Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi - Chương 14

TRƯỜNG HỢP CỦA KATHY

Kathy là con người bị kinh hãi nhất mà tôi đã từng gặp. Còn nhớ lần đầu tiên bước vào phòng cô, tôi thấy cô ngồi trên sàn nhà, trong góc khuất, miệng nói lí nhí một cái gì đó nghe như một câu kinh cầu. Cô ngước lên nhìn tôi, đôi mắt cô mở rộng đầy khiếp sợ. Cô thét lên và thoái lui vào sát góc tường, như thể cô muốn chui xuyên qua tường để lẩn trốn. Tôi nói: “Này Kathy, tôi là một bác sĩ tâm thần, tôi sẽ không làm gì hại cô đâu”. Tôi kéo ghế ngồi xuống, cố ý giữ một khoảng cách xa xa, và chờ. Kathy lại tiếp tục co rút người trong góc. Rồi cô bắt đầu thở dài, thư giãn một chút. Nhưng liền sau đó cô òa lên khóc nức nở. Rồi lại nín khóc và bắt đầu lí nhí đọc kinh cầu. Tôi hỏi cô có chuyện gì vậy. “Tôi chết mất” – cô trả lời, xen giữa lời kinh vẫn tiếp tục khi trầm khi bổng. Cô không nói gì thêm với tôi, chỉ miệt mài đọc những câu kinh mà tôi không nghe rõ. Cách quãng chừng năm phút, cô lại tạm dừng, chừng như thấm mệt. Nhưng sau một chốc lát thều thào trong miệng, cô lại bật giọng cao hơn và tiếp tục lí nhí đọc kinh. Tôi hỏi gì thì hỏi, cô chỉ trả lời: “tôi chết mất” – và lại tiếp tục đọc kinh. Dường như Kathy cảm thấy rằng cô có thể tránh “chết mất” bằng cách liên tục đọc lời kinh cầu ấy, vì thế cô cứ đọc và đọc.

Howard – chồng của Kathy và là một viên cảnh sát trẻ – chỉ cung cấp cho tôi được vài dữ kiện rất sơ sài. Kathy hai mươi tuổi, và hai người đã cưới nhau được hai năm. Cuộc hôn nhân của họ vẫn bình thường chứ không có vấn đề gì. Kathy rất gần gũi bố mẹ cô. Cô chưa bao giờ có vấn đề gì về tâm thần trước đây. Sự việc xảy ra hoàn toàn bất ngờ đối với mọi người. Buổi sáng hôm ấy Kathy vẫn hoàn toàn bình thường. Cô lái xe đưa chồng đến sở. Hai tiếng đồng hồ sau đó, em gái của Howard gọi điện cho anh. Cô em gái này đã ghé qua thăm chơi và thật sửng sốt khi tìm thấy chị dâu mình trong tình trạng như vậy. Họ đã cấp tốc đưa Kathy đi bệnh viện. Mọi người đều sửng sốt vì trước đó Kathy chẳng có dấu hiệu gì bất bình thường cả. Vâng, không có gì bất bình thường cả, ngoại trừ chỉ một điều. Khoảng thời gian bốn tháng trước khi phát bệnh, Kathy dường như rất sợ đi đến những nơi công cộng. Mỗi lần đi siêu thị, Howard đảm nhận mọi công việc mua sắm trong khi Kathy ngồi chờ anh trong xe. Cô cũng có vẻ rất sợ ở một mình. Howard cho biết Kathy cầu nguyện rất nhiều – nhưng anh giải thích thêm rằng cô ấy vốn như thế từ hồi anh mới quen biết cô. Gia đình Kathy rất sùng đạo. Mẹ cô đi lễ nhà thờ ít nhất hai lần mỗi tuần. Có điều hơi lạ là kể từ khi lấy chồng, cô ngừng không đi nhà thờ nữa. Và đây lại là điều hay đối với chồng cô. Nhưng cô vẫn rất siêng năng cầu nguyện. Sức khỏe thể lý của Kathy? Ồ, cô ấy là một phụ nữ có sức khỏe rất tốt. Cô chưa bao giờ phải đi bệnh viện. Chỉ có một lần cô bị ngất xỉu tại một đám cưới cách đây vài năm. Còn chuyện ngừa thai? Cô sử dụng thuốc. Mà này, cách đây một tháng cô nói với chồng rằng cô bắt đầu ngừng sử dụng thuốc. Hình như cô nghe người ta nói rằng việc sử dụng thuốc ngừa thai có những hậu quả không tốt. Dẫu sao, Howard không quan tâm mấy đến vấn đề này.

Tôi trao cho Kathy khá nhiều thuốc an thần nhằm giúp cô dễ ngủ vào ban đêm. Nhưng trong hai ngày sau đó, các triệu chứng nơi Kathy vẫn không thay đổi: cô vẫn không ngừng lí nhí đọc kinh, không thể nói với ai bất cứ điều gì ngoại trừ lặp đi lặp lại mấy tiếng “tôi chết mất!” trong thần sắc đầy kinh hãi. Cuối cùng, vào ngày thứ tư, tôi tiêm vào mạch máu Kathy một liều sô-đi-um a-my-tan. Tôi nói với cô: “Mũi thuốc tiêm này sẽ làm cô cảm thấy buồn ngủ, Kathy. Nhưng cô sẽ không ngủ mê man đâu. Cô cũng sẽ không chết. Thuốc sẽ giúp cô ngừng nói lắp bắp luôn miệng. Cô sẽ cảm thấy thư giãn và sẽ nói chuyện được với tôi. Tôi muốn cô kể cho tôi nghe về những gì đã xảy ra buổi sáng hôm ấy đến nỗi cô phải được đưa vào bệnh viện”.

- “Chẳng có gì xảy ra cả”, Kathy trả lời.

- “Cô đã lái xe đưa chồng cô đến sở làm?”

- “Vâng. Rồi tôi lái xe về nhà. Rồi tôi biết rằng tôi sắp chết”.

- “Cô đã lái xe về nhà y như mọi buổi sáng khác, sau khi đã đưa anh ấy đến sở?”

Kathy lại bắt đầu ríu lưỡi cầu kinh.

- “Ngừng cầu kinh đi, Kathy” – tôi nói như ra lệnh – “Cô hoàn toàn an toàn mà. Cô đang cảm thấy dễ chịu hơn, phải không? Nào, Kathy! Buổi sáng hôm ấy chắc có điều không bình thường trên đường cô lái xe về nhà, phải không? Điều gì vậy, Kathy?”

- “Tôi đã theo một con đường khác mọi ngày”.

- “Tại sao cô đi theo đường khác?”

- “Tôi theo lối ngang qua nhà Bill”.

- “Bill là ai?”, tôi hỏi.

Kathy lại bắt đầu lí nhí đọc lời kinh cầu.

- “Có phải Bill là bạn trai của cô?”

- “Phải. Nhưng đó là trước khi tôi lấy chồng”.

- “Cô nhớ Bill lắm, phải không?”

Kathy chợt thét ré lên: “Ôi, lạy Chúa! Tôi chết mất”.

- “Sáng hôm ấy cô đã gặp Bill?”, tôi hỏi.

- “Không”.

- “Nhưng cô muốn gặp anh ta?”

- “Ôi! Tôi chết mất”, Kathy trả lời.

- “Có phải cô nghĩ rằng Chúa sẽ trừng phạt cô vì cô ước ao gặp lại Bill?”

- “Đúng vậy”.

- “Và đó là lý do vì sao cô tin rằng cô sắp chết?”

- “Vâng”. Và Kathy lại bắt đầu đọc bài kinh của mình.

Để mặc cô đọc kinh như thế trong khoảng mười phút, tôi cố ôn lại các dữ kiện và dàn xếp các ý tưởng trong đầu mình.

Cuối cùng, tôi chậm rãi giải thích với cô: “Này, Kathy! Cô tin rằng cô sắp chết bởi vì cô tin rằng cô biết ý Chúa. Nhưng cô lầm rồi. Cô không biết ý nghĩ của Chúa đâu. Tất cả những gì cô biết về Thiên Chúa đều do cô nghe người khác nói. Nhưng phần lớn những điều ấy đều sai lầm. Tôi không biết hết mọi điều về Thiên Chúa; nhưng tôi biết hơn cô và hơn cả những người đã nói với cô về Chúa. Cô biết đấy, hằng ngày tôi gặp rất nhiều đàn ông và phụ nữ có ý muốn thất trung – giống như cô; và một số trong họ thật sự có hành động ngoại tình, song không có ai bị Chúa trừng phạt cả. Họ vẫn sống và vẫn tiếp tục đến gặp tôi, nói chuyện với tôi. Tôi thấy họ trở nên vui tươi hơn. Và cô cũng thế, Kathy! Tôi cam đoan là cô cũng sẽ trở nên vui tươi hơn. Bởi vì chúng ta sẽ giúp đỡ nhau. Cô sẽ nhận ra rằng cô không phải là một kẻ xấu. Cô cũng sẽ hiểu ra sự thật về chính mình và về Thiên Chúa. Cô sẽ thấy cuộc sống vui hơn. Bây giờ cô nên ngủ một chút đi. Khi thức dậy, cô sẽ không còn lo sợ rằng mình sắp chết nữa. Sáng ngày mai, khi chúng ta gặp lại nhau, cô sẽ có thể chia sẻ tâm sự với tôi – chúng ta sẽ nói chuyện về Thiên Chúa và về con người mình”.

Buổi sáng hôm sau, Kathy trông có vẻ khá hơn. Cô vẫn còn rất sợ hãi và còn bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng mình sẽ chết – nhưng nỗi ám ảnh ấy có chiều hướng vơi đi dần. Một cách chậm rãi, sau nhiều ngày, câu chuyện của cô hiện lộ ra rõ nét dần lên. Hồi học năm cuối trung học, Kathy đã có quan hệ tình dục với Howard. Howard muốn kết hôn với cô và cô đã đồng ý. Hai tuần sau đó, khi đang dự đám cưới một người bạn, cô bất chợt nghĩ rằng mình không muốn lấy chồng. Và cô đã ngất xỉu. Từ đó cô tiếp tục bối rối, không biết mình có yêu Howard hay không. Nhưng cô cảm thấy rằng mình không thể không lấy Howard làm chồng – bởi vì cô đã phạm tội quan hệ tình dục với anh ta. Cô nghĩ việc kết hôn với anh ta sẽ che lấp bớt tội ấy. Tuy nhiên, cô vẫn không muốn có con, ít nhất là cô muốn chờ cho đến khi cô cảm thấy mình yêu Howard. Thế là cô bắt đầu dùng thuốc ngừa thai – thêm một tội khác! Cô đã không thể xưng thú các tội ấy; do đó để đỡ dằn vặt, cô chấm dứt luôn việc lui tới nhà thờ kể từ khi lấy chồng. Cô cảm nhận được niềm vui khi chăn gối với Howard. Trái lại, về phần Howard, dường như sau khi cưới cô, anh không còn thích thú ân ái với cô nữa. Anh vẫn săn sóc cô thật chu đáo: anh thường mua quà cho vợ, cư xử tế nhị với vợ, chịu khó làm việc thêm giờ để kiếm thêm thu nhập cho gia đình và để vợ mình khỏi phải đi làm. Nhưng riêng về chuyện quan hệ vợ chồng, Kathy dường như phải van xin anh để được chăn gối với anh. Khoảng hai tuần anh mới gần gũi vợ một lần – và mỗi lần như vậy anh chỉ nhằm xoa dịu bớt sự đòi hỏi dai dẳng của vợ anh mà thôi. Ly dị ư? Không thể nghĩ đến chuyện đó, vì đó là một tội.

Chuyện xảy ra là Kathy bắt đầu có những tưởng tượng ngoại tình. Cô nghĩ mình phải cầu nguyện nhiều hơn để chế ngự những tưởng tượng xấu đó. Vì thế cô bắt đầu đọc kinh năm phút – cách mỗi tiếng đồng hồ. Howard thấy cô siêng năng cầu nguyện như vậy, anh trêu cô. Thế là Kathy quyết định thực hiện việc cầu nguyện ấy một cách kín đáo hơn: cô cầu nguyện nhiều hơn vào ban ngày khi Howard không có mặt ở nhà – và sẽ không cầu nguyện vào buổi tối nữa. Như vậy, cô phải cầu nguyện thường xuyên hơn, hoặc phải cầu nguyện nhanh hơn. Cô quyết định chọn cả hai: cứ cách nửa giờ, cô đọc kinh năm phút, và đọc nhanh gấp đôi. Dù vậy, những ý tưởng ngoại tình không những không giảm bớt trong đầu óc cô mà lại còn ám ảnh thường xuyên hơn và mãnh liệt hơn. Mỗi lần đi ra ngoài, cô đều nhìn những người đàn ông – và nỗi ám ảnh ngoại tình càng trở nên tệ hại hơn nữa. Cô bắt đầu sợ đi ra ngoài với Howard. Và cho dù có chồng bên cạnh, cô vẫn sợ những nơi công cộng vì cô có thể gặp đàn ông ở đó. Cô nghĩ có lẽ mình nên quay lại với nhà thờ. Nhưng rồi cô nhận ra rằng việc đi nhà thờ chỉ làm cho mình thêm dằn vặt bất an nếu mình không xưng thú hết các tội ấy ra với linh mục. Vì thế, cô lại bỏ ý định đó. Một lần nữa, cô lại tăng tốc độ đọc kinh lên nhanh gấp đôi. Để có thể đọc nhanh như vậy, cô bắt đầu tạo ra một kiểu đọc kinh trong đó mỗi câu kinh được tóm lại chỉ trong một vần đơn độc. Đây chính là lý do tại sao những lời kinh cô đọc nghe có vẻ như những câu thần chú đầy bí ẩn. Với sáng kiến này, Kathy có thể đọc cả ngàn lời nguyện chỉ trong năm phút. Ban đầu, khi cô còn bận rộn lo hoàn chỉnh kiểu đọc kinh độc đáo của mình, những tưởng tượng ngoại tình có vẻ lắng xuống bớt; nhưng khi cô đã quen và có thể đọc trơn tru mà không cần chú ý nhiều, những ý tưởng đen tối ấy lại trào lên mãnh liệt y như cũ. Cô bắt đầu nghĩ cách để thực hiện điều mà mình thèm muốn. Cô nghĩ đến việc gọi điện thoại cho Bill, người bạn trai cũ của cô. Cô nghĩ đến những quán “bar” mà cô có thể đến vào buổi chiều. Sợ rằng mình không cưỡng lại được mình và sẽ thực sự làm điều táo tợn ấy, cô quyết định ngừng sử dụng thuốc ngừa thai – hy vọng rằng nỗi sợ có thai sẽ giúp cô đề kháng những đòi hỏi sôi réo trong con người mình. Nhưng nỗi thèm muốn nơi cô vẫn quay quắt ngày càng hơn. Một buổi chiều nọ, cô kinh hãi nhận ra mình đang bắt đầu thực hiện hành vi thủ dâm. Thật tởm gớm! Đó có lẽ là tội lỗi xấu xa nhất trong các tội lỗi! Cô nhớ lại lời khuyên ở đâu đó rằng tắm dưới vòi nước lạnh sẽ giúp người ta trấn áp ngọn lửa thèm khát đang bốc lên trong mình – và cô đã chạy vào buồng tắm, mở vòi nước lạnh xối xả lên thân thể mình. Biện pháp ấy đã giúp cô cầm cự được cho đến khi Howard về. Nhưng, sang ngày hôm sau, cơn quay quắt ấy vẫn lại bùng lên.

Cuối cùng, buổi sáng hôm ấy, cô không chịu đựng được nữa. Sau khi lái xe đưa Howard đến sở của anh, cô trực chỉ đến nhà Bill. Cô đỗ xe ngay trước nhà. Chờ đợi. Không nghe ai lên tiếng cả. Dường như không có ai ở nhà. Cô mở cửa bước ra và đứng dựa vào xe, trong một tư thế rất mời mọc. Cô thầm khấn vái xin trời cho Bill nhìn thấy cô. Song tất cả vẫn im ắng. Cô lại thầm khấn vái xin trời cho một ai đó trông thấy cô – bất cứ ai cũng được: “Chúa ôi, con là một con điếm, một con điếm bỉ ổi. Chúa ơi, hãy giết con đi. Con không đáng sống”. Cô thảng thốt nhảy lên xe và phóng nhanh về nhà. Cô lấy một lưỡi dao lam, định cắt vào cổ tay mình. Nhưng cô không thể làm chuyện đó. Cô không thể, nhưng Chúa có thể. Và chắc chắn Chúa sẽ làm. Chúa sẽ trừng phạt cô vì cô đáng bị trừng phạt. Chúa sẽ chấm dứt mọi điều xấu xa nơi cô, chấm dứt chính sự sống của cô. Bao giờ điều đó sẽ xảy đến? “Chúa ơi, con sợ quá, con sợ lắm; xin Chúa hãy mau trừng phạt con. Con sợ lắm, Chúa ơi”. Cô bắt đầu đọc kinh liên tu bất tận, và đợi chờ. Đó chính là cảnh tượng mà cô em chồng bước vào và trông thấy cô.

Những tình tiết của câu chuyện trên đây chỉ được thu thập đầy đủ sau nhiều tháng dày công làm việc. Và phần lớn quá trình trị liệu ấy tập trung vào quan niệm tội lỗi của Kathy. Cô đã học ở đâu để biết rằng thủ dâm là một tội? Ai đã bảo với cô rằng đó là một tội? Và làm sao người ấy biết đó là một tội? Điều gì làm cho thủ dâm thành một tội? Tại sao bất trung với chồng là một tội? Cái gì làm ra một tội? Vân vân và vân vân. Tôi vẫn tin rằng nghề trị liệu tâm lý là một trong những nghề thú vị và ưu việt nhất, song có những lúc công việc nầy xem ra thật tẻ nhạt – đó là khi mà nhà trị liệu phải thách đố một cách bài bản các não trạng thâm căn cố đế của bệnh nhân, từng não trạng một trong tất cả nét đặc thù của nó. Thường thì sự thách đố này gặt hái được ít nhất một phần thành công ngay cả trước khi toàn bộ câu chuyện hiện lộ ra đầy đủ và rõ nét. Chẳng hạn trong trường hợp của Kathy, cô đã có thể kể cho tôi nghe khá nhiều chi tiết của câu chuyện – gồm cả những tưởng tượng của cô và nỗi cám dỗ thực hiện hành vi thủ dâm. Song Kathy chỉ có thể bộc bạch những điều ấy sau khi cô đã tự mình chất vấn bản chất của cảm nghiệm tội lỗi nơi mình và chất vấn chính nền tảng mà mình đã dựa vào để qui tội cho những hành vi ấy. Đồng thời, cũng rất quan trọng việc cô chất vấn tính vững chắc của thẩm quyền Giáo hội Công giáo – hay ít nhất thẩm quyền của Giáo hội theo như cô cảm nhận xưa nay. Đương đầu với Giáo hội Công giáo không bao giờ là chuyện dễ dàng. Và Kathy đã có thể đương đầu như thế chỉ vì cô có sự hỗ trợ của đồng minh – là tôi; cũng bởi vì cô dần dần cảm nhận được rằng tôi thực sự đứng về phía cô, thực sự quan tâm tới cô và rằng tôi sẽ không dẫn cô đi vào con đường xấu. Chính “giao ước trị liệu” này – mà tôi và cô đã dần dần hình thành – là điều kiện tiên quyết cho tất cả sự thành công căn bản của tiến trình trị liệu.

Phần lớn quá trình trị liệu này đã được tiến hành ngoại trú. Kathy ra viện một tuần sau khi cô được tiêm liều thuốc sô-đi-um a-mi-tan. Nhưng phải sau bốn tháng trị liệu đặc biệt nữa cô mới có thể phơi bày các quan niệm của mình về tội: “Tôi nghĩ Giáo hội Công giáo đã trao cho tôi một nếp nghĩ như thế”. Tới đây thì cuộc trị liệu bắt đầu bước sang một giai đoạn mới – với những câu hỏi được đặt ra như: Tại sao điều đó đã xảy ra? Tại sao cô chấp nhận nếp nghĩ mà người ta trao cho cô? Tại sao cô đã không thể tự mình suy nghĩ và quyết định, không thể chất vấn lại Giáo hội – bằng cách này hay cách khác? Câu trả lời của Kathy là: “Mẹ tôi bảo tôi không bao giờ được phép đối lập lại Giáo hội”. Và thế là chúng tôi bắt đầu xét đến mối quan hệ giữa Kathy với cha mẹ cô. Với ông bố, dường như cô không có mối quan hệ gì. Ông có đấy, mà như không có. Ông chỉ biết làm việc và làm việc. Về nhà, ông ngủ vùi trên ghế, bên ly bia. Các tối thứ sáu thì ông đi chơi – vẫn chỉ để uống bia. Mẹ cô quán xuyến gia đình. Bà một mình điều khiển mọi chuyện trong nhà, và mọi người phải răm rắp tuân theo. Bà là một phụ nữ tốt bụng nhưng cứng rắn, Bà cần mẫn làm việc để săn sóc mọi người nhưng bà không bao giờ lắng nghe ý kiến của ai. Cứ thế, gia đình có một bầu khí ổn định – và không ai có thể xáo trộn sự “ổn định” này. “Con gái không được làm thế, con yêu!”. “Con gái của một gia đình gia giáo không bao giờ đi loại giày đó, con yêu!” “Phải đi lễ nhà thờ, dù muốn hay không, vì đó là luật Chúa dạy, con yêu!” Dần dần Kathy nhìn ra rằng đằng sau quyền lực của Giáo hội Công giáo có tồn tại quyền lực to lớn của mẹ cô – một người phụ nữ rất dịu dàng song cũng rất độc đoán, đến độ chống cưỡng lại bà dường như là một chuyện không tưởng.

Dĩ nhiên, tiến trình trị liệu tâm lý ít khi êm ả trơn tru. Sáu tháng sau khi Kathy ra viện, vào một sáng Chủ nhật, Howard gọi điện thoại cho tôi - báo rằng Kathy đang tự giam mình trong buồng tắm và lại đọc kinh liên tục. Tôi đề nghị anh ta thuyết phục Kathy trở lại bệnh viện, nơi tôi sẽ gặp cô. Kathy có thần sắc kinh hãi y như hồi tôi gặp cô lần đầu nhiều tháng trước đó. Và lần này Howard cũng hoàn toàn mù tịt không biết nguyên nhân tại sao. Tôi đưa Kathy vào phòng bệnh nhân. “Ngừng đọc kinh đi nào, Kathy! Hãy cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra với cô vậy”, tôi giục.

- “Tôi không thể”, Kathy đáp.

- “Không đâu. Cô có thể”, tôi khuyến khích.

Một cách khó nhọc, cô vừa lấy hơi để đọc kinh tiếp, vừa đề nghị: “Xin bác sĩ làm ơn cho tôi một liều thuốc an thần”.

“Không, Kathy”, tôi trả lời, “Lần này cô không cần phải dùng đến thuốc an thần”.

Kathy thét ré lên. Rồi cô nhìn tôi và tiếp tục đọc kinh. Trong ánh mắt của cô, tôi nhận thấy toát ra sự phẫn nộ.

- “Cô giận tôi hả, Kathy?”, tôi hỏi.

Cô lắc đầu, vẫn tiếp tục đọc kinh.

- “Kathy” – tôi nói – “Cô có thể có nhiều lý do để giận tôi. Nhưng tôi không thể biết nếu cô không nói. Nói đi, Kathy. Cô không có gì phải ngại với tôi cả”.

- “Tôi chết mất”, Kathy rên rỉ.

- “Không đâu, Kathy. Cô không chết chỉ vì cô giận tôi. Chẳng lẽ tôi giết cô chỉ vì cô giận tôi! Cô thực sự có quyền giận tôi mà, Kathy!”.

- “Ngày đời tôi không dài. Ngày đời tôi không dài”, Kathy rên rỉ.

Tôi chợt ngẩn ngơ, không hiểu gì cả. Tôi chưa bao giờ nghe và cũng không dự liệu nghe cô rên rỉ như thế. Tôi cố lẩm nhẩm mấy tiếng đó lại trong đầu mình để xem nó ẩn chứa nội dung gì.

- “Kathy, tôi thương mến cô. Dù cô ghét tôi, tôi vẫn thương cô. Tình yêu thương thật sự là như thế. Cô có quyền ghét tôi. Còn tôi, tôi vẫn thương yêu cô”.

- “Không phải ông. Tôi không ghét ông”, cô nức nở.

-  Bất chợt, như có một tia sáng xẹt ngang trong đầu tôi: “Ngày đời ngươi không dài. Không dài trên mặt đất. Có phải vậy không, Kathy? Ngươi phải tôn kính cha mẹ ngươi, để ngày đời ngươi sẽ được lâu dài trên mặt đất. Đó là Giới Răn Thứ Năm. Nếu không tôn kính cha mẹ, ngày đời ngươi sẽ không dài. Có phải vậy không, Kathy?”

- “Tôi ghét mẹ tôi”, Kathy thều thào. Rồi, bỗng dưng cô rống to lên: “Tôi ghét mẹ tôi. Tôi ghét bà ấy. Bà ấy không bao giờ... không bao giờ cho tôi được là tôi. Bà ấy ép buộc tôi theo khuôn mẫu của bà ấy. Bà ấy nhào nặn tôi theo ý bà muốn. Bà không cho phép tôi được một tí tự do”.

Thực ra, cuộc trị liệu của Kathy vẫn còn đang ở những bước khởi đầu. Cô vẫn còn đối mặt với nỗi sợ thực tế ngày này qua ngày khác, nỗi sợ mình-trở-nên-thực-là-mình trong muôn ngàn góc cạnh của cuộc sống. Xuất phát từ nhận thức rằng mình đã hoàn toàn bị áp chế bởi mẹ mình, Kathy tiến tới tự vấn tại sao mình đã để cho tình trạng ấy xảy ra. Và khi truất phế sự áp chế ấy, cô phải khởi sự tiến trình thiết định các giá trị cho chính mình và phải tự đưa ra các quyết định. Cô cảm thấy nao núng. Dường như sẽ yên ổn hơn nhiều nếu cứ để cho mẹ quyết định mọi chuyện! Dường như sẽ đỡ phiền toái hơn nhiều nếu cứ bám theo các tiêu chuẩn giá trị của mẹ và của Giáo hội! Thật là vất vả việc tự lèo lái cuộc sống của mình! Có lúc, Kathy bất giác thốt lên: “Thưa bác sĩ, đành rằng tôi không đời nào chấp nhận quay trở lại tình trạng con người cũ của mình, song đôi khi tôi vẫn như muốn níu kéo quãng đời đã qua ấy. Sống như hồi trước dễ dãi hơn bây giờ nhiều!”

Cũng trong nỗ lực thể hiện tính cách độc lập hơn, Kathy thẳng thắn đề cập với Howard rằng anh chưa chứng tỏ anh là người bạn tình thực sự của cô. Howard hứa sẽ sửa đổi, Nhưng rồi vẫn không có gì thay đổi. Kathy thúc bách anh. Và đến lượt Howard bị dằn vặt. Anh đến gặp tôi, tôi khuyên anh tiến hành trị liệu tâm lý với một bác sĩ tâm thần khác. Anh bắt đầu đặt vấn đề về những xu hướng đồng tính luyến ái bắt rễ rất sâu trong mình; chính vì muốn đề kháng lại xu hướng ấy mà anh đã kết hôn với Kathy. Và bởi vì Kathy là một phụ nữ có nhan sắc quyến rũ nên anh xem cô như một “của quí” mà mình bắt được, một “của quí” chứng minh cho mọi người thấy rằng kẻ chinh phục được nó phải là một đấng nam nhi xứng danh mày râu. Xét cho cùng, anh chưa bao giờ yêu cô ấy. Và khi cả hai đều nhận thấy rõ điều này, họ đã vui vẻ đồng ý chia tay nhau. Kathy đi làm tại một cửa hàng buôn bán quần áo, trong tư cách một nhân viên bán hàng. Trong công việc của mình, cô thường xuyên phải có những quyết định dù nhỏ nhưng hoàn toàn độc lập – và đây là cả một sự thách đố vì cô chưa hề quen. Dần dần cô trở nên tự tin và mạnh dạn hơn. Cô làm quen với nhiều bạn trai, kỳ vọng sẽ tìm được người để xây dựng gia đình và có con cái. Nhưng trong hiện tại, cô dồn quan tâm nhiều hơn vào công việc của mình. Cô đã trở thành một trợ lý cung tiêu cho cửa hàng. Sau khi kết thúc trị liệu với tôi, cô được thăng chức đặc trách cung tiêu, và mới đây cô báo tin rằng đã chuyển sang làm cho một doanh nghiệp lớn hơn, với cùng loại công việc và chức vụ cũ. Ở tuổi hai mươi bảy, cô hoàn toàn tự tin và vui tươi trong cuộc sống của mình. Cô không lui tới nhà thờ và không còn tự nhận mình là một người Công giáo nữa. Cô không xác định mình có tin vào Thiên Chúa hay không – nhưng nếu được hỏi, cô sẽ trả lời rằng vấn đề Thiên Chúa xem ra không phải là vấn đề rất quan trọng tại thời điểm này của đời cô.

Tôi đã mô tả khá dông dài về trường hợp của Kathy, bởi vì đây là trường hợp đặc trưng cho mối quan hệ giữa não trạng tín ngưỡng mà người ta được nhào nặn từ tấm bé trong gia đình và tình trạng rối loạn tâm thần. Có hàng triệu “Kathy” trong chúng ta. Tôi thường nói dí dỏm rằng Giáo hội Công giáo đã cung cấp cơm gạo cho tôi trong tư cách là một bác sĩ tâm thần. Cũng có thể nói y như thế về Giáo hội Báp-tít, Giáo hội Lu-tê-ran, Giáo hội Trưởng Lão, và bất cứ Giáo hội nào khác... Dĩ nhiên, Giáo hội không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng rối loạn nơi Kathy. Có thể nói, Giáo hội chỉ là một khí cụ được mẹ cô sử dụng để củng cố và bành trướng uy quyền thống trị của bà. Chúng ta có cơ sở để nói rằng chính bản chất thống trị của người mẹ này – nhất là trong một gia đình mà người cha chỉ là chiếc bóng – mới chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng rối loạn nơi con gái bà. Trường hợp của Kathy cũng đặc trưng cả khía cạnh này nữa. Dù sao đi nữa, Giáo hội cũng có phần trách nhiệm. Hồi còn bé đi học trường đạo và tham dự các lớp giáo lý, Kathy không bao giờ được nữ tu nào hoặc linh mục nào khuyến khích nêu ra những chất vấn (hợp lý) đối với các giáo thuyết trong đạo, cũng không bao giờ cô được khuyến khích tự mình suy nghĩ và quyết định. Chẳng có dấu hiệu gì cho thấy Giáo hội có quan tâm đến sự kiện rằng giáo thuyết của mình có thể bị dạy một cách lạm phát, có thể cứng nhắc quá đến mức mất hẳn tính thực tiễn, hoặc có thể bị áp dụng sai hay thậm chí bị lạm dụng. Một cách để phân tích vấn đề của Kathy; đó là chỉ ra rằng trong khi cô toàn tâm tin vào Thiên Chúa, các giới răn và quan niệm về tội lỗi... thì niềm tín ngưỡng và thế giới quan của cô trong thực tế vẫn chỉ là một cái gì có tính gia truyền và không phù hợp với các nhu cầu của cô. Cô đã không thể chất vấn, không thể đương đầu và không thể suy nghĩ độc lập. Và đáng ghi nhận là giáo hội của Kathy đã không làm gì để giúp cô đắc thủ cho mình một niềm tín ngưỡng thích đáng hơn và có đặc tính ngã vị hơn. Xem chừng như giáo hội có vẻ ủng hộ những kiểu tín ngưỡng gia truyền ấy.

Bởi vì trường hợp của Kathy được ghi nhận là quá phổ biến, nên nhiều bác sĩ tâm thần và nhiều chuyên viên trị liệu tâm lý xếp cảm thức tín ngưỡng vào loại kẻ thù chính. Thậm chí họ có thể xem tín ngưỡng tự nó là một sự rối loạn tâm thần – một mớ những ý tưởng phi lý và rời rạc nhằm câu thúc khả năng suy nghĩ của con người và gây cản trở cho con đường trưởng thành tâm thần của họ. Freud, một con người khoa học và duy lý kiệt xuất, dường như đã nhìn vấn đề theo hướng nói trên; và bởi vì ông là khuôn mặt có nhiều ảnh hưởng nhất đối với tâm thần học hiện đại – nên chắc chắn ông đã có đóng góp đáng kể vào quan niệm rằng tín ngưỡng là một tâm bệnh. Quả thật các bác sĩ tâm thần dễ có khuynh hướng tự xem mình như những chàng hiệp sĩ của khoa học hiện đại, đang đứng trong cuộc chiến đấu chính nghĩa chống lại sự tàn phá của cảm thức tín ngưỡng mê tín cổ với những giáo điều phi lý và độc đoán. Và điều được ghi nhận trong thực tế là các bác sĩ tâm thần phải tốn rất nhiều thời gian và năng lực để giải phóng các bệnh nhân của mình ra khỏi những niềm tín ngưỡng hủ bại và đầy sức phá hoại.

TRƯỜNG HỢP CỦA MARCIA

Dĩ nhiên không phải trường hợp tâm bệnh nào cũng giống như trường hợp của Kathy. Còn có nhiều dạng khác nữa, cũng được thấy là phổ biến không kém. Marcia là một trong những bệnh nhân đầu tiên mà tôi nhận trị liệu dài hạn. Nàng là một phụ nữ trẻ, giàu có, khoảng hai mươi lăm tuổi – đến nhờ tôi giúp đỡ vì một triệu chứng anhedonia.[*] Marcia cảm thấy cuộc sống của mình không có chút gì thú vị, dù nàng sống rất đàng hoàng chứ không làm bất cứ điều gì đáng tiếc cả. Dáng vẻ bên ngoài của nàng cũng lộ rõ nét héo hắt. Là một cô gái có của cải và có học vấn đại học, nhưng Marcia trông có vẻ như một thiếu phụ quê mùa tiều tụy. Trong suốt năm trị liệu đầu tiên của Marcia, tôi thấy nàng ăn mặc rất đơn điệu – toàn những áo quần luộm thuộm màu sẫm tối, và lần nào tôi cũng thấy nàng mang chiếc xách tay ấy – một chiếc xách bằng len cũ rích, to đùng, trông rất thảm hại. Marcia là con gái duy nhất của một đôi vợ chồng trí thức. Cha mẹ nàng là những giáo sư đại học có tiếng tăm – và cả hai đều có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, xem tôn giáo như “chiếc bánh vẽ trên mây xanh”. Marcia đã từng bị cha mẹ mình chế giễu khi – hồi còn thiếu nữ – nàng đi nhà thờ với một cô bạn học.

Cho tới lúc bắt đầu nhận trị liệu, Marcia hoàn toàn nhất trí với quan điểm của cha mẹ mình. Lúc ấy nàng rất hùng hồn tuyên bố rằng mình là một người vô thần, không phải vô thần bâng quơ mà là vô thần thứ thiệt, nghĩa là nàng tin rằng loài người sẽ tốt hơn nhiều nếu họ không bị phỉnh gạt để tin rằng Thiên Chúa hiện hữu (hay có thể hiện hữu). Điều thú vị là trong các giấc mơ của Marcia có đầy những biểu tượng tôn giáo – chẳng hạn như bầy chim bay vào phòng, mỏ của chúng ngoạm những cuộn giấy mang các thông điệp khó hiểu được viết bằng một thứ ngôn ngữ cổ. Tuy nhiên, tôi không đề cập với Marcia về khía cạnh ấy trong vô thức của nàng. Thực vậy, trong suốt quá trình trị liệu kéo dài hai năm của Marcia, các vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng đã không bao giờ được đặt ra. Chúng tôi chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa Marcia và cha mẹ nàng – hai con người rất thông minh và rất duy lý này đã lo lắng chu tất cho con gái họ về đời sống vật chất nhưng cũng vô cùng xa cách con gái họ về mặt tình cảm. Bên cạnh tính cách khô khan lạnh lùng ấy, họ còn quá bận rộn với công việc của họ đến nỗi không còn mấy thời giờ và năng lực để quan tâm đến con gái. Kết quả là dù sống trong một mái nhà đầy đủ tiện nghi, Marcia vẫn chỉ là một “cô bé nhà giàu tội nghiệp”, một trẻ mồ côi trên bình diện tâm lý. Nhưng Marcia không dễ dàng thừa nhận điều này. Nàng phản đối khi tôi nhận định rằng cha mẹ nàng đã bỏ bê nàng một cách vô trách nhiệm; nàng cũng phản đối khi tôi nhận xét rằng nàng ăn mặc như một trẻ mồ côi. “Đó là kiểu trang phục mới!”, Marcia giải thích. Và nàng nhắc tôi rằng tôi không có thẩm quyền để phê phán về thời trang.

Sự chuyển biến trong cuộc trị liệu của Marcia diễn ra rất chậm chạp, song cũng rất ngoạn mục. Yếu tố then chốt là mối quan hệ ân cần và gần gũi được dần dần thiết lập giữa tôi và nàng – đối lập hẳn với mối quan hệ vốn tồn tại giữa nàng và cha mẹ nàng. Một buổi sáng nọ, vào đầu năm trị liệu thứ hai, Marcia bước vào văn phòng tôi với chiếc xách tay mới. Đó là một chiếc xách tay nhỏ nhắn xinh xinh với màu sắc sặc sỡ. Từ đó về sau, hầu như tháng nào nàng cũng mua sắm thêm áo quần mới – và nàng cũng bắt đầu chọn những màu sáng, tươi, rực rỡ hơn, như một bông hoa bắt đầu phô sắc. Rồi, trong lần gặp trước khi chấm dứt trị liệu, Marcia xúc động chia sẻ với tôi về niềm lạc quan vui sống của nàng hiện tại; nàng nói: “Thật lạ, thưa bác sĩ! Không chỉ tâm hồn tôi thay đổi, mà tất cả mọi sự bên ngoài cũng đổi thay. Vẫn là ngôi nhà ấy, vẫn là những công việc ấy... nhưng sao bây giờ tôi cảm nhận khác hẳn. Hình như cả thế giới cùng thay đổi với tôi! Tất cả như trở nên ấm áp hơn, an toàn hơn, có tình hơn, thú vị hơn và tốt đẹp hơn. Trước đây tôi có nói rằng tôi là một người vô thần. Giờ đây tôi mới thấy sự thật không phải thế. Vâng, tôi không còn nghĩ mình là một người vô thần nữa. Chắc hẳn phải có một Thiên Chúa. Làm sao thế giới và cuộc sống có thể đáng yêu như thế nếu không có một Thiên Chúa. Thật lạ! Tôi không biết diễn tả thế nào. Nhưng thực sự tôi cảm thấy mình có quan hệ trực tiếp với tất cả; tôi cảm thấy mình là một phần của một bức tranh vĩ đại. Tôi không thể nhìn thấy rõ toàn bộ bức tranh nhưng tôi biết nó thực có đó và nó tốt đẹp – và tôi là một phần của nó”.

Qua quá trình trị liệu, Kathy đã đi từ chỗ xem ý niệm về Thiên Chúa là hết sức quan trọng đến chỗ xem ý niệm đó chẳng có tầm quan trọng nào. Trong trường hợp của Marcia, trái lại, nàng đã đi từ quan điểm phủ nhận ý niệm về Thiên Chúa đến chỗ xem ý niệm ấy hết sức có ý nghĩa cho mình. Như vậy, cũng một tiến trình, cùng một nhà trị liệu, nhưng hai kết quả xem chừng ngược chiều nhau – và cả hai đều thành công! Ta phải giải thích sao đây về điều này? Trước khi cố gắng đưa ra một giải thích, chúng ta hãy xem xét một trường hợp thứ ba nữa. Trong trường hợp của Kathy, nhà trị liệu cần phải tích cực thách đố các cảm thức tín ngưỡng của đương sự – để đem lại sự thay đổi theo chiều hướng làm giảm thiểu ảnh hưởng của ý niệm Thiên Chúa trong cuộc sống của đương sự. Trong trường hợp của Marcia, ý niệm về Thiên Chúa được ghi nhận là có một ảnh hưởng ngày càng tăng – mà nhà trị liệu không hề thách đố các cảm thức tín ngưỡng của bệnh nhân dù bằng bất cứ cách nào. Chúng ta có thể đặt vấn đề rằng vậy thì có cần thiết không việc nhà trị liệu tích cực chất vấn quan điểm vô thần hay quan điểm bất khả tri của bệnh nhân – và cố tình lèo lái bệnh nhân đi theo chiều hướng tín ngưỡng?

Báo cáo nội dung xấu