Cú Rời Đất Xanh - Chương 36
Bà ấy nói liền mạch, không chút ngập ngừng: “Khi bố cháu xảy ra chuyện, bọn bác vội vã đón cháu về ở cùng với Yên Yên, lo xong tang sự mới đi xử lý đồ đạc trong nhà cháu. Năm đó trị an không tốt, đến nơi thì thấy khóa đã bị kẻ trộm cạy, trong nhà bị lục lọi loạn hết cả.”
Nhiếp Yên cúi đầu, vùi mặt vào bát cơm.
Nhiếp Đông Dương xấu hổ, nhích người trên ghế.
Bác gái vẫn thao thao bất tuyệt: “Có lẽ cháu nghĩ trong nhà còn tiền đều bị bác cả cầm đi rồi, nhưng thật sự không có đâu. Nói ví dụ như căn nhà đó, năm ấy giá nhà còn rẻ, bán đi cũng chỉ được hơn mười vạn, còn chẳng bằng cháu bây giờ đi làm một, hai tháng.”
Thật sáng tạo, lấy giá tiền năm ấy ra so với giá bây giờ.
“Chỗ tiền đó, trừ đi khoản lo tang sự, cũng không còn bao nhiêu. Sau đó cháu chẳng phải còn ở nhờ chỗ bọn bác hơn một năm sao, ăn mặc đều phải tiêu tiền. Còn nữa, mấy năm nay, mộ phần của bố cháu, cũng phải tốn tiền sửa sang, chỗ này chỗ kia, bọn bác cũng bỏ thêm vào không ít. Đều là người một nhà, vốn không nên nhắc đến những chuyện này. Nhưng bác sợ cháu hiểu lầm bọn bác, nên phải nói rõ ràng, để khỏi khiến cháu có khúc mắc trong lòng.”
Nhiếp Cửu La nói: “Ồ, vậy à.”
Rồi cười nhạt: “Thế thì thôi, cháu cũng chỉ tiện miệng nói vậy thôi.”
Bữa tiệc gia đình kết thúc, Nhiếp Cửu La từ chối đề nghị của Nhiếp Đông Dương muốn lái xe đưa mình về khách sạn, bảo rằng đã lâu không trở về, muốn đi bộ thong thả một chút.
Cô bước ra khỏi khu chung cư cao cấp của nhà họ Nhiếp, đi lên vỉa hè đông người qua lại, càng đi càng nhanh, tiếng gót giày gõ xuống mặt đất nghe như nhịp trống khải hoàn.
Cô lấy ra sợi dây chuyền ngọc phỉ thúy vừa đến tay, đeo lên cổ như chẳng có ai bên cạnh, giống như tự mình trao cho mình một chiếc vương miện.
Mặt dây chuyền ban đầu lạnh mát, rất nhanh đã ấm dần lên, như một nụ hôn từ nơi xa xăm, mềm mại áp lên ngực.
…
Đi thêm một đoạn, cô cảm thấy xung quanh có chút quen mắt, ngẩng nhìn chéo về phía trước, đó là lối vào một khu dân cư, bên trong cao tầng san sát.
Nhớ ra rồi, chẳng trách quen thuộc, hôm qua cô vừa đến đây. Chính là nơi tên Chiêm Kính đi theo cô suốt hai con phố, nhà ông ta ở đây.
Giờ này cũng gần giống hôm qua, ông ta hẳn sắp từ tiệm mát-xa chân tan ca. Nếu lại gặp cô, có khi nào bị dọa đến trắng bệch mặt mũi ngay tại chỗ?
Cô gần như tinh nghịch mà cố ý chậm bước, dù sao hôm nay tâm trạng tốt, cũng chẳng có việc gì cần làm.
Quả nhiên, chẳng bao lâu, Chiêm Kính lom khom từ góc phố bước ra, cả người toát lên vẻ sống an phận và sợ sệt tránh né, tay xách hộp cơm tối.
Nhiếp Cửu La băng chéo qua đường: “Ê!”
Đúng như cô dự liệu, Chiêm Kính vừa nhìn thấy cô, sợ đến mức chân mềm nhũn, chạy cũng chạy không nổi. Ông ta lùi sát vào bức tường rào của khu dân cư, giơ cao hộp cơm chắn mặt: “Không… cô ơi, xin lỗi, xin lỗi, tôi thật không phải kẻ biến thái, tôi nhận nhầm người, cô nghìn vạn lần đừng kêu ầm lên…”
Một người đàn ông mà nhát đến thế, Nhiếp Cửu La cũng có chút thương hại hắn: “Ông sợ gì chứ, tôi chỉ đi ngang thôi.”
Nghe giọng điệu này, dường như không phải tìm hắn gây sự?
Chiêm Kính vốn như kẻ bị rắn cắn, mười năm còn sợ dây thừng. Ông ta run rẩy, từ khe tay xách túi nilon len lén nhìn Nhiếp Cửu La. Cô mang một nụ cười thoáng lộ vẻ thương hại, như cố tình không muốn tạo áp lực cho ông ta, đang bước lùi dần ra sau. Ánh đèn đường phủ lên gương mặt trẻ trung mịn màng của cô, dưới xương quai xanh tinh tế đong đưa một ánh xanh biếc.
Đó là ngọc phỉ thúy, một viên toàn lục, loại thủy tinh chủng, khắc thành hình trái thị, bên cạnh còn chạm thêm một hạt lạc nhỏ bằng bạch kim, ngụ ý “hảo sự phát sinh ”. (Ở đây là lối chơi chữ: chữ thị (柿 – quả thị) đồng âm với chữ sự (事), còn hạt lạc tượng trưng cho sinh (生); ghép lại thành 事发生 = sự phát sinh, ý chỉ chuyện tốt lành sẽ đến.)
Nói thật, phỉ thúy khắc hình trái thị đã hiếm, toàn lục thủy tinh chủng lại càng hiếm, huống chi còn kèm cả hạt lạc.
Chiêm Kính ngẩn ngơ, buột miệng kêu lên: “Ê, ê!”
Nhiếp Cửu La vốn định đi, lại bị ông ta gọi dừng lại: “Sao thế?”
Chiêm Kính nuốt khan mấy ngụm nước bọt, ngay cả ngón tay cũng chẳng dám đưa xa, chỉ dè dặt chỉ về phía sợi dây chuyền của cô: “Cái ngọc phỉ thúy này… cô có phải quen một người họ… họ Bùi không?”
Thật đúng là ngoài dự liệu.
Nhiếp Cửu La nhìn hắn chằm chằm hồi lâu: “Ông nói Bùi Kha à?”
Gân xanh bên thái dương Chiêm Kính giật thình thịch: “Cô quen bà ấy? Cô là…”
“Bà ấy là mẹ tôi.”
Chiêm Kính nắm chặt túi nilon trong tay, như vừa bừng tỉnh từ giấc mộng: “Khó… khó trách, tôi đã nói là có điểm giống mà, quả nhiên… Vậy, vậy cô chính là… Tịch Tịch à?”
“Tịch Tịch” – cái tên này, chỉ ở nơi này mới có người gọi. Tên gốc cô là Nhiếp Tịch, sau này thấy cần bắt đầu lại cuộc sống, nên đổi tên. Cũng không đổi nhiều, chỉ là lồng ngày sinh vào: mồng 4 tháng 9, Nhiếp Cửu La. Cái tên này với bạn bè rất thân thiện, chắc chắn không ai nhầm được sinh nhật, nhìn tên là rõ ngay.
Cô hỏi: “Ông là ai?”
Chiêm Kính lại đáp lệch: “Tịch Tịch à, cô biết… mẹ cô ở đâu không?”
Vô duyên vô cớ, xem ra người này không chỉ sống khép kín, mà tư duy cũng kỳ quái. Nhiếp Cửu La nói: “Bà ấy đã qua đời lâu rồi.”
Cô chẳng buồn ôn chuyện với kẻ không bình thường, quay người định đi.
Nào ngờ Chiêm Kính vội vàng đuổi theo: “Không phải, Tịch Tịch, bà ấy bị bố cô nhốt lại rồi, cô phải cứu bà ấy!”
Quá sức hoang đường. Nhiếp Cửu La thấy vừa phản cảm, vừa buồn cười: “Ông làm sao biết?”
Chiêm Kính bị hỏi ngớ người, sững một lúc mới nói: “Tôi nhiều lần mơ thấy, mơ thấy bà ấy khóc trong địa lao…”
Có trí tưởng tượng thế, sao không đi viết kịch bản, Nhiếp Cửu La chẳng khách sáo: “Ông là ai chứ, nếu mẹ tôi có hiện về báo mộng cũng không phải tìm ông, mà phải tìm tôi. Với lại, bố tôi đã mất gần hai mươi năm rồi!”
Chiêm Kính như vừa chợt nhớ ra điều này, môi run run mấp máy, lại buông thêm một câu kinh người: “Là bố cô… chính bố cô giết mẹ cô!”
Thật…
Nếu không phải thấy ông ta tuổi đã lớn, Nhiếp Cửu La thật muốn cho ông ta mấy cái bạt tai. Cô buông lại một tiếng “Thần kinh” rồi xoay lưng bỏ đi.
Chiêm Kính cuống quýt đuổi theo phía sau: “Thật mà, mẹ cô nói muốn ly hôn, bố cô không chịu, còn nói muốn đưa bà ấy đi du lịch. Ai ngờ chuyến đi đó… liền chẳng thấy trở về…”
“Phịch” một tiếng, ông ta trượt chân ngã sấp xuống, hộp cơm tròn lăn lông lốc ra xa, thậm chí còn lăn tới trước mặt Nhiếp Cửu La. Cô lạnh lùng liếc qua, mũi giày hất một cái, đá lệch hướng hộp cơm.
Chiêm Kính ngã khá nặng, một chốc chưa bò dậy được. Nhìn thấy bóng lưng cô càng lúc càng xa, hắn tuyệt vọng kêu: “Thật đấy, Tiểu Kha còn nói rất nhanh sẽ quay lại, tôi đi tìm bố cô đòi người, ông ấy đánh tôi một trận…”
Càng nói hắn càng thương tâm, cuối cùng vừa lau nước mắt vừa nấc nghẹn.
Mà Nhiếp Cửu La, sớm đã đi khuất khỏi tầm mắt.
Về đến khách sạn, niềm uất nghẹn trong lòng Nhiếp Cửu La vẫn chưa tan đi.
Không phải vì những lời Chiêm Kính huyên thuyên “nhốt lại”, “giết rồi”, những thứ hoang đường đó, cô nghe như gió thoảng qua tai.
Điều cô để tâm là, bao năm nay câu chuyện tình thâm thiết sống chết không rời của cha mẹ, bỗng chốc như bị xé một lỗ rách.
Tên Chiêm Kính ấy, là cái thá gì? Tướng mạo hèn mọn, tính tình nhu nhược, cũng xứng dính dáng gì đến mẹ cô?
Quá mức khó chịu, cô cầm điện thoại lên, định chơi mấy ván game “Mạt Nhật Vi Thành” để phân tán sự chú ý. Vừa mở giao diện mới phát hiện trong ứng dụng tin nhắn tự hủy, có một thông báo mới hiển thị đỏ.
Gửi khi nào? Bận những chuyện lặt vặt kia, cô lại không hề chú ý.
Nhiếp Cửu La mở tin nhắn.
—— Nhiếp Nhị, trước ngày mùng 8, Nam Ba Hầu Đầu.
Rõ ràng là có nhiệm vụ. Nhưng “Nam Ba Hầu Đầu” là quỷ gì? Có điều, chỉ cần dính đến hai chữ “Nam Ba”, chắc lại phải đi Thiểm Nam?
May là thời gian còn rộng, mùng 8, vẫn còn gần một tuần.
Chắc chắn đã có chuyện xảy ra. Nhiếp Cửu La trả lời hai chữ: “Gọi điện?”
Nửa tiếng sau, Tưởng Bách Xuyên gửi lại một tin: “Biết cô muốn hỏi gì rồi, video đã gửi vào hòm thư của cô, xem là hiểu. Mười phút nữa tôi gọi điện.”
Không ngờ còn có cả video, Nhiếp Cửu La lập tức đăng nhập email, thư được gửi ẩn danh, bị hệ thống phân loại vào thùng rác.
Cô bấm mở.
Video chia làm hai đoạn, mở đầu đã ở Bản Nha, ống kính rung lắc dữ dội, người quay video thở hổn hển, rõ ràng đang đuổi theo cái gì đó.
Chẳng bao lâu, kẻ bị đuổi lọt vào khung hình, là Mã Hãn Tử, đang vác một cây gậy chống, miệng còn nghêu ngao hát.
“Ta gánh lấy gánh nặng, ngươi cưỡi ngựa đi…”
Người quay gằn giọng chất vấn: “Mã Hãn Tử, đây chẳng phải gậy của Lão Què sao, ở đâu ra vậy?”
Mã Hãn Tử: “Thì trên xe vứt xuống đấy thôi mà.”
Người quay quát to: “Đưa đây tao xem!”
Mã Hãn Tử trong lòng không phục, bực bội đưa gậy ra.
Ống kính lập tức đặc tả cây gậy - một chiếc gậy gỗ tần bì dùng lâu năm, chỗ kẹp nách quấn miếng da dê cũ, nơi tay thường nắm đã bị mài bóng nhẵn.
Đoạn thứ hai được quay trong nhà, Mã Hãn Tử ngồi khép chân một cách gò bó nhưng thành thật, hai tay đặt ngay ngắn trên đầu gối, đang thành khẩn khai báo.
“Xe của bọn xâm lược chạy tới, tôi ra chặn, cửa xe vừa mở, họ ném gậy xuống. Còn bảo tôi truyền tin cho làng…”
Người quay: “Truyền tin gì?”
“Bảo rằng ngày tám, Hoàng quân muốn gặp Bát Lộ bàn chuyện…”
Người quay khó chịu: “Mày bớt diễn đi! Nguyên văn thế nào? Một chữ cũng không được sai!”
Mã Hãn Tử vô cùng bất mãn, lẩm bẩm hồi lâu rồi mới khàn giọng, giả bộ hung hăng: “Đồ ngốc! Cầm gậy đi, có ai hỏi thì nói, ngày tám đến Nam Ba Hâu Đầu tìm thằng què.”
Sau đó lại diễn vai chính mình, mặt ngơ ngác: “Hầu Đầu gì? Tôn Ngộ Không à?”
Cuối cùng còn phụ họa tiếng xe rời đi: “U… u…”
Rồi dang hai tay ra, ý là: hết rồi, không thiếu một chữ.
Video đến đây thì kết thúc.
Nhiếp Cửu La bật cười, chẳng trách Mã Hãn Tử lúc đầu hát mấy câu chế lời từ Tây Du Ký, hóa ra là bị hai chữ “Hầu Đầu” khơi gợi.
Mã Hãn Tử tính ra cũng coi như người nhà, cha chết sớm, mẹ cực khổ nuôi lớn, nhưng lúc bảy tuổi lại phát sốt cao, mẹ không coi trọng, lục được mấy viên thuốc cảm hết hạn cho uống, rồi bảo đắp chăn dày cho toát mồ hôi. Đắp một lần, hai lần, bệnh thì khỏi, mà đầu óc cũng hỏng theo.
Chuyện đã rồi, mẹ cậu ta khóc thảm một trận rồi bỏ đi.
Mã Hãn Tử từ đó thành đứa bé trong làng nuôi lớn bằng cơm trăm nhà, có ơn thì biết báo, một lòng giữ gìn Bản Nha, quanh năm vì Bản Nha mà đánh đủ loại “chiến tranh đối ngoại”. Tuy đầu óc có vấn đề, nhưng không hỏng hoàn toàn, thỉnh thoảng truyền tin, nói việc gì, cũng ra dáng.
Hôm Hình Thâm tìm cô, từng nói “Lão Què mất tích rồi”, xem ra đối phương không moi được gì từ miệng ông ta, nên muốn lợi dụng chuyện có người làm con tin mà khuếch trương, hẹn vào ngày tám, ở “Nam Ba Hầu Đầu”.
Khó trách lại kêu cô đến, chuyện thế này, đúng là cần có lưỡi dao trấn thủ.
Viêm Thác có đi không? Nếu lại chạm mặt, lại có thể đánh hắn rồi?
Nhiếp Cửu La thấy có chút hứng khởi.
Thật ra cô không nghiện đánh nhau, nhưng cái gọi là “kỳ phùng địch thủ”, luôn khiến người ta muốn phân cao thấp. Người ta nói ba ván định thắng bại, hiện tại đã qua hai, hòa nhau - cô nhờ tập kích và thuốc tiêm mà hạ được hắn, hắn thì nhờ bất ngờ và dìm nước mà hạ được cô, đều không tính là đối đầu bằng thực lực tuyệt đối.
Huống chi, lần thua sau cùng là cô, nên khát vọng gỡ gạc càng mãnh liệt.
Trong đầu cô đã phác họa ra đoạn kết hoàn mỹ cho chiến thắng của mình - cô phải đạp Viêm Thác chặt chẽ xuống đất, đạp đến mức không còn sức phản kháng, rồi lấy cái chốt từng giả làm bom ra, nói với hắn: “Tôi cũng không làm khó anh, ăn đi, ăn rồi tôi thả anh đi.”
Giọng phải dịu dàng, tư thế phải tao nhã, mà khí thế phải nghiền áp.
Quá hoàn mỹ, chỉ thiếu một trận thắng mà thôi.
…
Lúc tâm trí bay nhảy, thời gian trôi nhanh lạ thường, mười phút thoắt cái qua đi, điện thoại của Tưởng Bách Xuyên đã gọi đến.
Nhiếp Cửu La hỏi: “Nam Ba Hầu Đầu là nơi nào?”
Tưởng Bách Xuyên giải thích sơ lược, đây là cách gọi của người thợ rừng xưa dành cho những ngọn núi trong dãy Tần Ba, vì Tần Ba sơn địa không phải một ngọn độc lập, mà là chập chùng vô số núi lớn nhỏ kéo dài hàng trăm dặm. Phương thức đặt tên trong khảo sát khoa học hiện đại thì khô cứng, chỉ là “Số 1”, “Số 2”… còn trước kia, cách gọi thì sinh động, đều dựa vào hình dạng: nào là “Nam Ba Hầu Đầu”, “Nam Ba Miệng Cá”, “Nam Ba Đuôi Cá Sấu”…
Nam Ba Hầu Đầu chính là một ngọn núi sâu trong dãy Tần Ba, xem ra đối phương không hề xa lạ gì với vùng này.
Nhiếp Cửu La nói: “Thật phải đi sao? Nghe như đi dự tiệc Hồng Môn vậy.”
Tưởng Bách Xuyên bất đắc dĩ cười: “Còn tệ hơn tiệc Hồng Môn, đi Hồng Môn ít ra còn có cái ăn, đến đó, cô biết chờ mình là gì không?”
Nhiếp Cửu La: “Thế còn đi?”
Tưởng Bách Xuyên nói: “Lão Què là người già rồi, bao năm huynh đệ, đồng bạn gặp nạn, sao có thể không cứu? Năm chín mốt, lần đầu đi Thanh Nhượng, mọi người uống rượu, đã thề, có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu.”
Nhiếp Cửu La im lặng, chuyện cũ này, cô từng nghe Tưởng Bách Xuyên nói.
Tóm lại là, vận mệnh cá nhân và gia tộc, đều gắn liền với thời thế và quốc vận. Cái gọi là quốc thái mới dân an. Trăm năm trước giải phóng, đất nước gian nan, dân thường lay lắt từng ngày, cơm còn không đủ no, lấy đâu ra sức lực “đi Thanh Nhượng”? Sau giải phóng lại là phá Tứ Cựu, làm vận động, chuyện Thanh Nhượng càng chẳng ai nhắc tới.
Tưởng Bách Xuyên sinh vào nửa sau thập niên sáu mươi, thời ấy việc học hành bị lỡ dở, tất nhiên bản thân ông cũng chẳng coi trọng, nghĩ rằng thợ săn, dựa núi mà sống, một nghề ăn cả đời.
Không chỉ ông, đám bạn bè xung quanh cũng đều nghĩ vậy.
Nhưng có nghề trong thời đại mới có thể hồi sinh, cũng có nghề tất phải rút khỏi sân khấu lịch sử. Năm 1988, Luật Bảo vệ động vật hoang dã Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được ban hành, ngày 1 tháng 3 năm 1989 chính thức thực thi.
Bỗng chốc, động vật hoang dã phải bảo vệ, tài nguyên thuộc về quốc gia, săn bắn mưu lợi là phạm pháp.
Tưởng Bách Xuyên ngẩn người, đám bạn “học vô dụng”, ngoài săn bắn chẳng có kỹ năng nào cũng đều ngẩn người.
Lão Què càng thở dài than vãn: cha mẹ vợ vốn đã chê bai ông không có công việc ra hồn, giờ thì hay rồi, đến cái bát cơm “không ra hồn” cũng bị hất đổ.
Có người đề nghị: “Kệ mẹ nó, luật ở tận Bắc Kinh, rừng thì ở ngay bên, mình săn, cách ngàn dặm sao biết được?” Tưởng Bách Xuyên thấy không ổn, phạm pháp là phải ngồi tù, hơn nữa pháp luật chỉ ngày càng hoàn thiện, thi hành cũng ngày càng nghiêm.
Cân nhắc tới lui, Tưởng Bách Xuyên nói: “Chúng ta đi Thanh Nhưỡng một chuyến đi.”