính con cái họ. Bởi vì người tắc trách quay lưng không nhận trách nhiệm đối với mọi vấn đề của cuộc sống, trong đó có trách nhiệm làm cha làm mẹ. Họ có khuynh hướng thoái thác - bằng trăm ngàn cách khác nhau, chứ không bao giờ dành đủ sự quan tâm cần thiết đối với con cái họ. Khi con cái họ phạm lỗi hoặc gặp khó khăn nào đó ở trường, những cha mẹ tắc trách sẽ cay cú trách móc hệ thống giáo dục của nhà trường hoặc than phiền về những đứa trẻ khác mà họ cho là “gây ảnh hưởng xấu” đến con cái họ. Rõ ràng đây là một thái độ phớt lờ vấn đề. Chính những kiểu trốn tránh trách nhiệm của cha mẹ sẽ là những mẫu gương sống động cho con cái họ bắt chước để trốn tránh trách nhiệm. Tệ hơn nữa, những cha mẹ tắc trách thường xô đẩy trách nhiệm ấy lên con cái. “Chính tại chúng mày mà tao phải khổ”. “Chỉ vì chúng mày mà tao phải ráng chịu đựng để sống với ổng (hay bả)”. “Nếu không có chúng mày thì tao đã có thể học xong đại học và có được một sự nghiệp hẳn hoi rồi...”. Khi nói những câu tương tự như vậy, cha mẹ muốn nói rằng “chúng mày phải chịu trách nhiệm về những thất bại và những bất hạnh của tao!” Khổ nỗi, trẻ con đâu có khả năng phán đoán rạch ròi về những gì cha mẹ chúng nói; do đó chúng thường chấp nhận những điều ấy là đúng - nghĩa là chúng chấp nhận rằng sự thất bại của cha hay mẹ mình là trách nhiệm của mình: chúng trở thành những kẻ đa mang! Như vậy, những cha mẹ tắc trách thường làm cho con cái họ trở thành hoặc tắc trách hoặc đa mang. Có thể nói: “cha làm con chịu”, hay... “cái dại con mang”!
Người tắc trách không duy chỉ gây đổ bể trong vai trò làm cha mẹ của họ mà thôi. Tính cách của họ còn gây tai hại trong đời sống hôn nhân, trong quan hệ bạn bè và trong công việc làm ăn nữa - nói đúng ra, bất cứ lãnh vực nào trong đời sống cũng lãnh chịu hậu quả do sự tắc trách của họ. Điều đó là tất nhiên, vì như đã nói, không có vấn đề nào có thể được giải quyết trừ phi người ta nhận trách nhiệm giải quyết nó. Bao lâu một người tắc trách còn hướng về người khác hay sự gì khác để trách mắng và đổ lỗi thì bấy lâu vấn đề còn sờ sờ. Khi quay mặt phủi tay đối với trách nhiệm của mình, người ta có thể cảm thấy thảnh thơi - song chính đó là lúc họ đầu hàng trước thách đố của cuộc sống, họ ngừng trưởng thành về mặt tâm linh, và họ trở nên gánh nặng của xã hội. Bởi họ đã đẩy cái khó khăn của mình sang cho xã hội. Có một câu nói nổi tiếng vào thập niên 60 - được gán cho Eldrige Cleaver - xem ra đáng cho mọi người ở mọi thời phải suy nghĩ: “Nếu bạn không góp phần giải quyết vấn đề, thì bạn là một phần của vấn đề”.

