Cú Rời Đất Xanh - Chương 35
Huyện An Tháp, tây Chiết Giang.
Mấy năm nay, tuy nói bên trên đề xướng “cùng thịnh vượng”, nhưng cho dù là tỉnh phồn thịnh đến đâu, cũng luôn có những huyện thành bị tụt lại phía sau.
An Tháp chính là như vậy, cũng không phải nói nơi này nghèo khó lạc hậu gì, mà chỉ là ngoài kia ngày một đổi thay quá nhanh, gió thổi ào ào, tất yếu sẽ bị phô bày thành ra tụt hậu phía sau.
Xe buýt liên huyện vừa tới bến, lập tức bị một đám tài xế taxi chờ sẵn từ lâu vây lấy.
—— “Tháp Đông, Tháp Đông, năm mươi một người!”
—— “Có ai đi Tháp Bắc không, còn thiếu một người nữa, lên xe là đi ngay, không phải đợi.”
—— “Chạy đồng hồ nhé, tính tiền theo đồng hồ.”
…
Nhiếp Cửu La ngồi trên xe, nghe mấy giọng phổ thông lơ lớ mang khẩu âm quê nhà. Xa quê quá lâu, cô đã không còn nói được tiếng địa phương nữa, nhưng nghe thì vẫn hiểu.
Đợi đến khi khách và người chèo kéo dần dần tản hết, cô mới xuống xe.
Bến xe nhỏ, mỗi lần có một chuyến tới thì lại nhộn nhịp một hồi, nhộn nhịp vừa tan, liền trở nên vắng lạnh, ánh hoàng hôn lạnh lẽo dần trượt xuống.
Nhiếp Cửu La kéo vali đi ra cửa ra.
Nhiếp Đông Dương cầm một quyển tạp chí trong tay, đang đứng ở cửa ra ngó nghiêng tìm kiếm. Xa nhau mười bảy, mười tám năm, con người này cũng không thay đổi nhiều, chỉ là tóc bạc hơn, mặt chảy xệ hơn.
Thấy Nhiếp Cửu La bước ra, Nhiếp Đông Dương ngẩn ra một thoáng, vội mở trang trong của tạp chí so sánh hình ảnh, rồi vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, giơ tạp chí vẫy: “Tịch Tịch, Tịch Tịch à.”
Nhiếp Cửu La bước thẳng tới, gương mặt nở nụ cười hoàn hảo như khi trả lời phỏng vấn: “Đại bá.”
Nhiếp Đông Dương cười: “Bá nhìn mãi, thấy người ra hết rồi, còn tưởng cháu không ngồi chuyến này.”
Nhiếp Cửu La cũng cười, xoay mắt cá, đưa cho ông xem đôi bốt ngắn gót nhọn: “Gót cao, đi không nhanh.”
Nhiếp Đông Dương khen: “Ôi chao, giỏi quá, còn được lên tạp chí, thật lợi hại. Đi đi đi, lên xe trước đã.”
Nhiếp Đông Dương lái một chiếc Volvo mới tinh.
Ngồi vào hàng ghế sau, Nhiếp Cửu La tiện tay tra thử, giá lăn bánh của mẫu này tầm ba trăm nghìn tệ - ba trăm nghìn, ừm, tức là cỡ nửa căn nhà của nhà cô.
Xe nhập đường, Nhiếp Đông Dương vừa lái vừa chuyện trò: “Tịch Tịch à, cháu thật là quá lâu không về rồi. Vân Vân mang tạp chí cho bá xem, lúc đầu bá còn không dám nhận… Sao lại đổi tên vậy?”
Nhiếp Vân là con gái Nhiếp Đông Dương, chị họ cô, hai người chênh chưa đầy một tuổi.
Nhiếp Cửu La: “Nghệ danh.”
“Ồ, nghệ danh,” Nhiếp Đông Dương cảm thán, “nghệ sĩ thật giỏi, còn phải có hai cái tên, ồ đúng rồi, hóa đơn.”
Vừa nói vừa đưa qua một tờ giấy kín chữ.
Là các khoản chi phí cho tang tế, tổng cộng hai vạn sáu, bao gồm giấy vàng, lễ phẩm, cá sống cho đại tế, tiền mướn dựng rạp, tiền thuê trống nhạc… Nhiếp Cửu La liếc qua, nói: “Cực cho đại bá rồi, cháu chuyển khoản cho nhé.”
Nhiếp Đông Dương nói: “Hây, không vội.”
Nói rồi lấy điện thoại định mở mã QR cho cô quét, nào ngờ Nhiếp Cửu La không kiên trì, thật sự “không vội”, hạ cửa kính nhìn cảnh ngoài đường.
Nhiếp Đông Dương đành cất điện thoại, ngừng một chút, lại nói về sắp xếp sau này: “Tịch Tịch, hôm nay đại bá không khoản đãi cháu nữa, mai nhiều việc, bá về còn phải chuẩn bị. Mai cháu phải dậy sớm, bảy rưỡi bá tới khách sạn đón, đến nơi thì hóa vàng, bái tế, cũng chỉ bận một ngày. Tối mai thoải mái một chút, bá bảo bá mẫu tìm nhà hàng ngon, cả nhà ta cùng ăn một bữa, trò chuyện cho tốt.”
Nhiếp Cửu La nói: “Nhà hàng thì khỏi, tốn kém lắm. Cháu muốn ăn đồ bá mẫu nấu, cứ ở nhà làm một bữa đơn giản thôi.”
Nhiếp Đông Dương cũng thấy vậy kinh tế hơn, nhưng ngoài miệng còn phải giữ thể diện: “Ở nhà nấu thì quá không ra dáng rồi, thế thì mất mặt quá.”
Nhiếp Cửu La cười: “Người một nhà mà, cần gì câu nệ.”
Khách sạn ở trung tâm thành phố, xung quanh có nhiều quán ăn, Nhiếp Cửu La tiện chọn một chỗ giải quyết bữa tối. Vốn định về khách sạn nghỉ ngơi, nhưng đi đến đại sảnh, lại đổi ý.
Cô muốn ra con đường trước cửa nhà cũ đi dạo, xem hai bên đường những cây từng phun thuốc rụng sâu có còn đó không, cũng muốn nhìn xem ở đoạn nào, ngẩng đầu sẽ thấy tòa nhà nơi cha cô từng đứng lần cuối.
Nhưng tưởng dễ, làm mới khó. Gần hai mươi năm qua, cho dù An Tháp phát triển chậm, cũng đã hoàn toàn thay đổi diện mạo - nhiều đường phố cũ được kéo dài, mở rộng; nhiều nơi vốn không phải đường nay lại biến thành đường; không ít công trình bỏ không như trường học, bệnh viện đã dời đi…
Cô hoàn toàn không nhận ra được nữa.
Gió đêm lạnh, liên tục lật vạt áo gió, cô khoanh tay rùng mình: Quê hương, không chỉ là một tọa độ địa lý, nó là tổ hợp của vùng đất, của năm tháng cụ thể, của con người và ký ức cụ thể. Thêm một phần hay bớt một phần đều không còn là hương vị ấy - người xa quê nhiều năm, trở về chưa từng là “quê hương”, chỉ là chốn mà người khác hiện đang sống thôi.
Vậy nên, cũng đừng cố làm ra vẻ thanh nhã mà hoài niệm, vốn chẳng còn cái cũ để nhớ.
Cô mở bản đồ trên điện thoại, tính đường ngắn nhất về khách sạn, mới đi được một đoạn, giác quan thứ sáu đột ngột réo chuông cảnh báo.
Có người đang nhìn chằm chằm cô, hoặc nói, đang theo dõi cô.
Nhiếp Cửu La sợ mình đa nghi, còn cố tình đi vòng thêm một đoạn để xác nhận.
Quả nhiên có người theo. Nhưng “kỹ năng theo dõi” hoàn toàn nghiệp dư, hai lần, cô cố tình giả vờ chỉnh lại tóc trước cửa kính, dùng phản chiếu nhìn rõ bóng dáng đối phương.
Là một ông lão gầy gò khoảng năm mươi, sáu mươi, trông hơi ngây ngô, mặc áo khoác đã bạc màu, mang đôi giày thể thao rách cạnh, dáng không nhanh nhẹn, có lần còn trượt chân suýt ngã.
Quái lạ thật, dạo này cô toàn gặp mấy kẻ mờ ám nhằm vào mình. Bình thường cô sẽ nghĩ là biến thái theo dõi, nhưng lúc này đang thời kỳ nhạy cảm, không nhịn được liên tưởng đến đồng bọn Viêm Thác.
Cô sải bước nhanh hơn, gót giày gõ “cộp cộp” xuống đất đầy khí thế.
Đi được chục bước, cô bỗng dừng lại, xoay người, đi thẳng về phía ông lão.
Ông lão bước nhỏ, lúc theo dõi gần như phải chạy lúp xúp, nay bất ngờ thấy cô ập tới, hoảng loạn, vội cúi xuống buộc dây giày - nhưng dây giày vốn không hề tuột - rồi lại giả vờ tìm đồ dưới đất, như thể vừa đánh rơi thứ gì.
Chưa tới hai giây, một đôi bốt nhọn đã dừng ngay trước mặt.
Ông lão buộc phải ngẩng đầu, rồi lúng túng đứng dậy.
Nhiếp Cửu La nói: “Ông theo tôi làm gì?”
Ánh mắt và giọng điệu đều sắc bén.
Ông lão cố giữ bình tĩnh: “Không… không có mà.”
Người qua lại đã bắt đầu nhìn sang, ông lão rõ ràng không quen bị chú ý, mặt tái nhợt chợt đỏ bừng, không dám liếc cô.
Nhiếp Cửu La: “Tôi thấy rõ rồi, từ chỗ Thực phẩm số Một, ông theo tôi hai con phố.”
Ông lão hiển nhiên không giỏi nói dối hay đối chất, ngay hiệp đầu đã thua tan tác: “Tôi nhận nhầm người… Tôi chỉ thấy cô xinh, giống người quen tôi… Xin lỗi xin lỗi…”
Giọng run run, tuổi này rồi mà lại như học sinh gian lận thi bị bắt quả tang, suýt nữa khóc: “Xin lỗi xin lỗi…”
Ông giơ tay lên đầu, như là cầu xin tha thứ, lại như xấu hổ muốn che mặt, lùi lia lịa rồi quay đầu chạy đi: “Xin lỗi xin lỗi.”
Nếu là lão già biến thái mặt dày, Nhiếp Cửu La đã quát vài câu bỏ qua, nhưng nhìn không giống, “diễn” còn hơi quá, trong lòng cô ngờ vực, bất giác lại đi theo.
Ông lão vốn luống cuống, nghe tiếng giày gõ lộp cộp sau lưng, quay lại thấy cô còn bám theo, càng mất hồn vía, cuối cùng gần như chạy trốn.
Nhiếp Cửu La bỗng thấy buồn cười, như thể mình biến thành nữ lưu manh biến thái, đuổi theo một ông chú hiền lành vậy.
Ông lão chạy vào cổng một khu dân cư phía trước, trong đó toàn nhà cao tầng.
Nhiếp Cửu La dừng lại, định thôi, thì nghe tiếng bảo vệ cổng vang lên: “Lão Chiêm, về rồi à… ơ kìa, chạy cái gì thế.”
…
Với Nhiếp Cửu La, việc giả vờ lễ phép tán gẫu là sở trường, huống hồ chỉ để đối phó một bác bảo vệ rỗi rãi, thấy chó cũng muốn bắt chuyện. Chưa đầy mười phút, cô đã moi được thông tin về “lão Chiêm” kia.
Người này tên Chiêm Kính, lão độc thân, từng dạy trung học, sau vì vấn đề lối sống mà bị đuổi, công việc bấp bênh, nay đây mai đó, gần đây làm tạp vụ ở tiệm massage chân, mỗi tối tầm giờ này về.
Mười mấy năm trước, từng có người tốt giới thiệu mối, bên nữ rất nhiệt tình, mua rau nấu cơm, giặt giũ, một tháng dồn hết tâm, nhưng ông ta chẳng có phản ứng. Người phụ nữ kia tức giận, tung tin ông ta sàm sỡ, dọa kiện ra tòa.
Chuyện ồn ào một thời gian, rồi cũng im, nhưng từ đó Chiêm Kính sợ đàn bà như sợ cọp, sợ bị mang tiếng, lại bị người ta chỉ trỏ.
…
Thôi, nghe qua thì cũng chỉ là một lão già đáng thương, chẳng giống gì đồng bọn Viêm Thác. Nhiếp Cửu La sờ mặt mình: có lẽ thật sự vì mình giống người quen của ông ta.
…
Việc này, với cô, lại như một nét gạch trong ngày hôm đó, một ngôi sao xấu bỏ vào hộp, rồi lật sang trang khác.
***
Như Nhiếp Đông Dương đã nói, hôm sau quả thực là một ngày mệt mỏi.
Nhiếp Cửu La dậy sớm, từ đó bận rộn không ngừng, suốt buổi cứ như “người làm công cụ”: bảo đốt pháo thì đốt pháo, bảo dập đầu thì dập đầu, chỉ có lúc bảo khóc thì lại không khóc ra nổi. May mà cô đã chuẩn bị sẵn, nắm trong tay một lọ thuốc nhỏ mắt, cúi đầu thì bóp mạnh xịt vào, ngẩng lên thì nước mắt giàn giụa, hiệu quả cực kỳ đúng chỗ.
Ngày giỗ mười chín năm của Nhiếp Tây Hoằng, coi như trọn vẹn kết thúc.
Dĩ nhiên, lịch trình vẫn chưa xong, hạng mục kế tiếp là tiệc gia yến.
Nhiếp Đông Dương đã sớm đổi nhà, là căn hộ lớn trong khu cao cấp, ba phòng hai sảnh hai vệ sinh. Nhiếp Cửu La chưa từng tới, vừa bước vào đã hứng khởi: “Đại bá, không ngại để cháu tham quan một chút chứ?”
Nhiếp Đông Dương cũng muốn khoe khoang: “Xời, khách sáo gì, cứ thoải mái mà xem.”
Trong bếp, bà bá nghe động liền cất cao giọng: “Là Tịch Tịch hả, Tịch Tịch tới rồi à?”
Mỗi nơi có một phong tục riêng, bên này cúng giỗ, chị dâu hay cháu dâu… những vai vế cách một tầng thì không cần tham dự.
Nhiếp Cửu La bèn đi từ bếp xem trước, tiện thể chào hỏi người đang bận rộn bên trong: “Bá mẫu với chị Vân bận lắm nhỉ.”
Trong bếp hơi nóng bốc lên nghi ngút, nồi đất hầm gà sôi sùng sục, hương thơm tỏa ra nức mũi. Bà bá béo lên không ít, mặt mày hồng hào, một tay cầm xẻng, một tay rắc muối: “Tịch Tịch à, ta chưa ra được, cháu ngồi trước đi, lát nữa có đồ ăn ngay.”
Nhiếp Vân thì đang rửa rau bên cạnh. Cô đã cao hơn trước, nhưng cao quá khiến người càng gầy gò, lưng còn hơi còng. Cô lễ phép mà rụt rè mỉm cười với Nhiếp Cửu La, trong nụ cười còn mang chút tự ti.
Nhiếp Cửu La rời khỏi bếp, trong tiếng leng keng xẻng chảo, mơ hồ nghe bà bá đang mắng Nhiếp Vân: “Mày sợ gặp người à, chẳng có khí thế gì cả, ai không biết lại tưởng mày mới là đứa mồ côi bố mẹ ấy…”
Nhiếp Cửu La khẽ cười, câu đó, cô liền coi như là lời khen dành cho mình.
Đi một vòng xem xong, cô đã có tính toán: nhà tuy rộng, nhưng không lắp camera, đại bá và bà bá vẫn mang phong cách cũ, đồ đạc trong phòng ngủ chính đều làm bằng gỗ thật, bàn trang điểm, tủ quần áo đều có khóa. Nếu có thứ gì quý giá, hẳn là cất trong đó.
Dọn thức ăn còn lâu, Nhiếp Đông Dương kéo Nhiếp Cửu La ngồi phòng khách xem TV, chiếu chương trình “Thử thách công dân” của đài địa phương. Người dân bình thường tham gia trò chơi, thất bại đủ kiểu, khiến Nhiếp Đông Dương cười ha hả.
Nhiếp Cửu La: “Đại bá, cháu đi vệ sinh một chút.”
Nhiếp Đông Dương miệng ừ một tiếng, mắt không rời màn hình.
Nhà vệ sinh sát cạnh phòng ngủ chính, Nhiếp Cửu La đi đến cửa, cố tình đóng cửa kêu một tiếng, rồi thoắt cái lẻn vào phòng ngủ chính. Cô lấy trong túi ra đôi găng tay tơ tằm, đeo vào, rồi gỡ hạt ngọc trai ở vòng tay xuống — đến cả còng tay cô còn mở được, loại khóa ngăn kéo gia dụng thế này càng không thành vấn đề.
Cô lần lượt mở từng khóa, kiểm tra. Giữa chừng gặp một tình huống hơi nguy hiểm: bà bá ra đi vệ sinh, thấy cửa đã đóng bèn hỏi: “Có ai không đấy?”
Nhiếp Cửu La lập tức nằm rạp xuống bên giường. Nghe Nhiếp Đông Dương to giọng: “Tịch Tịch đang dùng, bà chờ đi, hoặc qua dùng cái nhỏ ấy.”
Bà bá “ồ” một tiếng, lại lẹp xẹp dép quay vào bếp.
Nhiếp Cửu La thở phào, lại đứng dậy. Mọi chuyện diễn ra thuận lợi, trong ngăn thứ ba của tủ quần áo, phía dưới, cô tìm thấy thứ mình cần.
Dây chuyền bạch kim gắn ngọc phỉ thúy của Bùi Kha.
Cô nhìn chăm chú hai giây, liền nhặt lên bỏ vào túi, lại để sợi hàng giả mình chuẩn bị sẵn vào y như cũ, khóa ngăn kéo lại.
Gia yến khai tiệc, khách chủ đều vui, nói toàn chuyện xã giao, chuyện gia đình. Bà bá hỏi nghề nặn tượng đất này có kiếm ra tiền không. Nhiếp Vân có chút xấu hổ, nhỏ giọng sửa: “Đấy gọi là điêu khắc.”
Nhiếp Cửu La cười: “Cũng na ná như nặn tượng đất thôi, thu nhập… lúc tốt lúc xấu, khoảng vài chục vạn gì đấy.”
Bà bá kinh ngạc: “Vài chục vạn cơ à!”
Quay đầu liền chê bai con gái: “Nhìn mày kìa, chẳng kiếm nổi bằng một góc của người ta.”
Nhiếp Vân cúi gằm mặt xuống hơn nữa.
…
Rượu đã ba tuần, Nhiếp Cửu La đặt đũa xuống: “Đại bá, lần này cháu về, có một chuyện muốn nói với bá.”
Nhiếp Đông Dương ngẩn ngơ: “Hả?”
Sắc mặt bà bá thoáng biến, dưới gầm bàn đá Nhiếp Đông Dương một cái. Bà vốn đã nhắc nhở rồi, cúng giỗ thì cứ cúng, đừng kéo con bé này về. Giờ nó đã lớn, có tiền, có chính kiến, nhỡ đâu muốn đòi lại gia sản của cha mẹ thì biết tính sao!
Nhiếp Cửu La nói: “Năm xưa ba mẹ cháu gặp chuyện, nhà cửa cùng các thứ đều do bá và bá mẫu xử lý. Hai người còn nhớ không, trong đó có một sợi dây chuyền của mẹ cháu, ngọc phỉ thúy, xích bạch kim? Vì đó là thứ mẹ cháu luôn mang bên người, có ý nghĩa kỷ niệm. Lần này, có thể cho cháu mang về không?”
Nhiếp Vân có ấn tượng, khẽ “à” một tiếng, vừa định nói gì thì chân đã bị mẹ đá một cái.
Bà bá cười gượng: “Tịch Tịch à, có phải cháu nhớ nhầm rồi không?”