Cuộc Nổi Dậy Của Nhà Tây Sơn - Chương 2

CHƯƠNG II

CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO ĐÒI CHIẾM QUYỀN BÍNH

* * *

Được làm vua, thua làm giặc

-Ngạn ngữ Việt Nam-

Cuộc nổi dậy khởi phát ở ấp Tây Sơn được đẩy nhanh bởi sự gia tăng cuộc khủng hoảng kinh tế tại Đàng Trong và những cuộc xung đột kéo dài giữa nhà Nguyễn với các nhóm dân vùng cao chống lại sự hợp nhất với chính quyền ở vùng đồng bằng. Cùng lúc đó, có lẽ thắng lợi của phong trào được củng cố nhờ sự suy yếu của một chính thể đã bị phân hóa từ bên trong, khi quyền hành bị phân tán mỏng trong suốt thế kỷ XVIII. Các lãnh tụ Tây Sơn đã kết hợp sự bất mãn về kinh tế và chính trị của dân chúng với cơ hội biến một nhóm người ủng hộ nhỏ bé và thứ yếu về mặt địa lý thành một lực lượng quân sự và chính trị quan trọng. Để có thể hiểu được sự chuyển đổi này và cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn như một lực lượng chính trị, tôi bắt đầu khảo sát xem các lãnh tụ của phong trào này đã quan niệm như thế nào về những hành động của họ và về mối quan hệ giữa họ với những cơ cấu chính trị đang tồn tại. Trong lúc những biến động của thời kỳ này chứng tỏ rằng khả năng kiểm soát dân cư của triều đình nhà Nguyễn có giới hạn, chúng cũng cho thấy rõ những nhân vật có sức lôi cuốn đặc biệt đã huy động người dân như thế nào để nắm lấy quyền lực chính trị.

Một vài nhà sử học Việt Nam vào giữa thế kỷ XX, đặc biệt là Trần Huy Liệu và Văn Tân, đã khảo sát những biến động chính trị của thời kỳ này và coi đó là một cuộc cách mạng*. Họ miêu tả cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn như một nỗ lực tập trung nhằm lật đổ những thế lực chính trị thối nát, thống nhất đất nước, bảo vệ non sông chống lại những mối đe dọa từ bên ngoài và xiển dương các yếu tố văn hóa trong nước, Sự giải thích phong trào như thế đã phản ánh một cách thích hợp chủ thuyết chính trị của nhà nước miền Bắc Việt Nam sau năm 1954, đồng thời che đậy những phức tạp đích thực của thời kỳ Tây Sơn. Một cuộc khảo sát tỉ mỉ hơn cho thấy rõ rằng những thành tích của phong trào Tây Sơn không để lộ một hệ tư tưởng mạch lạc nào của những người lãnh đạo nó. Ngoài ra, mặc dù cuộc nổi dậy đưa đến một thay đổi về mặt chính quyền và tổ chức lại lãnh thổ Việt Nam, tác động chính trị của nó không có tính cách mạng khi phần lớn những cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội cơ bản vẫn không có gì thay đổi.

Các lãnh tụ chính trị Tây Sơn tiếp tục hành động trong khuôn khổ chính trị sẵn có, lợi dụng các xung đột và bất đồng vào các mục tiêu chính trị của họ, trong khi họ không bao giờ làm tốt hơn chúng. Một mặt các lãnh tụ Tây Sơn tiêu biểu cho một lực lượng mới nổi trên lãnh thổ Đàng Trong, với những cư dân năng động và tài nguyên kinh tế có thể ủng hộ tham vọng của họ. Mặt khác, nhiều mô hình biến động chính trị vào thời kỳ này từng xảy ra trước đây trong lịch sử Việt Nam, và chế độ do nhà Tây Sơn thiết lập trông cũng không khác gì những chế độ mà họ đã thay thế. Vì thế, thay vì miêu tả anh em nhà Tây Sơn như những nhà cách mạng, chính xác hơn là chúng ta nên xem họ như những diễn viên phụ (cho dù là ghê gớm) trên một sân khấu chính trị đông đúc và rộng lớn mà diễn viên và đồ dùng đã được dọn sẵn. Mở rộng cách ẩn dụ này hơn nữa, có thể nói các lãnh tụ Tây Sơn là những diễn viên không có kịch bản, tùy nghi ứng biến vai diễn của họ cũng như hướng giải quyết của vở kịch. Họ được dẫn dắt không phải bởi một tầm nhìn dài hạn mà bởi động cơ cá nhân ngắn hạn, đáp ứng với những tình huống hay thay đổi. Chương này sẽ xét xem các lãnh tụ Tây Sơn quan niệm cách nào về hành động của họ và cơ chế chính trị nhờ đó gia tăng số người ủng hộ họ và hợp pháp hóa những đòi hỏi của họ.

II. 1. NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN

Khi cố gắng tìm hiểu sự thúc đẩy về tư tưởng đằng sau một phong trào rộng lớn như phong trào Tây Sơn, các nhà quan sát muốn tìm thấy các hình thức tôn giáo hay những biểu thị rõ nét có liên quan với các phong trào nông dân khác ở Đông Á và Đông Nam Á vào đầu thời kỳ hiện đại*. Tuy nhiên, những biểu thị như thế hầu như hoàn toàn vắng bóng. Mặc dù có sức mạnh rõ rệt và dấu hiệu đả phá tín ngưỡng trong hành động của họ, quân đội Tây Sơn đã không tạo một cuộc vận động cứu thế. Giới lãnh đạo Tây Sơn không hành động theo một nhiệt tình tôn giáo nào, và hình như quân đội của họ không mưu tìm sự kiên nhẫn hay dũng cảm từ bùa phép hay hình tượng tôn giáo. Trên phương diện này, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn giống như những phong trào quần chúng khác ở thế kỷ XVIII, ít chịu ảnh hưởng bởi nhiệt tình tôn giáo. Như Hue-Tam Ho Tai* đã chỉ ra trong công trình nghiên cứu quan trọng của bà nhan đề Millenarianism and Peasant Politics in Vietnam (1983) (Chủ thuyết thiên niên và chính sách về người nông dân tại Việt Nam), các hoạt động cứu thế của người Việt là một hiện tượng chủ yếu thấy ở các lãnh thổ phía nam Việt Nam*. Hue-Tam Ho Tai không lập luận rằng loại hành động như thế không xảy ra ở các vùng phía bắc, mà cho rằng những điều kiện ở vùng hạ Đàng Trong (vào thế kỷ XIX) phù hợp đặc biệt với hoạt động cứu thế. Ngay cả ở phía nam, hoạt động cứu thế cũng chỉ xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XIX. Thật vậy, dù thường ở vào trung tâm của những phong trào như thế, Phật giáo vẫn là một điều gì đó mà các lãnh tụ Tây Sơn xem thường, hoặc thậm chí thù nghịch.

Sự thiếu vắng nền tảng tôn giáo trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đã lôi cuốn sự chú ý của các nhà nghiên cứu Việt Nam. Trong một bài viết vào năm 1965 nhan đề "Tại sao các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Việt Nam ít có màu sắc tôn giáo?”, Nguyễn Khắc Đạm lập luận rằng trong lúc tại Việt Nam, về mặt lịch sử, một vài phong trào quần chúng do các nhân vật tôn giáo lãnh đạo, các phong trào nông dân Việt Nam nói chung đã không được lãnh đạo bởi các chức sắc tôn giáo, cũng không nhằm chống lại các cơ sở tôn giáo. Đôi lúc, như trong thời kỳ Tây Sơn, đã có những nỗ lực nhằm tước mất quyền năng của các tổ chức tôn giáo, nhưng không như người nông dân châu Âu vẫn thường thách thức Giáo hội Công giáo, người nông dân Việt Nam không cần tấn công các cơ sở tôn giáo để giành lấy sự thuận lợi về kinh tế*. Mặc dù ông Đạm bỏ qua những căng thẳng phức tạp giữa các cơ sở tôn giáo giàu có với nhiều cuộc nổi dậy của người dân vào các thế kỷ XVII và XVIII, có vẻ như các cuộc tấn công chống Phật giáo trong thời kỳ Tây Sơn chỉ có tính ngẫu nhiên hơn là thuộc về quan điểm chủ yếu của những người nổi dậy.

Thế giới tư tưởng của người nông dân Việt Nam tất nhiên là đầy rẫy những yếu tố tôn giáo - những tín ngưỡng khó tách rời với thực tiễn nghi thức và xã hội hàng ngày - và điều này khá phổ biến trong thời kỳ Tây Sơn. Thật vậy, như chúng ta sẽ thấy, tín ngưỡng dân gian hướng vào sự siêu nhiên là một thành phần quan trọng trong phong trào Tây Sơn, đặc biệt là trong giai đoạn ban đầu. Cùng lúc đó, những yếu tố của các cấu trúc tôn giáo được thể chế hóa (dù có được giải thích lại), vốn khá rõ nét trong nhiều cuộc nổi dậy của người dân tại Đông Á và Đông Nam Á, lại gần như hoàn toàn thiếu vắng trong phong trào Tây Sơn. Trong khi các lãnh tụ Tây Sơn đề cập đến tín ngưỡng dân gian và đôi lúc vận dụng nó vào thế giới tâm linh, và các thế lực siêu nhiên, trong một ý nghĩa nào đó, đã liên kết phong trào Tây Sơn với các lực lượng tôn giáo, việc triển khai những thế lực này được xem như một phương tiện để đạt được cứu cánh về vật chất hơn là một mục tiêu hợp nhất tinh thần. Do nhà Tây Sơn không nêu rõ một quan điểm lâu dài để lãnh đạo phong trào, cũng không hợp nhất giới nông dân thông qua những lời hứa hẹn về một nỗ lực tinh thần chung, các lãnh tụ phong trào đã gây dựng sự tín nhiệm cho họ và thúc đẩy những người theo họ bằng những từ ngữ tầm thường nhất. Xét về cơ bản, phong trào cần đến năng lực của những lãnh đạo năng động và có sức lôi cuốn, có khả năng đặc biệt trong việc huy động binh lính bổ sung cho quân đội của họ, cùng những thắng lợi ban đầu chống lại một chính thể bị chia rẽ vì tình trạng bè phái và bị cản trở bởi một đạo quân yếu kém. Thật vậy, hình như sự kết hợp giữa sức lôi cuốn quần chúng của anh em Tây Sơn với lời tuyên bố là cuộc nổi dậy của họ nhằm thực hiện một lời tiên tri tạt địa phương - được khẳng định bằng các mối liên hệ đã được chứng minh với thế giới siêu nhiên - đã tìm được sự ủng hộ ban đầu của người dân. Hướng đi đó cũng tập trung sự chú ý vào chính các lãnh tụ Tây Sơn và phong trào tiếp tục được lèo lái bởi mục tiêu cá nhân của các nhà lãnh đạo (hoặc cố vấn của họ) và bởi những hoàn cảnh trong đó họ tự nhận thức được mình, hơn là từ một ý thức hệ riêng biệt. Sự thiếu vắng một ý thức hệ cho thấy là các lãnh tụ Tây Sơn có thể được coi như những kẻ cơ hội hơn là những người biết nhìn xa trông rộng, và mục tiêu của phong trào của họ luôn thay đổi, thiếu hẳn yếu tố kiên định và rõ ràng.

Như một phần trong nỗ lực lôi cuốn người ủng hộ, các lãnh tụ Tây Sơn phải hợp pháp hóa các khát vọng chính trị của họ, một công việc phức tạp ở một lãnh vực mà không có một phương thức nào được thừa nhận để tạo sự tín nhiệm về mặt chính trị. Vì thế, họ cố gắng đi tìm sự hợp pháp, hoặc có lẽ chính xác hơn là họ tự cho là hợp pháp, bằng nhiều cách khác nhau. Như một nhà quan sát châu Âu đương đại đã viết về những nỗ lực lớn lao của các lãnh tụ Tây Sơn về mặt này:

“Về phần mình, nhà Tây Sơn không có phương sách nào mà không thử nghiệm, cũng không có một cơ hội nào mà họ bỏ qua, vì đó có thể là những phương tiện giúp họ được nhiều người biết đến. Giới thương nhân thì giải trí xa hoa, lễ lạt và pháo bông; tướng lãnh thì phỉnh phờ quân đội; còn các giáo sĩ thì thuyết phục hàng giáo phẩm công bố cho những người dân vô tâm các sắc chỉ của Tiên* đã phong ba vị* này là những nhà cai trị tương lai của họ”*.

Nhận xét trên - và phần còn lại của chương này sẽ làm rõ - cho thấy rằng nhà Tây Sơn đã kêu gọi sự hạp pháp hóa ở nhiều mức độ khác nhau: những lời kêu gọi trừu tượng, vừa có tính huyền bí lẫn đạo đức; các chính sách kinh tế xã hội, trong đó có chính sách tái phân phối, và những chính sách khác nhằm giải quyết các vấn đề về cấu trúc kinh tế cùng nhiều nỗ lực về mặt tổ chức nhằm kết nối họ với nhiều cơ cấu quyền lực đang tồn tại. Xét chung, những phương thức nhằm hợp pháp hóa về mặt chính trị này nhằm củng cố sức mạnh và quyền hành cho các lãnh tụ Tây Sơn. Mỗi phương thức nhằm đáp ứng các tình huống, các đối tượng và nhu cầu cấp bách riêng biệt từng thời điểm. Mặc dù chương này sẽ lần lượt khảo sát những chiến lược đó, các lãnh tụ Tây Sơn không nhìn chúng theo cách khoanh vùng, mà cũng không khái niệm hóa chúng theo một phong cách tiện dụng. Ngoài ra, trong lúc những phương cách này được trình bày liên tiếp ở đây, chúng không được khai triển theo thứ tự thời gian. Một vài phương cách được trình bày ngắn gọn, trong khi những cái khác trải dài suốt thời kỳ Tây Sơn.

II.2. TÍNH CHÍNH THỐNG VỀ CHÍNH TRỊ CỦA NƯỚC ĐẠI VIỆT XƯA

Mặc dù lịch sử Việt Nam là lịch sử kéo dài của tính cha truyền con nối, vấn đề chính thống về mặt chính trị không bao giờ rõ ràng. Có những thời kỳ yên bình, sự kế vị diễn ra một cách có trật tự, quyền hành được chuyển cho người kế tục đã được chỉ định, song nhiều sự kế vị khác đã không được thừa nhận do sự lừa bịp hoặc bạo lực. Cũng có những trường hợp người kế vị bị thay thế bởi người đang trị vì hoặc do bè cánh về chính trị. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, có những giai đoạn quyền lực được phân chia giữa người đang trị vì với một người hay một nhóm quý tộc. Vì thế, tính chính thống về mặt chính trị có thể xuất phát từ nhiều cách khác nhau, thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu riêng của người tuyên bố nắm quyền.

Thực tế phức tạp liên quan đến tính chính thống về chính trị này có thể tìm thấy vào những giai đoạn sớm nhất trong thời kỳ độc lập của Việt Nam, vào thế kỷ XI, khí quyền cai trị có quan hệ chặt chẽ với những biểu trưng đặc biệt của “đức vương”*. Như Keith Taylor đã chỉ rõ, tính chính thống của triều Lý (1009-1225) là một chức năng của điều mà ông gọi là “tín ngưỡng triều Lý", theo đó việc tuyên bố nắm quyền phần lớn xuất phát từ quan hệ giữa người cầm quyền với nhiều thần linh trong vùng đất đó. Nói cách khác, tính chính thống mang tính cá nhân nhiều và phải được chứng tỏ một cách tích cực bởi các nhà cai trị nối tiếp nhau. O.W. Wolters cũng lập luận rằng vào thế kỷ XIII, người Việt không có một hệ thống cố định về quyền trưởng nam hoặc một thông lệ chặt chẽ nào đối với vấn đề kế vị ngai vàng. Cũng như ở những quốc gia Đông Nam Á khác, các nhà cai trị ở Việt Nam thời kỳ này là những lãnh tụ anh hùng xây dựng sự liên kết thông qua hôn nhân hay những lời tuyên thệ trung thành. Mặc dù vào thế kỷ XIII, triều đại nhà Trần (1225- 1400) đề ra một tập tục kế vị chính thức như một phần nỗ lực né tránh những người không thừa nhận họ, song điều này vẫn không chấm dứt những cuộc tranh giành quyền lực phức tạp.

Dựa vào một phân tích các triều đại đầu tiên và tiếp theo đó, Ralph Smith cho rằng về mặt lịch sử, Việt Nam trải qua những chu kỳ mà các chế độ theo Nho giáo xen lẫn với những chế độ thể hiện sức mạnh chính trị, tức thể hiện tính hợp pháp của họ, từ những nguồn xuất phát khác. Một khảo sát ngắn về các chế độ chính trị tại Việt Nam khỏi đầu vào thế kỷ XIV hình như đã xác minh điều đó. Cuối thế kỷ XIV, thông qua hôn nhân, Hồ Quý Ly trở thành thành viên của dòng họ Trần đang trị vì và chiếm lấy ngai vàng từ cương vị này*. Ông ta lập nên một chính quyền theo khuôn mẫu Nho giáo trước khi bị quân đội Trung Hoa lật đổ vào năm 1406. Rồi quân Minh cũng bị Lê Lợi đánh đuổi và lập nên triều đại mới với một tính chính thống về Nho giáo thậm chí còn lớn hơn nữa. Tính chính thống về mặt chính trị dựa vào Nho giáo đạt đến cao điểm dưới triều Hồng Đức của vua Lê Thánh Tông, vị vua thứ 5 triều Lê. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XVI, triều đại nhà Lê bắt đầu sụp đổ, vai trò nổi bật về chính trị của Nho giáo cũng không còn nữa. Lợi dụng biến động chính trị này, Mạc Đăng Dung chiếm lấy ngai vàng, và dù ông ta có ý quay lại các chuẩn mực Nho giáo thời Hồng Đức, song điều này cũng không tồn tại được lâu. Thay vào đó, nước Đại Việt bước vào một thời kỳ rộng mở, trong đó năng lực về quân sự và quan hệ gia đình được coi là những yếu tố quyết định mang lại quyền lực chính trị*. Xét về cơ bản, Nho giáo và các nỗ lực chính thống hóa dựa vào học thuyết này đã lùi xa sau khi nhà Mạc bị đánh bại vào cuối thế kỷ XVI.

Như chúng ta đã thấy trong chương trước, sự phân chia lãnh thổ giữa hai họ Trịnh-Nguyễn tạo ra hai thực thể chính trị, mỗi nơi có cách chính thống hóa về mặt chính trị riêng. Chế độ nhà Nguyễn tiếp tục đi theo hướng phi-Nho giáo đã xuất hiện trong cuộc chiến chống nhà Mạc, họ cai trị một đất nước mà quyền lực chính trị xuất phát từ các liên minh quân sự cũng như từ sự ủng hộ của Phật giáo. Tại Đàng Ngoài do họ Trịnh kiểm soát, có những thời kỳ Nho giáo được phép phát triển trở lại và được sử dụng như một thế lực chính thống hóa, đặc biệt trong thời gian tại vị của chúa Trịnh Tạc (1657-1682). Tuy nhiên vào đầu thế kỷ XVIII, một lần nữa Nho học lại suy tàn, và đến thời Trịnh Giang (1729-1740), chính quyền Đàng Ngoài cấm du nhập từ Trung Quốc các sách về Nho giáo, trong khi sách kinh Phật giáo lại được tích cực sưu tập. Cùng lúc đó, người ta có thể mua điểm trong các kỳ thị Nho học, làm mất giá trị của chúng và xói mòn một trong những nền tảng của trật tự chính trị Khổng giáo. Cơ cấu chính trị vào thời kỳ này rất phức tạp bởi sự phân tán liên tục quyền lực chính trị trong các thành viên của hai dòng họ Nguyễn và Trịnh vào lúc mà vua Lê vẫn tiếp tục ngồi trên ngai vàng ở Thăng Long. Thêm vào đó, vào giữa thế kỷXVIII, nhiều nhân vật thách thức quan trọng đối với dòng họ Trịnh nổi lên trong dòng họ nhà Lê, cho rằng tính chính thống của nhà Lê vẫn còn là một tiêu chuẩn chính trị quan trọng. Vì thế, khi nhà Tây Sơn nổi dậy vào năm 1771, cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều đứng trước thử thách phải xác định khái niệm hợp pháp về mặt chính trị, ngoài ra, còn phải đương đầu với các ý tưởng quanh co về nguồn gốc của tính chính thống đó.

Bối cảnh chính trị vào thế kỷ XVIII được định hình bởi những cuộc đua tranh quyền lực. Với một lịch sử kéo dài và khá phổ biến về những thách thức đối với khái niệm về tính hợp pháp chính trị và sự kế vị triều đình một cách trật tự, lãnh thổ của người Việt vẫn để ngỏ cho những đòi hỏi mới về quyền lực chính trị, đặc biệt trong thời kỳ hỗn loạn. Vào những thời điểm như thế, quyền lực chính trị thường được khẳng định bởi sức mạnh thể hiện dưới hình thức một quân đội mạnh. Thật vậy, cách khẳng định quyền lực đó dễ được tin tưởng ở Việt Nam trong buổi đầu thời hiện đại, nhất là đã tạo ra những rối loạn trong các cuộc truyền ngôi báu đã qua. Ý tưởng cho rằng thực tế chính trị có thể không phản ánh một cơ cấu chính trị được lý tưởng hóa gói gọn trong câu nói dân gian "được làm vua, thua làm giặc”. Những ai có đủ quyền lực thì được làm vua, những ai không có quyền lực thì làm giặc. Vào thời kỳ Tây Sơn, ý tưởng này được lặp lại bởi một tướng tài giỏi của phong trào Tây Sơn là Ngô Văn Sở. Trong một lần bàn luận với lãnh tụ Tây Sơn là Nguyễn Huệ, Sở đã nhận xét rằng “từ xưa đến nay, thiên hạ* không phải là riêng của một dòng họ; nếu ta có thể nắm lấy thiên hạ thi hãy tiến tới và hành động”. Trong lúc chưa có một phương cách nào giúp nắm lấy quyền lực, nhận định của Ngô Văn Sở phản ánh một thực tế lịch sử nhất định. Và dù sao thì cũng như nhiều người đi trước họ, các lãnh tụ Tây Sơn biết rằng một thế lực tàn bạo không phải lúc nào cũng là những phương tiện đủ và có hiệu quả để lôi cuốn người khác theo mình hoặc đạt được tính hợp pháp. Một tính hợp pháp như thế còn cần dựa vào những biểu hiện thiêng liêng hoặc sự hỗ trợ có tính siêu nhiên, hoặc những dấu hiệu cụ thể hơn của quyền hành chính trị.

II.3. SỰ CHUẨN NHẬN CỦA “TRỜI” VÀ NHỮNG TUYÊN BỐ SIÊU NHIÊN VỀ QUYỀN LỰC

Từ những ngày đầu của cuộc nổi dậy, các anh em nhà Tây Sơn dựa nhiều vào tín ngưỡng dân gian liên quan đến thế lực siêu nhiên, trong đó có tính quan trọng của những lời tiên tri, điềm báo, và những biểu hiện khác của quyền lực cá nhân nhằm hợp pháp hóa yêu sách chính trị của họ. Điều này đặc biệt quan trọng trong những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy vì đó là một công cụ quan trọng giúp những người trong cuộc lảng tránh chuyện họ thiếu hẳn các mối quan hệ chính trị. Trong khi sự tự kết nối với các cơ cấu chính trị hiện hữu có một giá trị to lớn, như sẽ được chứng minh sau này, thì khả năng chứng tỏ rằng những quyền lực cao hơn là công cụ giúp con người đạt đến sự xuất chúng thường có một giá trị tức thời. Ngoài ra, các lãnh tụ Tây Sơn thường vận dụng tín ngưỡng dân gian trong thế giới thần linh và siêu phàm, trong đó có khái niệm về “ý trời”, trong lúc họ vẫn nhấn mạnh đến các lời tiên tri và những chỉ dấu khác về vận mệnh dành cho họ. Như Michael Adas đã viết trong tác phẩm Prophets of Rebellion (1979) (Những lời tiên tri về cuộc nổi dậy): “Những khải huyền này và luận điệu của các nhà tiên tri tự coi mình là những đấng cứu thế siêu phàm hoặc được trời sai xuống để phê chuẩn những quyết định của họ và truyền đạt ý niệm về tính hợp pháp cho những người theo họ”*. Rõ ràng là cơ chế này vận hành trong trường hợp của nhà Tây Sơn và là công cụ giúp các lãnh tụ cuộc nổi dậy nhận được sự tin tưởng của những người theo họ.

II.3.1. Nhà Tây Sơn và Thiên Ân

Thông qua các cuộc vận động, các lãnh tụ Tây Sơn vẫn thường nhấn mạnh một trong những ý tưởng chính là những gì họ làm không đơn thuần là việc làm của một nhóm nông dân bất mãn. Đúng hơn, đó là một sứ mạng thiêng liêng phản ánh “ý trời” và liên hệ với điều mà họ gọi là “mệnh trời”. Từ ngữ này dễ dàng bị cường điệu hóa, thường được sử dụng hoặc để nói đến một định mệnh nào đó xảy đến trong tương lai, hoặc một cách nói giễu cợt khi đề cập đến vận mệnh đổi thay. Tuy nhiên, không có gì đáng nghi ngờ rằng từ ấy (và những biến thể của nó sau đó) là một yếu tố quan trọng trong thế giới tư tưởng và những cuộc đàm luận về thời đại này. Trong thế giới quan của người Việt, khái niệm về “trời” (thiên) kết hợp ý thức hệ ưu tú của Khổng giáo với ý niệm của người dân về các sức mạnh thiêng liêng. Đó không phải là trời trong ý nghĩa tôn giáo như cái thế giới của kiếp sau mà là sự đề cập một cách trừu tượng hơn về một sức mạnh siêu hình, đôi khi có thể bức chế và định hình những diễn biến trên đời. Trời thường được dùng để nói đến những gì ở bên trên - như bầu trời ” với những mối liên kết với mùa, thời tiết, và tất cả những hiện tượng tự nhiên khác. Vì thế, sự hiểu biết của người Việt Nam về trời nhắc đến nhiều ý tưởng có liên quan và sự kết nối giữa người trần tục với thần thánh.

Dù cho trời đôi lúc được quan niệm như một sức mạnh dẫn dắt định mệnh của con ngươi và tạo ra các thể chế, nhưng không phải lúc nào ý niệm đó cũng được xem như là những tác nhân gây ra sự đổi thay. Những giải thích khác về trời coi đó là sức mạnh phản ánh - chứ không phải điều khiển - diễn biến các sự kiện. Như Alexander Woodside đã chỉ rõ, các học giả Việt Nam vào thế kỷ XVIII thường không xem trời là ý niệm định đoạt diễn biến các sự kiện, theo ý nghĩa của thuyết định mệnh- Hơn thế nữa, họ quan niệm nguồn gốc những đổi thay và chuyển biến nằm trong thế giới con người, đặc biệt có liên quan đến đạo đức và phẩm hạnh của cá nhân các nhà lãnh đạo. Vì vậy, trời có thể biểu lộ bằng nhiều dấu hiệu khác nhau, song không phải là sự biểu thị của một kết quả tiền định, mà là phản ánh sự hạn chế về mặt đạo đức của những nhân vật đặc biệt. Alexander Woodside nhắc đến danh sĩ nổi tiếng Nguyễn Thiếp vào thế kỷ XVIII khi ông nhận định rằng: “sự hủy diệt đất nước và gia đình xảy ra do sự bại hoại của đạo đức làm người, do những nhà cai trị tầm thường, và do những quan lại chỉ biết xu nịnh họ, không do những tiến trình không thể đảo ngược lại vượt ra ngoài tầm với của con người”. Quan điểm của Nguyễn Thiếp cho thấy là trời không gây ra những biến đổi trong thế giới loài người, mà chỉ báo hiệu chúng.

Các nho sĩ thế kỷ XVIII cũng có chung ý niệm này, điều đó cho thấy rõ họ hiểu về mối tương tác giữa ý trời và dục vọng của con người. Một nho sĩ nổi tiếng là Ngô Thì Sĩ đã viết rằng: “Người ta sinh ra đều có mệnh... mệnh là trời phú cho”. Con ông là Ngô Thì Nhậm thì nhận xét rằng: “Trời trông, trời nghe do ở dân. Lòng dân yên định thì ý trời cũng xoay chuyển”. Rõ ràng là những nho sĩ sống cùng thời với phong trào Tây Sơn nhìn thấy mối quan hệ giữa con người và trời là quan trọng và không dễ giải quyết. Hơn nữa, tình trạng căng thẳng này còn tìm thấy trong cách các lãnh tụ Tây Sơn chứng minh cho hành động của họ. Một mặt, họ lập luận rằng một quyền lực thiêng liêng buộc họ phải hành động, tức khái niệm về ý trời; mặt khác, họ thừa nhận rằng động lực chính của họ là sự khốn khổ của người dân do sự cai trị tồi mà ra. Nêu lên quyền lực của “trời” trong thế giới tư tưởng của người Việt thế kỷ XVIII, các lãnh tụ Tây Sơn ngay từ lúc khởi đầu cuộc nổi dậy đã nói đến ý trời như sự hỗ trợ, cổ vũ cho phong trào và các mục tiêu của họ. Chẳng hạn như họ đúc chiếc ấn quân sự cho các tướng lãnh của họ có hàng chữ “Phụng Thiên phạt bạo Nguyễn Phúc”* (Vâng mệnh trời trừng phạt bạo chúa [họ] Nguyễn Phúc)*. Câu đó ám chỉ vị chúa Nguyễn cuối cùng là Nguyễn Phúc Thuần, người đã được Trương Phúc Loan đưa lên ngai vàng. Ở đây chúng ta có được chứng cứ cụ thể nhất về việc các lãnh tụ Tây Sơn gợi lên khái niệm mệnh trời, nhân danh người dân để hướng dẫn hành động của họ. Hơn nữa, thông điệp trong chiếc ấn nêu rõ sự giận dữ của trời thông qua nhà Tây Sơn, trước sự cai trị tồi của nhà Nguyễn.

Nhiều bài tường thuật của các chứng nhân người châu Âu nhấn mạnh đến việc các lãnh tụ Tây Sơn nêu lên tầm quan trọng của mối liên hệ với trời và sự phù hộ của trời dành cho phong trào của họ. Tháng 2 năm 1774, một giáo sĩ người Tây Ban Nha* là Diego de Jumilla viết về nhà Tây Sơn rằng “họ loan báo cho các làng mạc rằng họ không phải là kẻ cướp, mà họ tiến hành một cuộc chiến tuân theo ý trời”. Bài viết của một giáo sĩ Pháp về những ngày đầu của phong trào cũng cho rằng “[các lãnh tụ Tây Sơn] phổ biến hàng ngàn câu chuyện về những giấc mơ và các dấu hiệu từ trời chứng minh cho sứ mạng của họ”. Một du khách ngươi Âu khác viết rằng người trẻ tuổi nhất trong ba anh em Tây Sơn là Nguyễn Lữ đã tuyên bố rằng các vị tiên* đã ban chiếu chỉ rằng cả ba anh em nên phục vụ như những nhà cai trị mới của vương quốc. Những lời ám chỉ sớm sủa đó cho thấy rõ rằng các lãnh tụ cuộc nổi dậy đã đã phổ biến cách giải thích của họ về ý trời ngay vào thời kỳ khỏi đầu của cuộc nổi dậy.

Những lời tuyên bố về sự phù hộ của trời không phải là không có người hoài nghi. Như sẽ được nêu rõ dưới đây, những lời tuyên bố đó đã được chứng minh bởi những biểu lộ về sự phù hộ của trời. Một thư giáo sĩ viết vào năm 1776 nêu lên những khó khăn mà nhà Tây Sơn gặp phải khi tìm cách thuyết phục một công chúng còn hoài nghi về tính hợp pháp của Nguyễn Nhạc cùng những lời tuyên bố đang được sự hỗ trợ siêu nhiên: “Người cầm đầu cuộc nổi dậy đã tiến tới và tự xưng vương, nhưng ông ta không có ấn tín lẫn quyền trượng, và chính điều này là bằng chứng cho thấy rằng ông ta đã không được ông trời chọn lựa”*. Nói tóm lại, tuyên bố làm vua là một chuyện, còn chứng minh được rằng mình được trời phong cho một địa vị nào đó là một chuyện hoàn toàn khác, đôi lúc đòi hỏi những dấu hiệu của nghi thức thế tục, như những ấn tín chẳng hạn. Tầm quan trọng của ấn tín sẽ được khảo sát chi tiết dưới đây, cho dù cũng cần nêu ra ở đây rằng Nguyễn Nhạc đã đúc cho riêng ông ta một ấn vàng khi ông xưng hoàng đế năm 1776, có lẽ để đối lại với sự hoài nghi của dân chúng mà thư của các giáo sĩ đã phản ánh.

Các lãnh tụ Tây Sơn luôn nhấn mạnh rằng họ hành động theo ý trời và điều này rất phổ biến vào những năm đầu của cuộc nổi dậy, song về sau, lối nói phô trương này vẫn được tiếp tục, khi phong trào đã chín muồi và lan rộng ra ở Đàng Ngoài. Năm 1778, một du khách Anh là Charles Chapman viết rằng Nguyễn Nhạc đã thông báo cho ông là "lạy Trời đã cung cấp cho ông ta một công cụ để giải thoát (người dân) và đưa ông ta lên ngôi báu”*.

Một tường thuật khác trong lá thư viết năm 1784 của một giáo sĩ Tây Ban Nha là cha Ginestar kể lại việc một tướng Tây Sơn đã nói với ông rằng “trời đã phó thác vương quốc này cho họ”, cái vương quốc được nói đến là vương quốc của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Những bài tường thuật này cho thấy rằng các lãnh tụ Tây Sơn tiếp tục nhấn mạnh điều mà họ gọi là sự phù hộ của trời và họ cảm thấy điều quan trọng là phải kể lại chuyện này với du khách châu Âu. Sự nhấn mạnh đó gợi cho thấy rằng các lãnh tụ cuộc nổi dậy coi hình thức hợp pháp hóa chính trị này là điều cơ bản trong toàn bộ sứ mạng của họ.

Khi quân Tây Sơn tiến vào lãnh thổ họ Trịnh vào mùa hè năm 1786, họ mang theo lời tuyên bố hành động nhân danh ông trời. Khi Nguyễn Huệ yết kiến vua Lê già nua* tại Thăng Long, vị lãnh tụ Tây Sơn đã miêu tả những nỗ lực nhân danh nhà vua bằng cách cầu khẩn sự phù hộ của trời. Huệ tâu “thần đã đến đây, bởi vì đó là thể theo ý trời", và “trời đã mượn bàn tay của hạ thần để tấn công và tiêu diệt họ Trịnh bất kính, để mở rộng uy quyền to lớn của bệ hạ”. Huệ còn tỉ mỉ hơn khi quả quyết “Thần đến đây vào lúc này hoàn toàn dựa trên ý trời, về những tàu thuyền đã đưa quân của hạ thần đến đây, nếu không thể làm cho nước lụt và ngọn gió nồm yếu đi thì làm sao hạ thần đù sức mạnh để hoàn thành công việc này?”. Điều đáng chú ý là vị lãnh tụ Tây Sơn lập luận rằng ông không chỉ đơn thuần là người làm thay ý trời, mà lời tuyên bố của ông còn được minh chứng bởi những biểu hiện về uy lực của trời. Nguyễn Huệ cho rằng do trời không ở bên cạnh ông, các sức mạnh tự nhiên do trời kiểm soát, đã không giúp ông một cách hoàn hảo để ông hoàn thành những việc phải làm*. Rõ ràng là trong việc phục hồi ngai vàng vua Lê, Nguyễn Huệ tuyên bố rằng trời đã chọn nhà Tây Sơn để vãn hồi trật tự, tiêu diệt họ Trịnh áp bức, mà không tự đặt mình như những nhà cai trị tại vương quốc Đàng Ngoài, như họ đã làm ở Đàng Trong,

Tuy nhiên, hai năm sau, tình hình đã đổi khác, Nguyễn Huệ chuẩn bị đẩy mạnh lời tuyên bố về quyền lực chính trị ra phía bắc, cũng lại nhân danh ý trời. Khi lên ngôi báu, ông ban chỉ dụ nêu rõ rằng “nỗi thống khổ của người dân diễn ra khắp nơi chung quanh ta, (việc ta lên ngôi báu) là theo ý trời đã định, không phải như người dân đã truyền tụng. Ta đã dựa theo ý trời và đi theo lòng người”. Lại một lần nữa, vị lãnh tụ Tây Sơn nhấn mạnh ý tưởng là “trời” đã kêu gọi ông chống lại “sự áp bức đối với người dân”. Điều quan trọng hơn là chỉ dụ này chứa đựng một nội dung được người tín cẩn của Nguyễn Huệ là danh sĩ Ngô Thì Nhậm soạn ra một cách thận trọng*. Câu “là theo ý trời đã định, không phải như người dân đã truyền tụng” nhằm hợp lý hóa các hành động của nhà Tây Sơn theo Khổng giáo, phân biệt những gì do các thế lực siêu nhiên khởi phát với những gì chỉ đơn thuần bị kích động do áp lực của người dân. Đối với một nho sĩ, ngoài việc tham gia một phong trào như thế, sẽ thừa nhận nó xuất phát từ ý trời chứ không phải đơn thuần từ khát vọng của con người. Ý trời được sắp đặt bởi một quyền lực thiêng liêng và siêu việt trong khi khát vọng của người dân đối nghịch trực tiếp với mối quan hệ theo Khổng giáo tồn tại giữa người cai trị và người bị trị.

Mặc dù nhà Tây Sơn cố công nuôi dưỡng mối quan hệ tốt đẹp với giới nho sĩ (như đã nêu rõ ở phần diễn đạt cẩn trọng của Ngô Thì Nhậm) và nhấn mạnh rằng hành động của họ nhằm đáp ứng lại ý trời, đôi khi họ lại nêu rõ là sự nổi dậy của họ được thúc đẩy bởi những nỗi thống khổ cụ thể và phù hợp với tiếng gọi của nhân dân. Trong một tuyên cáo gửi dân chúng Đàng Ngoài trong thời gian họ xâm chiếm vùng này, nhà Tây Sơn kết hợp khái niệm về ý trời với nỗi khát khao của người dân và miêu tả hành động của họ như “phù hợp với ý trời và đáp ứng với lòng người”*. Và rồi, khi miêu tả tình cảnh của người dân, cũng bản tuyên cáo trên nói về “những người dân khốn khổ và sống rải rác chờ đợi sự quay về của ngọn cờ chính nghĩa”. Ngoài ra, ngay trong chỉ dụ ban hành năm 1788, khi lên ngôi, hình như tìm cách tin là ý trời đã xui khiến cho phong trào của ông, Nguyễn Huệ viết “Lúc đầu, ta không có ý làm vua. Chỉ vì lòng dân đã chán ngấy cuộc sống hỗn độn mà ta nóng lòng muốn trở thành một vị vua đức hạnh để cứu vãn đời sống và mang thanh bình lại cho muôn dân”. Vì thế, các lãnh tụ Tây Sơn tiếp tục thay đổi những lời tuyên bố về động cơ chính xác dẫn đến hành động của họ, có khi thì tin ở trời, có khi thì nói đến khát vọng của những người dân khốn khổ.

Cho dù động cơ ban đầu của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn là gì đi nữa, các lãnh tụ của phong trào xem trọng vai trò của uy lực của trời. Họ làm thế rõ ràng vì lối nói hoa mỹ và những lời tuyên bố như vậy khá quan trọng trong bối cảnh văn hóa và chính trị Việt Nam và được mọi phía sử dụng trong cuộc tranh giành chính trị vào thời kỳ này. Đến cuối thời kỳ Tây Sơn, khi có một cảm nhận chung là gió đã đổi chiều chống lại chế độ của những người nổi dậy và có lợi cho nhà Nguyễn, một quan sát viên người châu Âu đã ghi rằng “tất cả nông dân và những kẻ chuyên quyền cũng vậy, đều thừa nhận và lớn tiếng tuyên bố rằng chính Trời đã ban cho chúa Nguyễn một chiến thắng nhanh chóng và toàn diện đến như vậy”. Lời tuyên bố này củng cố quan niệm phổ biến về vai trò của ông trời trong việc xác định quyền cai trị vương quốc và đồng thời làm rõ bản chất hay thay đổi của ơn trời và sự bất định về chính trị cố hữu mà nó tạo ra. Lời tuyên bố được trời phù hộ chỉ được tin khi một nhà cai trị hay kẻ nổi dậy có thể trưng ra những dấu hiệu của sự phù hộ đó. Nếu họ không làm được như thế, dòng tình cảm của người dân sẽ quay sang hướng khác. Thật vậy, lời tuyên bố được trời phù hộ phải luôn luôn được củng cố bằng những minh chứng về sự phù hộ đó, nếu không, ý trời sẽ được hiểu một cách rất khác bởi những người nghe khác.

II.3.2. Các lãnh tụ Tây Sơn và thế giới siêu nhiên

Khi các lãnh tụ Tây Sơn thường xuyên nói đến việc trời chuẩn nhận cho những hành động của họ, họ cũng liên kết họ một cách rộng rãi với thế giới siêu nhiên vốn có một ảnh hưởng đáng kể trong óc tưởng tượng của mọi người. Họ làm điều đó theo nhiều cách khác nhau, bao gồm việc sử dụng những lời tiên tri, tín ngưỡng địa phương, và những dấu hiệu khác của ân huệ siêu nhiên. Nguồn gốc chính xác của cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn có thể vẽ ra một phần từ người thầy của ba anh em đã khuyến cáo Nguyễn Nhạc tự xem là có trách nhiệm hoàn thành một lời tiên tri tồn tại lâu đời tại địa phương: "Ở phía tây, có một cuộc nổi dậy vì chính nghĩa, ở phía bắc, một đại công đã hoàn thành”*. Lời tiên tri cũng được Nguyễn Nhạc sử dụng từ đó, nó được ghi lại trong nhiều bài tường thuật, ý nghĩa của nó thúc đẩy phong trào và lôi cuốn người ủng hộ ngay trong những ngày đầu. Lời tiên tri là một yếu tố quan trọng trong thế giới tư tưởng của người bình dân cũng như giới trí thức vào cuối thế kỷ XVIII, và vì thế, anh em nhà Tây Sơn đã tìm cách loan truyền rộng rãi lời tiên tri này cùng sự giải thích của họ về ý nghĩa của nó và sự khẳng định đã thực thi nó.

Ngoài lời tiên tri đó, các lãnh tụ Tây Sơn còn tìm các cách khác để tuyên bố về mối quan hệ trực tiếp của họ với thế giới siêu nhiên. Nhiều truyện dân gian nói về các lãnh tụ cuộc nổi dậy, có những truyện nhấn mạnh đến các yếu tố phi thường xoay quanh anh em Tây Sơn, phần lớn liên quan đến những năm đầu tiên của phong trào. Từ góc độ của người chép sử, những truyện như vậy đáng ngờ, bởi vì phần lớn chúng được truyền khẩu thay vì được viết thành văn bản, khiến cho khó mà tìm ra nguồn gốc của chúng. Một vài truyện được viết sau này và hiện có thể tìm thấy trong các bản thủ bút lưu trữ, song phần lớn chúng không có tên tác giả và không đề ngày tháng, khiến cho chúng cũng đáng ngờ như vậy. Một vài truyện được ghi nhận trong những tài liệu có đề ngày vào thế kỷ XIX, cho thấy rằng chúng được lưu hành vào cuối thế kỷ XVIII. Cho dù nhiều truyện này không dễ dàng chứng minh hay xác định ngày tháng, chúng tạo thành một phần quan trọng trong sự hiểu biết của người dân về thời kỳ Tây Sơn. Hơn nữa, mặc dù các chi tiết có tính hư cấu, những truyện này thường phù hợp với những gì chúng ta biết về nhà Tây Sơn từ những nguồn tư liệu khác, về những truyền thuyết dân gian quanh các lành tụ Tây Sơn.

Trong những văn bản còn tồn tại và các truyện truyền khẩu liên quan đến những biểu hiện siêu nhiên quanh các lãnh tụ Tây Sơn, có nhiều vũ khí siêu phàm do anh em Tây Sơn phát hiện hay do người khác mang đến cho họ. Những thứ này có một lịch sử dài dòng trong hiểu biết của người dân Việt, với truyền thuyết kể về các vũ khí siêu phàm vào đầu thế kỷ II trước Công nguyên. Một truyện kể rằng vào đầu thời kỳ đó có một chiếc nỏ thần được cho là “Ai có thể giữ chiếc nỏ này sẽ cai trị đất nước; ai không giữ được nó sẽ bị diệt vong”. Và như thế, việc mất chiếc nỏ thần đã gây ra sự sụp đổ của vị vua từng sở hữu nó. Nhiều năm sau đó, vào thế kỷ XV, người ta kể rằng vị đại anh hùng trong cuộc kháng chiến chống quân nhà Minh là Lê Lợi đã nhận được thanh gươm thần để sử dụng trong các chiến dịch chống lại lực lượng chiếm đóng Trung Quốc. Khi sứ mạng của ông hoàn tất, chiếc gươm thần được trả về chiếc hồ nơi nó từng xuất hiện*.

Những vũ khí thần bí là vật quan trọng được sử dụng đặc biệt trong lễ nghi tại địa phương nơi nhà Tây Sơn nổi dậy, như Li Tana đã giải thích, các bộ tộc thiểu số ở cao nguyên và đồng bằng sống trong vùng Qui Nhơn có nhiều truyền thuyết liên quan đến gươm báu và uy lực mà chúng dành cho những ai sử dụng chúng. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi nhìn thấy những vũ khí có ma lực, đặc biệt là gươm kiếm, giữ một vai trò nổi bật trong truyền thuyết về nhà Tây Sơn. Một câu chuyện như thế, được miêu tả một cách ẩn dụ về quyền uy thống nhất của nhà Tây Sơn, kể về việc Nguyễn Nhạc tìm được một lưỡi gươm báu ở vùng duyên hải và rồi tìm thấy cán gươm phù hợp với nó trên vùng cao nguyên. Một biến thể khác của câu chuyện trên bao gồm sự mô phỏng theo truyền thuyết về vua Arthur*, kể rằng Nguyễn Nhạc phát hiện lưỡi gươm gắn vào một phiến đá và ông chỉ một mình dùng sức mạnh rút nó ra. Rồi một hôm đi thăm một ngôi làng của người Bahnar trên vùng cao nguyên phía tây Qui Nhơn, người ta mang đến cho ông một con chim khổng lồ, nó há miệng ra cho thấy một cái cán vừa với lưỡi gươm. Khi hai vật thể này được tra vào với nhau, chúng không rời nhau nữa*. Một câu chuyện tương tự kể về việc Nguyễn Nhạc tìm thấy một thanh gươm ở đồng bằng và một ấn vàng trên cao nguyên, điều đó biểu thị cả quyền lực về quân sự và chính trị. Điều này một lần nữa gợi lên ý tưởng về sự liên minh giữa người ở cao nguyên và người ở đồng bằng, được nhà Tây Sơn thể hiện ở một mức độ nào đó vào những năm đầu tiên của họ.

Một câu chuyện trau chuốt hơn liên quan đến Nguyễn Nhạc kể về một việc xảy ra vào những ngày đầu của cuộc nổi dậy, khi vào một đêm nọ, dân làng giật mình nhìn thấy ánh sáng chói lòa phát ra từ khu rừng bên cạnh. Có vẻ như luồng ánh sáng đó không có một nguồn xuất phát rõ ràng. Khi ánh sáng xuất hiện vào đêm thứ hai, dân làng đi điều tra và phát hiện một cây cung khổng lồ cùng với tên. Tiếng đồn về vụ này lan xa, và lần sau đó, khi ánh sáng phát ra vào nửa đêm, nhiều dân làng đi ra để định vị nguồn ánh sáng. Dõi theo luồng ánh sáng xuyên qua rừng, dân làng bắt gặp Nguyễn Nhạc đang mặc áo giáp đứng trước một tảng đá to. Với một giọng nói vang như sấm, ông ta tố cáo sự bạo ngược của phụ chánh nhà Nguyễn là Trương Phúc Loan và quy những khốn khổ của người dân cho viên quan này cùng thuộc hạ của ông ta. Bị khuất phục trước vóc dáng của Nhạc cùng những biểu hiệu quanh ông ta, người dân về theo anh em ông ta lật đổ Loan và làm nhẹ đi sự nghèo khổ của chính họ.

Người em của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Huệ cũng là nhân vật của những truyện kể dân gian kết nối ông với vũ khí thần bí. Một truyện như thế kể về một cặp rắn khổng lồ nằm chắn con đường Nguyễn Huệ dẫn quân đi qua. Quân của ông ta sợ hãi, nhưng vị chỉ huy của họ* xuống ngựa và cầu khấn với cặp rắn thần “Nếu anh em tôi và tôi có thể đảm đương đại sự này, tôi thỉnh cầu Rắn thần rời khỏi đường đi cho lính của tôi đi qua. Còn nếu số mệnh không cho phép thì xin hãy cắn tôi chết nhưng để binh sĩ của tôi sống và trở về với vợ con họ”. Ngay sau đó, cặp rắn tránh đường và hộ tống đoàn quân đi đến nơi. Chúng còn hỗ trợ nhà Tây Sơn nhiều hơn nữa bằng cách dâng cho Nguyễn Huệ một thanh “long đao” với cán làm bằng gỗ mun và lưỡi rất sắc*. Một câu chuyện khác về Nguyễn Huệ miêu tả ông có sức mạnh siêu nhân, có thể nâng và sử dụng một cây giáo bạc đặc biệt mà người thường không thể làm cho nó nhúc nhích nổi. Giống như lưỡi kiếm cắm trong đá mà chỉ một mình Nguyễn Nhạc rút ra nổi, câu chuyện này làm nổi bật một lãnh tụ Tây Sơn như đang sống bên ngoài thế giới bình thường. Điều đặc biệt là những câu chuyện truyền khẩu về vũ khí thần kỳ được củng cố bởi một tác phẩm của triều Nguyễn vào thế kỷ XIX là bộ Đại Nam liệt truyện. Tác phẩm này ghi chép về người anh lớn nhất của nhà Tây Sơn rằng “trên đường xuyên qua vùng núi An Dương, Nhạc tìm thấy một thanh gươm mà ông gọi là gươm thần. Ông ta dùng nó để đánh lừa người dân, và nhiều người tin ông ta”. Điều này được miêu tả trong sử triều đình, cuộc nghiên cứu khởi sự vào nửa đầu thế kỷ XIX cho thấy rằng câu chuyện này xuất hiện vào thời kỳ Tây Sơn. Hơn thế nữa, khi cho quyền lực và uy thế xuất phát từ việc sở hữu một thanh gươm thần, rất có thể các anh em Tây Sơn đã tìm cách loan truyền những câu chuyện như thế trong những năm đầu của phong trào.

Có vẻ như họ không chỉ khuyến khích việc loan truyền những câu chuyện như thế, mà còn tích cực khai thác tín ngưỡng dân gian có tính huyền bí và ma thuật để đẩy mạnh việc thực hiện các mục tiêu của họ. Điều này được miêu tả một cách sinh động trong một truyện về Nguyễn Nhạc có thể tìm thấy trong nhiều nguồn tư liệu viết. Theo những tư liệu này, Nhạc lợi dụng thói mê tín tại địa phương quanh ngọn núi ở gần đó để thuyết phục những người ngấm ngầm ủng hộ ông về mối quan hệ của ông ta với thế giới siêu nhiên. Để làm điều này, ông ta lén mang chiêng trống lên đồi và bí mật sắp xếp làm cho chúng vang lên và kèm theo là những tia sáng lóe lên vào một đêm có lễ hội tại địa phương. Giả vờ kinh ngạc, nhưng cũng do tò mò, ông ta tập hợp một nhóm người địa phương thích mạo hiểm và dẫn đoàn người lên đồi. Trong làn sương mù trên đỉnh đồi, họ bắt gặp một ông lão da nhăn nheo, ông ta gọi tên Nhạc rồi đọc những chữ khắc trên một tấm bảng đồng “Ngọc hoàng thượng đế ban lệnh cho Nguyễn Nhạc làm hoàng đế trong nước”. Sau khi đọc xong, ông lão đưa tấm bảng đồng cho lãnh tụ Tây Sơn và biến mất trong đêm tối*. Trên thực tế, ông lão chính là thầy dạy của Nhạc tên Trương Văn Hiến, theo một vài tài liệu, là người đã tư vấn cho Nhạc sắp xếp trò biểu diễn này để làm nổi bật tính cách thần bí của người lãnh đạo cuộc nổi dậy. Không để ý đến trò lừa gạt công phu do Nhạc sắp xếp, dân làng hăm hở ủng hộ người lãnh tụ được trời phong thánh - như người thay mặt Ngọc hoàng Thượng đế, nhân vật cao tột bậc trong đền thờ các vị thần của người Việt.

Một truyện khác kể lại chi tiết trường hợp của một lãnh tụ Tây Sơn xoay chuyển số mệnh với một nghi thức do Nguyễn Huệ thực hiện gần kinh thành Phú Xuân vào cuối năm 1788. Mục đích của buổi lễ này nhằm xác định sự may rủi trong cuộc hành quân sắp diễn ra để chống lại quân Tàu đã xâm lấn miền Bắc Đại Việt từ đầu năm này. Truyện kể rằng Huệ bước lên bệ thờ và tuyên bố:

“Các tướng sĩ của ta! Ta sắp sửa mang quân ra Bắc hà (phía bắc Đại Việt) để hỏi tội quân xâm lược nhà Thanh, và vãn hồi thanh bình, hạnh phúc cho trăm họ. Nếu trời cho đại quân của chúng ta thắng trận, trời sẽ làm cho cả 200 đồng tiền này nằm ngửa mặt lên. Lưng của những đồng tiền này làm bằng đồng... Giờ thì quân ta tìm xem dấu hiệu thắng hay bại”*.

Nói xong, Huệ và các tướng cầu nguyện trước bệ thờ, sau đó, vị lãnh tụ Tây Sơn tung các đồng tiền lên không. Lúc đó, quân sĩ chạy lên phía trước, nhìn thấy tất cả các đồng tiền đều ngửa lên, và đều tin rằng chiến thắng của họ đã được báo trước. Tài liệu tiếp sau đó viết rằng Huệ đã cho đúc những đồng tiền đặc biệt có 2 mặt sau như nhau dùng để biểu diễn, vì vậy, trong khi nghi thức được vạch ra nhằm thể hiện những quan điểm chung về thực hành tôn giáo thì nó cũng có thể được xem như một cách vận dụng khác của nhà Tây Sơn đối với những biểu hiện của thần thánh.

II.4. NGÔN NGỮ KHỔNG GIÁO TRONG CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN

Trong lúc việc đề cập đến trời và các lực siêu nhiên là những phương tiện hữu ích dùng dẫn chứng cho những gì họ tuyên bố và tuyển mộ người theo họ, các lãnh tụ cuộc nổi dậy cũng sử dụng các lối nói hoa mỹ khác. Điều đặc biệt là cũng giống như lãnh tụ các cuộc nổi dậy của nông dân trước đây, gần như họ rất có ý thức khi nhấn mạnh đến khía cạnh đạo đức trong cuộc chiến đấu của họ bằng ngôn ngữ Khổng giáo riêng biệt. Quyết định sử dụng ngôn ngữ - nếu không cần đến nội dung - của ý thức hệ Khổng giáo tỏ ra quan trọng cả trong việc kết nối các lãnh tụ Tây Sơn với những người ngấm ngầm ủng hộ họ trong hàng ngũ trí thức nhà Nguyễn (tuy nhiên số người này không nhiều) lẫn việc đẩy xa hơn mối quan hệ giữa họ với cộng đồng cư dân rộng lớn hơn vốn đáp ứng lại ngôn ngữ Khổng giáo theo cách riêng của họ.

Alexander Woodside lập luận rằng truyền thống Khổng giáo đã được thiết lập tại vùng nông thôn Đại Việt vào thời điểm này, và viết “ảnh hưởng của truyền thống cổ điển Hoa-Việt đối với người nông dân Việt Nam vào những năm 1700 và 1800 là điều... không cần phải tranh cãi, đặc biệt những phần nói đến sự phế truất một vương quyền xấu xa và thay bằng một vương quyền tốt đẹp”. Mặc dù điều này đúng nhiều hơn ở phần phía bắc lãnh thổ Đại Việt vốn chịu ảnh hưởng lâu dài của ý thức hệ Trung Hoa, một số ngôn từ hoa mỹ của Khổng giáo cũng phát triển trên vương quốc nhà Nguyễn, ngay cả lúc đạo Khổng tiếp tục bị loại khỏi đời sống chính trị. Trong một xã hội mà các nho sĩ duy trì mối quan hệ trực tiếp với giới nông dân, hoặc qua mối quan hệ thân thuộc, hoặc qua việc họ cư trú ở những ngôi làng, nơi họ có thể mở trường học, không có gì đáng ngạc nhiên khi người nông dân thấm nhuần các yếu tố của ý thức hệ Khổng giáo, hoặc ít nhất là về ngôn từ. Chắc chắn rằng bản thân các anh em nhà Tây Sơn cũng được học những điều cơ bản về ý thức hệ này dưới sự dạy dỗ của người thầy nhiều hiểu biết Trương Văn Hiến, vì vậy việc họ viện dẫn tư tưởng Khổng giáo trong suốt cuộc nổi dậy là điều tự nhiên.

I.4.1. Nhà Tây Sơn và chữ “Nghĩa”

Trong ngôn từ Nho giáo thường được các lãnh tụ Tây Sơn viện dẫn, từ “nghĩa” được đặc biệt nhấn mạnh, bắt đầu với việc xác định rằng cuộc nổi dậy của họ là một cuộc nổi dậy vì nghĩa, một cuộc khởi nghĩa*. Việc sử dụng từ ngữ này cần để liên kết cuộc nổi dậy với lối tiên tri thường được nhắc đến về một “cuộc khởi nghĩa”. Sự nhấn mạnh vào từ “nghĩa” liên kết họ với lời tiên tri này, đồng thời nó cũng cho phép các lãnh tụ Tây Sơn sử dụng một kiểu tuyên bố khác về tính chính thống. Điều đặc biệt là sự thất bại của hai họ Trịnh-Nguyễn trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với thần dân của họ đã mở đường cho việc phê phán họ, vào những thời điểm nào đó, phần nào trong bối cảnh đã được triết lý Khổng tử tạo dựng nên. Từ Hán-Việt “chính nghĩa” bao gồm các khái niệm về công lý và hành động đúng đắn thường được liên kết với cung cách hành xử của giới nho sĩ. Nó xuất phát từ đặc tính của Khổng giáo thường nhấn mạnh vào những giáo điều căn bản trong cách hành xử của mỗi người, đáng lưu ý nhất là hiếu, nghĩa, đức và nhân.

Thật vậy, tại nhiều nơi ở Đông và Đông Nam Á, mối quan hệ giữa người nông dân với những người đứng trên họ về kinh tế và chính trị, dù là địa chủ hay quan chức triều đình, là mối quan hệ ít nhất cũng dựa phần nào vào những căn nguyên mà ngôn từ của Khổng giáo gọi là “chính nghĩa” và “công lý”. Có thể đọc thấy khái niệm này trong tác phẩm của James Scott nhan đề The Moral Economy of the Peasant (1976) (Nền kinh tế đạo đức của người nông dân)*. Dù Scott đề cập chủ yếu đến mối quan hệ giữa nông dân và địa chủ, nhưng rõ ràng nhà nước cũng là đối tượng của khái niệm kinh tế đạo đức. Vì thế, sự thất hại của nhà nước trong việc thực hiện những tiêu chuẩn mà người dân mong muốn đã dẫn đến sự chỉ trích và những phản kháng nhân danh chính nghĩa. Cuối cùng, khi các phong trào của người dân giương cao ngọn cờ chính nghĩa, điều đó không chỉ đơn thuần chứng tỏ tính đúng đắn hay công bằng trong mục tiêu của phong trào mà còn nhằm chỉ trích triều đình, hoặc ít nhất là đại diện của triều đình tại địa phương, đã thất bại trong việc thực hiện những nghĩa vụ cơ bản đối với người dân.

Nhiều cuộc nổi dậy của người dân trong lịch sử Việt Nam, trong đó đáng chú ý nhất là cuộc nổi dậy của Lê Lợi vào thế kỷ XV, dẫn đến ý tưởng về một cuộc khởi nghĩa nhằm vãn hồi trật tự và các mối quan hệ tốt đẹp. Vào thời kỳ ngay trước khi nhà Tây Sơn nổi dậy, hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Mật đã nổi dậy chống chúa Trịnh Giang vào năm 1738, ban bố một hiệu triệu bằng chữ nôm nhắc lại cuộc khởi nghĩa anh dũng của Lê Lợi chống lại quân Minh, gọi là Lam Sơn khởi nghĩa. Làm như thế, Lê Duy Mật không chỉ tìm cách kết nối hoạt động của riêng ông ta với hoạt động của bậc tiền bối lẫy lừng, mà còn xác định rằng cả hai cùng chia sẻ một lời cam kết vì “chính nghĩa”*. Đề cập đến một truyền thống như thế, không có gì ngạc nhiên khi những cách nói của Khổng giáo như “chính nghĩa” được người nông dân Việt Nam thấm nhuần, đặc biệt những ai quan tâm đến việc nêu lên những sai lầm về mặt nhận thức trong cách cư xử chính đáng của các người cầm quyền.

Thật vậy, điều này có thể thấy được khi sự biểu lộ thiện ý của người nông dân đi đôi với tư tưởng chính thống ở một chừng mực khiến họ tin vào quan niệm về một “trật tự chính đáng”.

Trong một số trường hợp, khác biệt với sự giải thích của phần lớn nho sĩ, việc đề cập đến người nông dân trong ý niệm này phản ánh điều mà Alexander Woodside gọi là “một loại tính thích nghi có thể gây tranh cãi” về phía người nông dân khi hưởng ứng học thuyết Khổng tử. Trong lúc các nho sĩ nhận thấy một lãnh tụ (hay chế độ) cá biệt thiếu tính chính nghĩa, họ không nhất thiết phải (nếu chẳng bao giờ) khẳng định rằng người nông dân cần được phép phục hồi tính chính nghĩa đó. Như Ralph Smith đã nhận định:

“Có thể giải thích triết lý Khổng giáo trong tinh thần phản kháng, vì nếu như đời sống cá nhân của vị hoàng đế hay quần thần của ông ta thiếu đạo đức hay thiếu ngay thật, thì chắc chắn rằng họ không xứng đáng nắm quyền cai trị. Nhưng trên thực tế, Khổng giáo không nhất thiết có tính bảo thủ. Sự thật là một nhà cai trị có thể đánh mất ‘Mệnh Trời', nhưng nếu ông ta bị phế truất, thì đó là một định mệnh khách quan hơn là vấn đề chọn lựa của con người”.

Hơn thế nữa, ngay cả những nho sĩ như Ngô Thì Nhậm, người đôi lúc coi hành động của trời bị chi phối bối những biến động thế tục, đã viết rằng “Thịnh suy, dài ngắn vận mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được". Nói cách khác, con người không thể trực tiếp làm thay đổi ý trời, cho dù nỗi khốn khổ của họ có thể làm xoay chuyển định mệnh một cách gián tiếp.

Đối với một người nổi dậy tìm cách phế truất một vua chúa, cần nhấn mạnh rằng thắng lợi của ông ta là những chỉ dấu cho thấy cả về sự thay đổi số mệnh lẫn tính chính nghĩa trong hành động của ông ta. Để đảm bảo rằng mọi người đều hiểu được tính chính nghĩa trong sứ mạng của họ, các lãnh tụ Tây Sơn thường xuyên sử dụng từ này để mô tả về phong trào của họ và về những người tham gia vào đó. Vì thế, chẳng hạn như quân đội Tây Sơn gồm không chỉ đơn thuần là lính, mà là nghĩa quân, được chỉ huy bởi các nghĩa sĩ. Những người ủng hộ phong trào cũng được gọi là ông nghĩa. Như nhà sử học Việt Nam Nguyễn Lương Bích đã viết: “Tất cả các tướng Tây Sơn và đa số quần chúng lúc đó gọi những người tham gia phong trào là nghĩa sĩ và không bao giờ quên chữ nghĩa khi đề cập đến những người này”.

Trong lúc được dùng phần lớn để miêu tả những người chiến đấu phía Tây Sơn, từ nghĩa cũng được sử dụng để gán cho những yếu tố khác liên quan đến cuộc nổi dậy. Chẳng hạn như nó được dùng gọi tên hai đạo quân người Hoa chiến đấu cùng với nhà Tây Sơn trong những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy là quân Hòa Nghĩa và Trung Nghĩa*. Từ nghĩa cũng được dùng ở những trường hợp trừu tượng hơn trong những bản tuyên bố công khai, miêu tả quân đội Tây Sơn đi dưới “ngọn cờ chính nghĩa” trong các cuộc hành quân chống lại kẻ thù. Một số trường hợp đặc biệt tìm thấy trong lời kêu gọi dân Nghệ An vào năm 1786 của Nguyễn Hữu Chỉnh trong thời gian quân Tây Sơn chiếm lấy Đàng Ngoài, và trong lời hiệu triệu do Phan Huy ích soạn năm 1800 nhân danh vua Tây Sơn Cảnh Thịnh cũng tìm cách đẩy mạnh sự ủng hộ mục tiêu của nhà Tây Sơn. Cuối cùng, khi Nguyễn Huệ tiến đến việc thiết lập một kinh đô ở vùng Nghệ An sau năm 1789, ông đã đặt lại tên vùng này là Nghĩa An, rõ ràng là có ý kết nối lãnh thổ này với căn nguyên của cuộc nổi dậy là khởi nghĩa, khi một lần nữa, ông tìm cách nhấn mạnh đến tính hợp pháp của việc nắm lấy quyền hành.*

Việc nhà Tây Sơn sử dụng từ “nghĩa” rõ ràng là có tính đến việc tham gia vào một cuộc tranh luận có tính hùng biện đang diễn ra, vì những đối thủ của họ cũng sử dụng từ này để minh chứng cho hành động của chính họ, thách thức đội quân nổi dậy và các lãnh tụ của họ. Hoàng Lê nhất thống chí, một tác phẩm biên niên cận đại viết về các biến động ở Đàng Ngoài, cũng thường xuyên miêu tả những người ủng hộ vua Lê ở phía bắc vào cuối thập niên 1780 là “nghĩa quân” và đề cập đến việc vua Lê tuyển mộ “nghĩa sĩ”. Lời hịch do nho sĩ trung quân Lê Huy Dao soạn để tập hợp những người ủng hộ cho mục tiêu phục hồi nhà Lê vào những thập niên 1780 và 1790 cũng thường nhắc đến từ “nghĩa” để miêu tả những người tham gia chiến đấu chống lại nhà Tây Sơn. Tác phẩm Lê quý dật sử của Bùi Dương Lịch vào đầu thế kỷ XIX cũng viết tương tự về các phong trào chống Tây Sơn vào năm 1786 là “các cuộc khởi nghĩa” nhằm bảo vệ vì vua đang tại vị.

II.4.2. Nhà Tây Sơn và chữ “Đức”

Nhà Tây Sơn cũng nhấn mạnh đến việc họ có đức, một tính cách cốt yếu khác của Khổng giáo. Trong lúc chữ nghĩa miêu tả phong trào và các mục tiêu của nó theo nghĩa rộng, ý niệm về chữ đức đòi hỏi một cách đặc biệt hơn ở cá nhân người lãnh đạo. Việc nhấn mạnh vào đức có liên quan đến lời tuyên bố của nhà Tây Sơn rằng họ nhận được mệnh trời, vì có một mối liên hệ rõ rệt giữa cái đức của cá nhân với sự thừa nhận của trời. Như Lê Lợi đã nhận định ngắn gọn vào thế kỷ XV; “Trời phù hộ người có đức”. Hoặc giả, trong sự phân bố ý niệm của O.W. Wolters, “[Đức], theo nghĩa của người Tàu, là người có đức có thể tác động lên người khác và lực hút như nam châm của nó được minh họa trong tiểu sử của những vị thần nổi tiếng của địa phương. Như đã miêu tả, đức vận hành như một hình thức lôi cuốn quần chúng. Nó cho phép một cá nhân lôi cuốn người ủng hộ và hướng họ đi theo ý chí của ông ta.

Đối với nhà Tây Sơn, được thừa nhận là có đức cũng gần quan trọng như những việc làm cụ thể mà họ đã thể hiện. Xác định một người tự nhận là có đức có thể giúp đưa ra những tuyên ngôn chính trị, trong khi đồng thời tự liên kết mình với thế giới siêu nhiên, các lãnh tụ Tây Sơn tìm cách nhấn mạnh nhiều lần về lời tuyên bố họ có đức. Thư của một giáo sĩ Tây Ban Nha viết vào những ngày đầu tiên của phong trào cho rằng những người nổi dậy được người dân miêu tả như những kẻ cướp “nhân đức”. Khi dịch bức thư, ông giáo sĩ gần như viết bằng tiếng Việt, thứ ngôn ngữ mà tài liệu của các giáo sĩ Pháp về sau sử dụng khi nói về các lãnh tụ Tây Sơn. Một thời gian ngắn sau, chắc chắn không phải do tình cờ mà Nguyễn Nhạc tự khoác cho mình danh hiệu chính trị đầu tiên vào năm 1775, đó là hiệu Minh Đức Chúa Công. Để rồi vào năm 1778, ông ta tiến thêm bước nữa, tự xưng hoàng đế và chọn niên hiệu Thái Đức. Việc sử dụng từ đức như một phần niên hiệu không phải Nhạc là người duy nhất làm thế; từ này đã 6 lần được các vua Lê sử dụng (cho dù trước thời Lê không thấy sử dụng bao giờ). Tuy nhiên, việc Nguyễn Nhạc chọn chữ đức như một phần niên hiệu của ông ta gợi ra một đức tính đặc biệt mà ông ta muốn nhấn mạnh.

Ngoài việc Nguyễn Nhạc sử dụng niên hiệu như thế, các anh em Tây Sơn còn tìm những cách khác để nhấn mạnh đến tuyên ngôn của họ về chữ đức. Họ thường xuyên cố gắng truyền bá các tên gọi của họ có liên quan đến chữ đức. Vì thế, có nhiều chứng nhân người châu Âu thường dùng các từ sau khi viết về các anh em Tây Sơn, như “đức anh” với Nguyễn Nhạc, “đức em” với Nguyễn Huệ, và “đức ông” khi nói đến một trong hai người*. Việc thường xuyên sử dụng những từ này của các giáo sĩ chắc chắn phản ánh một lối nói thông thường, cho thấy rằng các lãnh đạo Tây Sơn rất thành công trong việc gieo chữ đức trong trí tưởng tượng của người dân. Khi cả hai lãnh tụ Tây Sơn đến Thăng Long năm 1786, các giáo sĩ ở Đàng Ngoài đã gọi chung họ là “hai đức ông” và riêng Nguyễn Huệ là “đức ông thứ nhất”. Thậm chí những từ này còn tìm thấy trong tài liệu lịch sử của người Campuchia vào thập niên 1930, ở đó, các cụm từ đức ông anh và đức ông em được dùng để nói đến anh em Tây Sơn. Một thời gian sau khi cuộc nổi dậy bắt đầu, cách nói đó cho thấy việc sử dụng các danh hiệu này của họ được phổ biến rộng rãi như thế nào.

II.5. VỐN XÃ HỘI VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TÚY CỦA NHÀ TÂY SƠN

Trong lúc những cách gọi hoa mỹ kết hợp với các tuyên bố về sự chuẩn nhận của trời và thế lực siêu nhiên là một hình thức hợp pháp hóa cần ích, các lãnh tụ Tây Sơn cũng theo đuổi những cách thức tập hợp người ủng hộ cụ thể hơn. Vốn xuất thân từ một nông thôn ở sát cạnh vùng cao nguyên, chắc chắn rằng các anh em Tây Sơn lưu ý đến sự bất bình của cả giới nông dân ở đồng bằng lẫn các bộ tộc ở vùng cao và cách mà họ có thể giải quyết những điều này (ít nhất trong một giới hạn nào đó). Như chúng ta đã thấy, đáng kể nhất trong những mối bất bình này là thuế má cao, các vấn đề tiền tệ, và tác động ngấm ngầm của sự suy yếu về ngoại thương. Mặc dù trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy, nhà Tây Sơn không đặt mình vào tư thế thực hiện những cải cách quan trọng ở bất cứ lãnh vực nào, song họ vẫn thường xuyên giải quyết những bất công kinh tế.

Một trong những sáng kiến đầu tiên và quan trọng nhất của họ về phương diện này là tái phân phối tài sản khi họ đi về nông thôn, mang theo khẩu hiệu: “Lấy của người giàu cho lại người nghèo”. Theo tài liệu của người châu Âu thời kỳ này, có vẻ như quân Tây Sơn nhằm đạt được sự ủng hộ của người dân nông thôn thông qua việc tái phân phối tài sản như thế. Tuy sử dụng ngôn ngữ không được nhẹ nhàng hơn, các nguồn tư liệu của người Việt vào thế kỷ XIX cũng miêu tả hành động của họ với những từ tương tự: “Vào thời điểm đó, những kẻ nổi dậy đứng lên, cướp của người giàu chia cho người nghèo, lừa bịp họ bằng những ân sủng nhỏ nhặt để mua lòng mọi người”. Trong lúc các sáng kiến đó được xem như những phương tiện (nhằm đạt được sự ủng hộ của người dân như sử nhà Nguyễn đã ghi) hơn là cứu cánh, ý tưởng cổ xúy cho công bằng về kinh tế trở thành trung tâm điểm của phong trào lúc ban đầu. Trong bất cứ trường hợp nào, những hành động như thế mang lại cho anh em Tây Sơn danh nghĩa "kẻ cướp nhân từ” cũng như sự ủng hộ rộng rãi của người dân.

Sự tái phân tài sản không tạo ra một chuyển biến quan trọng trong mối quan hệ kinh tế ở nông thôn, song những hành động như thế đã cho thấy những người nổi dậy là những kẻ bị thiệt hại về kinh tế nhiều nhất. Hơn nữa, ý tưởng tái phân tài sản, đặc biệt là thực phẩm, không chỉ đơn thuần có tính đại chúng, mà còn được chính thức công nhận và trở thành tiền lệ trong lịch sử, ít nhất ở Đàng Ngoài. Vào những lúc khủng hoảng, tại các vùng bị hạn hán hay lụt lội, triều đình cử quan lại đi trưng thu lương thực của người giàu. Trong lúc hiệu quả của việc trung thu còn hạn chế, do người giàu thường tự thu mình trong chỗ kín cổng cao tường hoặc hối lộ quan trên, thì nguyên tắc đạo đức vẫn còn tồn tại và được mọi người biết đến*. Tác giả Trương Bửu Lâm đã lập luận rằng trong nhiều trường hợp, triều đình có thể làm giảm sự căng thẳng và chống đối ở địa phương bằng cách nhượng bộ hay cứu tế dưới một hình thức nào đó. Chỉ khi nào “triều đình không cứu tế, hoặc đồ trợ cấp đến quá trễ hay ít quá, sự chống đối mới kéo dài và phát triển thành một lực lượng cần được vô hiệu hóa trên tầm mức quốc gia. Từ viễn cảnh này, các nỗ lực của nhà Tây Sơn nhằm tái phân tài sản có thể được hiểu như là một mưu tính chính đáng nhằm thực hiện những hoạt động mà chính quyền nhà Nguyễn đã không làm vì một lý do nào đó. Thật vậy, sự kiên gan và thắng lợi của cuộc nổi dậy là một cáo buộc đối với triều đình vì đã không xoa dịu được sự bất mãn của người dân, và cũng là sự chỉ báo về những hành động của chính anh em Tây Sơn.

Mặc dù có vẻ như hầu hết hành động tái phân tài sản của Tây Sơn diễn ra vào đầu phong trào, nhiều sự kiện về sau cũng nói lên bản chất những toan tính của họ nhằm sử dụng các biện pháp kinh tế để khuyến khích sự ủng hộ của người dân. Trong các chiến dịch diễn ra ở Đàng Ngoài năm 1786, nhà Tây Sơn từng đi vào một vùng đã bị nạn đói tàn phá nhiều năm qua. Vì vậy, khi đội quân của họ chiếm được tiền đồn ven biển của quân Trịnh ở Vị Hoàng, phía nam kinh thành Thăng Long, nơi có nhiều kho thóc quan trọng của triều đình, họ nhanh chóng cho mở kho, phân phát thực phẩm cho người dân trong vùng, về sau, khi quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, họ cũng mở một nhà kho của triều đình tại đây, phân phát một số vật liệu tìm được cho dân địa phương. Những hành động như thế vừa nhằm để chứng tỏ thiện chí, vừa để xoa dịu những lo lắng của dân chúng liên quan đến mục đích của họ trong thời gian họ lưu lại miền Bắc.

Ngoài việc tịch thu và phân phát lại tài sản và thực phẩm, có lần anh em Tây Sơn chiếm được Qui Nhơn vào mùa thu năm 1773 và kiểm soát có hiệu quả nhiều lãnh thổ thuộc vùng duyên hải, họ bắt đầu áp dụng những biện pháp kinh tế khác, vừa có tính tượng trưng, vừa trọng yếu. Những biện pháp đầu tiên tập trung vào vấn đề thuế má, các lãnh tụ Tây Sơn thu hút được nhiệt tình của người dân trong việc lập sổ bộ thuế. Như một nhân chứng người Tây Ban Nha đã viết:

"Trong những thôn ấp nhỏ nhất, họ lấy các giấy tờ chính thức và đốt cháy nơi công cộng, đặc biệt là bản chép cũ qui định đồ cống nạp và thuế má do nhà vua và các quan lại đặt ra. Họ ban bố lệnh bãi bỏ việc cống nạp, ngoại trừ những phong tục xưa ở miền Bắc buộc mỗi gia đình có lương thực trong nhà phải nộp một quan tiền rưỡi mỗi năm. Người dân hoan hỉ với biện pháp này, thể nghe theo và cung hiến cho những người giải phóng họ nhiều quà cáp. Họ đóng gông binh lính và quan lại mà họ bắt được, trả thù tầng lớp xã hội này”.

Chắc chắn đó là những hành động có tính toán để có một kết quả ấn tượng và công khai hủy hoại biểu tượng của một chính quyền bị căm ghét, song chúng cũng được xem như là những chỉ dấu của một nền kinh tế sắp được cải tiến. Trong một hành động mang nhiều tính tượng trưng khác, Nguyễn Nhạc ráo riết truy đuổi và cuối cùng sát hại hai quan lại hành thu thuế của triều đình đã trốn khỏi Qui Nhơn sau khi quân Tây Sơn tấn công vào phủ lỵ này. Nói rõ hơn, thuế má là vấn đề hay thay đổi trong cư dân Quảng Nam và nó đã được các lãnh tụ Tây Sơn khai thác một cách tỉ mi trong những chiến dịch ban đầu của họ.

Mối quan tâm về kinh tế khác mà anh em Tây Sơn đã giải quyết từng bước là chuyện đúc tiền. Như đã đề cập trong chương trước, vào giữa thế kỷ XVIII, nhà Nguyễn đã bắt đầu cho đúc những đồng tiền pha kẽm để thay thế tiền đồng cũ. Dân chúng lơ là với tiền kẽm, và hình như điều này góp phần vào sự bất ổn kinh tế lan rộng vào cuối thập niên 1760, đầu thập niên 1770. Các thương nhân tích trữ lương thực và từ chối bán chúng lấy tiền mới, trong lúc những người có tiền đồng cũ ngần ngại, không muốn tham gia vào việc mua bán này. Để đáp ứng lại tình thế này, nhà Tây Sơn bắt đầu cho đúc những tiền đồng mới, có lẽ vào đầu năm 1775, nhưng chắc chắn là năm 1778, khi Nguyễn Nhạc xưng hoàng đế và lấy niên hiệu Thái Đức. Việc đúc tiền mới có một tác dụng tích cực và cụ thể trong cái nhìn của người dân về nhà Tây Sơn, vì những đồng tiền bền chắc của họ đã thay thế những đồng tiền kẽm rất không được người dân ưa chuộng. Do quyết định ban đầu về việc thay đổi đồng tiền kẽm gặp phải tình trạng thiếu đồng, cách duy nhất mà anh em Tây Sơn có thể giải quyết là nấu chảy những sản phẩm vãn hóa do con người làm ra (đồ tạo tác văn hóa) - bao gồm vạc đồng dùng trong nghi lễ, trống, chiêng, và chuông - thu giữ chẳng những từ các đền đài của nhà Nguyễn, mà còn từ các đền chùa Phật giáo. Cho dù các vật liệu này xuất phát từ đâu, tiền Tây Sơn phổ biến đến nỗi chúng tiếp tục được lưu hành rộng rãi vào thế kỷ XIX, mặc cho nhà Nguyễn nhiều lần tính đến việc bãi bỏ và thay thế chúng.

Trong một nỗ lực khác nhằm đánh bóng hình ảnh mình và củng cố tính đại chúng, anh em Tây Sơn đã tự nhận có quan hệ chặt chẽ với những người dân mà họ lãnh đạo. Điều đặc biệt là cả Huệ và Nhạc đều tự cho mình là những người bình dân, có ít của cải và không sở hữu miếng đất nào. Họ coi mình như những người áo vải - nói cách khác là họ không ăn mặc quần áo sang trọng như các quan chức. Lúc đầu, Nguyễn Nhạc dùng từ này để tự nói về mình trong một thư gửi cho các tướng của họ Trịnh vào xâm chiếm Đàng Trong năm 1776, mở đầu bằng câu: “Tôi xuất thân là người áo vải đến từ vùng Tây Sơn”. Nguyễn Huệ bắt đầu sử dụng từ này vào năm 1786, khi ông bệ kiến vua Lê lần đầu, lúc ấy, ông sử dụng trở lại câu mà Nhạc đã dùng trước đó, về sau, Huệ sử dụng lại câu này với tư cách hoàng đế Quang Trung gửi thư cho triều đình nhà Thanh vào giữa những năm 1789 và 1791. Cố nhiên, việc anh em Tây Sơn sử dụng từ này trong quan hệ với các nhà lãnh đạo chính trị cho thấy là họ không chỉ đơn thuần nhắm đến những người nông dân có thể theo họ. Trái lại, hình như nó được dùng như một hình thức tôn kính, gọi lên sự khiêm tốn và không tiềm ẩn một sự đe dọa nào, song có lẽ cũng là một biểu thị của sự trong sáng, như là họ đang tìm cách nhấn mạnh đến tính chính đáng trong hành động của họ.

Mặc dù cách nói đó được tìm thấy chủ yếu trong mối liên lạc giữa anh em Tây Sơn với các quan chức chính trị cao cấp, có vẻ như nỗ lực nhằm quảng bá hình ảnh của họ một cách rộng rãi hơn đã đạt được thành công, và câu “áo vải” đã bén rễ trong trí tưởng tượng của người dân. Nổi tiếng nhất có lẽ là công chúa Ngọc Hân, người vợ góa trẻ tuổi của hoàng đế Quang Trung, người đã sáng tác một bài thơ khóc chồng khi nhà vua thăng hà vào năm 1792, trong đó, bà đã dùng từ “áo vải” khi kể về ông. Nhưng đanh thép hơn, hai anh em Tây Sơn được một quan lại nhà Nguyễn nhắc đến theo cách này vào năm 1799, khi ông ta nhận định về những lý do dẫn đến thành công bước đầu của họ và sự lớn mạnh nhanh chóng của họ:

“Anh em Nhạc Huệ là dân áo vải, không có miếng đất cắm dùi, thế mà giơ cao tay hô một tiếng, người đi theo hàng vạn, không đầy năm sáu năm trời mà chiếm cả giang sơn”.

Một quan lại nhà Nguyễn đã ghi lại gần như nguyên văn lối nói mà anh em Tây Sơn đã sử dụng, gọi lên mức độ thành công của họ trong việc gieo rắc ý niệm đó trong trí tưởng của người dân. Thật vậy, ý niệm đó tiếp tục gây ra tiếng vang trong thời hiện đại, khi anh em nhà Tây Sơn vẫn còn được nhiều người biết đến là những anh hùng áo vải. Trong lúc một mặt, sự liên kết với người dân bình thường có vẻ như mâu thuẫn với điều họ cho là ý trời, thì rõ ràng là họ tìm thấy một động lực khiến họ phải khắc phục sự phân cách không thể không vượt qua này.

II.6. THIẾT LẬP CÁC MỐI QUAN HỆ CHÍNH TRỊ

Tính hiệu quả, các biểu hiện siêu nhiên, việc chứng tỏ sự hào hiệp về kinh tế, và lòng quả cảm cá nhân không đủ để hình thành một địa vị chính trị của những người mới phất lên như anh em nhà Tây Sơn. Họ còn cần phải phát triển những mối quan hệ trực tiếp hơn với những cơ chế chính trị đang tồn tại, và nhất là với những cá nhân và dòng họ đang chính thức nắm quyền hành. Vì vậy, khi mà các lãnh tụ Tây Sơn sử dụng loại kỹ thuật hợp pháp hóa đã được miêu tả ở trên, họ cũng tìm cách kết nối với những thế lực cầm quyền đương thời. Họ làm điều đó vừa thông qua việc thiết lập các mối quan hệ chính thức về chính trị và quân sự, vừa thông qua những toan tính hôn nhân với dòng họ những người cầm quyền. Trên cả hai phương diện, nhà Tây Sơn áp dụng chiến lược duy trì hình thức tiến thân về mặt chính trị vẫn tồn tại lâu dài ở Việt Nam. Phát triển mối quan hệ với những định chế đang tồn tại, với những nhân vật chính trị nổi bật, cùng những di sản lịch sử, là điều rất cần để củng cố một yêu cầu về quyền lực. Những quan hệ chính thức trong việc thiết lập quyền lực chính trị bao gồm một hình thức chính thống hóa quan trọng, cùng lúc với sự hình thành những mối quan hệ cá nhân và không chính thức với nhiều dòng dõi đang nắm quyền cũng là điều cốt yếu dẫn đến sự thành công của nhà Tây Sơn.

II.6.1. Tây Sơn và nhà Nguyễn (1773-1775)

Vào những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, các lãnh tụ Tây Sơn tìm cách tô vẽ hình ảnh của họ không phải như những kẻ thay thế dòng họ Nguyễn, mà là những người bảo vệ một trật tự đang tồn tại nhưng đã suy tàn. Khi đã chiếm được phủ lỵ Qui Nhơn, họ tuyên bố ủng hộ “người cai trị hợp pháp” của vương quốc - người con trai còn trẻ của vị chúa đã qua đời - người đã bị Trương Phúc Loan âm mưu truất quyền kế nghiệp*. Loan báo ý định lật đổ cả vị chúa đang nắm quyền lẫn viên quốc phó tham nhũng Trương Phúc Loan, Nguyễn Nhạc công khai tuyên bố:

“Nay viên quan Trương Phúc Loan xấu xa và tham lam đã công khai nhận hối lộ và gây ra sự rối loạn trong triều... Thế tử Dương*, con của Thái Bảo (con trai vị chúa đã cai trị lâu dài) người rất thông minh, và ta đã lập ngài lên ngôi vương để giữ yên ngôi chúa Nguyễn”.

Nói cách khác, viên quốc phó “xấu xa”, người chịu trách nhiệm về những rối loạn gây nguy hiểm cho dòng họ Nguyễn đang cầm quyền, cần phải bị thay thế bởi người kế vị hợp pháp là vị thế tử “rất thông minh” và quân đội Tây Sơn sẽ là lực lượng đứng ra thực hiện sự thay đổi này.

Các nhà lãnh đạo Tây Sơn biết rất rõ rằng chiêu bài về một người kế vị hợp pháp sẽ có tiếng vang mạnh mẽ đối với những người am hiểu chính trị còn ngờ vực hơn là mở cuộc thách thức triều đình nhà Nguyễn. Bằng cách ủng hộ vị hoàng tôn, các nhà lãnh đạo Tây Sơn cũng hi vọng sẽ thủ lợi từ sự phân hóa trong nội bộ cung đình đã nổi lên để phản ứng lại những hành động của viên quốc phó. Như tác giả Trương Bửu Lâm đã viết:

“Loan, khi làm quốc phó... đã theo đuổi việc xóa bỏ một số định chế và khối quyền lực mà nhà Nguyễn đã xây dựng trong gần 200 năm ở phương Nam. Hành động của ông ta có nghĩa là nhiều nhân sĩ bỗng nhiên cảm thấy họ bị loại ra khỏi quyền lực chính trị. Hậu quả là người dân phía nam chịu ảnh hưởng của những nhân sĩ bất mãn này đã xem Loan như một kẻ xấu xa về trật tự vật chất, xã hội và đạo đức.”.

Trong số những nhân sĩ bất mãn này có người thầy học của anh em Tây Sơn tên Trương Văn Hiến. Người anh cả của Hiến trung thành với vị chúa cuối cùng và đã bị Trương Phúc Loan sát hại khi chống lại các nỗ lực của Loan nhằm thao túng việc kế vị. Hiến cư ngụ ở Qui Nhơn, mở trường dạy học, nơi các anh em Tây Sơn theo học. Có thể rằng với tư cách người cố vấn không chính thức cho anh em Tây Sơn trong những năm đầu, Hiến đã đề xuất chiến lược ủng hộ một người kế vị hợp pháp lên ngôi, vừa có lợi về mặt chính trị, vừa là phương tiện để áp dụng biện pháp trả thù cá nhân đối với Loan*.

Khi lời tuyên bố “cứu giá” chúa Nguyễn của nhà Tây Sơn trở nên quan trọng đối với các nho sĩ bị buộc phải chọn lựa giữa những người nông dân nổi dậy “có đức” với những ông vua thối nát nhưng “hợp pháp” hoặc các chúa phục vụ họ, những lời tuyên bố như vậy cũng quan trọng đối với người nông dân ủng hộ họ. Thật vậy, không cần thiết phải nỗ lực kêu gọi cứu giúp một ông vua ở những người nông dân mà phần đông đã sung vào quân đội. Miêu tả phong trào của họ theo cách này, nhà Tây Sơn tự liên kết với truyền thống lâu đời của những người dân ủng hộ các nhà cai trị hợp pháp chống lại những người chống đối khác. Hai họ Trịnh - Nguyễn bảo vệ nhà Lê chống lại họ Mạc là ở vào truyền thống này, như các thành viên trong hoàng tộc nhà Lê vừa mới tìm cách giải thoát nhà vua khỏi sự chế ngự của họ Trịnh. Ở bất cứ trường hợp nào, bằng cách lưu ý rằng họ là những kẻ trung quân, không phải là bọn phản loạn, anh em Tây Sơn hi vọng được người dân ủng hộ mà không gặp sự khó xử về đạo đức với những ai dính líu với dòng chúa Nguyễn.

Nhà Tây Sơn đã thành công trong nỗ lực liên kết với vị đông cung thế tử và tuyên bố họ là người đấu tranh, bảo vệ ông. Một khẩu hiệu phổ biêh được tung ra vào thời điểm này vẽ lên sự khác biệt giữa hai thế lực chống chọi nhau: “Quân triều đình là quân của quốc phó- Lính huýt gió là lính của đông cung”. Quốc phó là Trương Phúc Loan, và câu “lính huýt gió” nhằm ám chỉ những tiếng huýt gió to mà quân Tây Sơn tạo ra khi di chuyển ở nông thôn. Một khẩu hiệu tương tự cũng xuất hiện cùng thời điểm trên, nêu rõ tên những nhân vật chính trị có vấn đề: “Tấn công và lật đổ Trương Phúc Loan, giúp và ủng hộ đông cung Nguyễn Phúc Dương”. Sự xuất hiện của những khẩu hiệu như thế cho thấy rằng lời kêu gọi phục hưng của anh em Tây Sơn đã âm vang trong cư dân Đàng Trong.

Để đẩy xa hơn tính chính thống của họ như những chiến sĩ bảo vệ người thừa kế hợp pháp của nhà Nguyễn, anh em Tây Sơn lấy họ mẹ là họ Nguyễn. Họ của người cha là họ Hồ, khi kết nối với dòng họ Hồ Quý Ly, nhà lãnh đạo đầy quyền lực tại miền Bắc vào cuối thế kỷ XIV, đã không tạo ra một âm hưởng nào đặc biệt trên lãnh thổ phía nam. Họ Nguyễn sẽ có nhiều thuận lợi cho họ hơn trong tiến trình thực hiện chiến dịch. Chẳng những họ này liên kết họ trong ý thức của người dân về dòng họ đang nắm quyền, tạo ra một cái vỏ bọc về tính chính thống, mà còn có thể coi như một điềm lành. Những người trung thành với chúa Nguyễn thường được phép đổi ra họ Nguyễn như một ân sủng được chúa ban cho. Điều đó có nghĩa rằng khi mang dòng họ Nguyễn hoặc là họ có liên quan đến dòng hoàng tộc, hoặc là họ được công nhận có công phục vụ xứ sở. Cuối cùng, quyết định chọn họ Nguyễn có thể là dụng ý của anh em Tây Sơn nhằm liên kết họ với một lời tiên tri khác: Phù Nguyễn trì thống (dòng họ Nguyễn sẽ bảo vệ và cai trị). Việc chọn lấy họ Nguyễn không đơn thuần là sự kết nối anh em Tây Sơn với nhà Nguyễn đương quyền, mà quan trọng không kém là sự liên kết họ với lời tiên tri xác định quyền cai trị sẽ thuộc về dòng họ Nguyễn.

Không thỏa mãn với việc chỉ sử dụng họ Nguyễn, Nguyễn Nhạc còn tìm cách tạo lập mối quan hệ gần gũi hơn nữa với nhà Nguyễn bằng việc mưu tính gả một trong những cô con gái của ông ta cho vị đông cung mà anh em Tây Sơn đang bảo vệ*. Ý nghĩa của nỗ lực nhằm tạo mối quan hệ qua hôn nhân không nên được cường điệu quá đáng. Ngay từ những ngày đầu tiên của một nước Việt Nam độc lập, sự kết giao qua hôn nhân rất quan trọng, giúp các dòng họ có thế lực tại địa phương buộc chặt với nhau trên một lãnh thổ bị chia cắt. Từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV, các triều Lý và Trần đã cầm quyền trên đất nước Đại Việt và kết giao với nhau qua một mạng lưới hôn nhân với những dòng dõi tự trị tại địa phương. Vào các thế kỷ sau, những sự kết giao như thế tiếp tục được sử dụng như một phương tiện kết nối các dòng dõi chính trị thuộc nhiều vị trí khác nhau, trong đó có hai họ Trịnh và Lê trong cuộc cộng sinh chính trị lâu dài của họ. Trong một vùng đất mà quan hệ họ hàng quyết định địa vị chính trị và tính chính thống, đối với những người ngoại cuộc làm chính trị như anh em Tây Sơn, một trong những cách tốt nhất để tự khẳng định mình là qua hôn nhân, trở thành thành viên của những gia đình có uy tín về chính trị. Trong lãnh vực này, việc họ sử dụng quan hệ hôn nhân cũng tương tự như dòng họ Nguyễn trước họ, vào thế kỷ XVII đã phát triển mối quan hệ hôn nhân với các nhà cai trị hai vương quốc ở sát cạnh là vương quốc Khmer và vương quốc Chăm và với những thương nhân giàu có như cách củng cố nền tảng chính trị của chính họ.

Tuy nhiên, để tạo dựng mối quan hệ hôn nhân, trước tiên Nguyễn Nhạc phải bắt được đông cung Nguyễn Phúc Dương, người trước đó đã tránh được một cuộc truy bắt của nhà Tây Sơn. Cho dù họ tuyên bố tranh đấu nhân danh đông cung thế tử, có nhiều dấu hiệu cho thấy ông không hoan nghênh lắm sự hỗ trợ này và tìm cớ duy trì một khoảng cách an toàn với những kẻ tự nhận đã cứu ông. Song, sau khi nhà Tây Sơn treo thưởng cho ai bắt được ông, cuối cùng đông cung Dương cũng bị bắt và bị giải đến cho các lãnh tụ Tây Sơn ở Hội An vào tháng 5 hoặc tháng 6 năm 1775. Vào lúc này, Nhạc “gả con gái Thọ Hương cho đông cung như một quà tặng và nhiều lần yêu cầu đông cung lên ngôi chúa, song ông không đồng ý”. Phần lớn chứng cứ còn lưu lại kể rằng đông cung tiếp tục từ chối những đề nghị đó, cho đến ngày ông có thể thoát khỏi sự giam hãm của nhà Tây Sơn vào cuối năm 1776 và chạy vào vùng Gia Định, nơi tập trung quân của nhà Nguvễn. Tuy nhiên, về phần mình, Nguyễn Nhạc tin, hay muốn tin rằng cuộc hôn nhân là hoàn hảo, vì theo Hoàng Lê nhất thống chí, về sau, Nhạc tự giới thiệu với nhà Lê là qua cuộc hôn nhân này, ông ta đã là một thành viên của dòng họ Nguyễn từng cầm quyền*.

Với việc đông cung Dương thoát khỏi sự cầm giữ của anh em Tây Sơn, sự thuận lợi từ mối quan hệ với nhà Nguyễn tan thành mây khói. Sự ra đi của ông khiến các lãnh tụ Tây Sơn mất đi những tàn dư còn có ích của nhà Nguyễn, những người còn tồn tại của vương triều này tập hợp lại ở vùng Gia Định dưới sự chỉ huy của một ông hoàng trẻ khác là Nguyễn Ánh (cháu nội chúa Nguyễn Phúc Khoát). Vì vậy, sau khi đông cung đi thoát rồi, anh em Tây Sơn từ bỏ việc khoe khoang phục vụ cho chính nghĩa của nhà Nguyễn và năm sau đó, họ đã tàn sát gần như toàn bộ dòng dõi nhà Nguyễn trong một cuộc càn quét vùng Gia Định. Trong mọi trường hợp, nhà Tây Sơn tiếp tục duy trì khoảng cách nhất định giữa họ và những người mà họ tự cho là bảo vệ chính nghĩa của họ. Như chúng ta đã biết ở phần trên, nhà Tây Sơn đã đúc những chiếc ấn quân sự chỉ trích chúa Nguyễn trẻ tuổi như một bạo chúa. Để đẩy mạnh sự chỉ trích hơn nữa, các lãnh tụ Tây Sơn chính thức cấm sử dụng từ phúc là một phần tên của quốc phó Trương Phúc Loan, của chúa Nguyễn Phúc Thuần vừa bị sát hại, và của toàn bộ dòng dõi các chúa Nguyễn*. Mối quan hệ căng thẳng giữa họ với đông cung Dương trẻ tuổi và sự nhận biết là lời tuyên bố ủng hộ nhà Nguyễn của họ chỉ còn chút giá trị nhất định khiến họ tìm thêm những mối quan hệ chính trị khác. Họ không cần phải nhìn đâu xa, vì đại quân của họ Trịnh đã có mặt tại vùng đất phía nam rồi.

Hình 5: Bản đồ miền Trung Đàng Trong cho thấy những địa điểm then chốt có liên quan đến cuộc nổi dậy. Các địa danh trong phủ được đặt theo sự phân bố địa iý, với các ranh giới không rõ ràng.

II.6.2. Nhà Tây Sơn và họ Trịnh (1775-1786)

Trong lúc cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn gây ra nhiều thiệt hại cho các chúa Nguyễn, nó trở thành một cơ hội ngoạn mục cho chúa Trịnh ngồi ở Thăng Long quan sát những biến động đang diễn ra. Lợi dụng những rối loạn ở phía nam, chúa Trịnh Sâm ra lệnh xâm chiếm lãnh thổ của chúa Nguyễn vào mùa hè năm 1774, tuyên bố là mục đích nhằm giúp đỡ chúa Nguyễn chống lại nhà Tây Sơn. Sâm huy động một đạo quân 30.000 người nhanh chóng tiến vào nam. Cuối năm 1774, quân Trịnh đến vùng đất Thuận Hóa đang suy yếu vì nạn đói và đầu năm sau vào đến Phú Xuân, một thành phố đang diễn ra cảnh rối loạn nội bộ nghiêm trọng, với một vài quan lại hỗ trự tích cực cho cuộc xâm chiếm của quân Trịnh, Sau khi chiếm kinh đô nhà Nguyễn một cách dễ dàng, quân Trịnh tiếp tục tiến về phía nam, qua đèo Hải Vân và đi sâu vào Quảng Nam.

Trong lúc cuộc tiến quân trước đó của họ ít gặp sự kháng cự của quân Nguyễn, và lúc ban đầu, họ cũng giành được một vài thắng lợi trước quân Tây Sơn, thì sau đó quân Trịnh sớm gặp khó khăn. Họ đã không được chuẩn bị tốt cho việc thích ứng với các điều kiện về địa lý và khí hậu ở phía nam, các đường dây tiếp tế bị căng ra quá mức chịu đựng. Những vấn đề trên kết hợp với một trận dịch quét qua toàn quân Trịnh và mặc dù lúc đầu chỉ ảnh hưởng đến binh lính (làm chết 600 người và 3.000 người khác bị nhiễm bệnh), song về sau còn làm giảm sút nghiêm trọng số người chỉ huy quân sự nữa. Trong một thời gian ngắn giữa tháng 1 và tháng 3.1775, đã có 3 trong số những tướng lĩnh quan trọng của quân Trịnh qua đời*.

Mặc dù lâm vào tình thế khó khăn, cuộc tiến công của quân Trịnh vào cuối năm 1774, đầu năm 1775 cho thấy một mối đe dọa nghiêm trọng cho vị thế của nhà Tây Sơn đang lâm nguy trước cuộc phản công do quân nhà Nguyễn tiến hành từ phía nam. Kẹt giữa hai lực lượng quân sự, và không có đủ tiềm lực chiến đấu ở cả hai mặt trận, Nguyễn Nhạc tỏ ra thực dụng khi xin đầu hàng quân Trịnh vào cuối mùa xuân 1775. Khi Nhạc bày tỏ điều này trong lá thư gửi cho tướng Trịnh, “tôi được biết đại quân đang tiến công và lấy lại lãnh thổ cũ. Tôi nghĩ ngay đến bản thân mình: tôi đang ở trên đất của nhà vua, và tôi là thần dân của vua, tôi sẽ hết lòng tuân theo mệnh lệnh của ngài”. Đang ở trong tình thế căng thẳng, các chỉ huy quân Trịnh dễ dàng thỏa thuận với lời xin đầu hàng và cử anh em Tây Sơn làm tướng trong hàng ngũ quân Trịnh. Người lớn nhất trong ba anh em Tây Sơn từng bị quân Trịnh chế nhạo một cách khinh miệt bằng cái tên “Biện Nhạc ngông cuồng" được cử làm Tây Sơn Hiệu Trưởng Tráng Tiết Tướng Quân. Lúc đầu, nhà Trịnh chỉ phong chức cho Nguyễn Nhạc, nhưng ông ta thúc giục họ làm nhiều hơn, và họ đồng ý ban cho người em của ông ta là Nguyễn Huệ chức Tây Sơn Hiệu Tiền Phong Tướng Quân. Cuối cùng thì trong lúc bề ngoài Nhạc vẫn giả vờ hành động như một thuộc hạ của chúa Nguyễn, ông ta còn là một tướng trong quân đội của họ Trịnh lãnh sứ mạng lật đổ chính nhà Nguyễn.

Chẳng những ban cho anh em Tây Sơn chức chưởng trong quân đội, chúa Trịnh còn ban tượng trưng những phần thưởng bằng vật chất cho những người liên minh mới với họ. Những vật phẩm đó biểu thị cho cả quyền lực chính trị và quân sự, gồm có gươm, quân phục, cờ, và ấn tín. Chúng có một ý nghĩa chính trị to lớn và có giá trị nhiều hơn chức tước, vốn dễ yêu cầu nhưng không dễ được dẫn chứng. Sở hữu những phẩm vật phản ánh chức vụ mới và sự liên kết của họ, anh em Tây Sơn dễ dàng hơn trong việc tuyên bố nắm quyền. Có ưu thế nhất trong những phẩm vật này là chiếc ấn, biểu tượng chính thức của chức vụ chính trị hay quân sự. Chúng được sử dụng ở Đại Việt cũng như ở Trung Quốc, nhằm mang lại tính hiệu lực cho những văn kiện chính thức, nhưng quan trọng hơn là nhằm làm biểu tượng cho quyền lực và địa vị. Việc sở hữu một chiếc ấn như thế là dấu hiệu chủ yếu của quyền lực. Như đã ghi lại ở trên, một giáo sĩ đã viết vào năm 1776 rằng do Nguyễn Nhạc không sở hữu một ấn tín của triều đình, người dân nghĩ là ông ta không có được ân sủng của trời. Tầm quan trọng của ấn tín cũng được nêu rõ trong một tình tiết liên quan đến một tôi trung của nhà Nguyễn về sau đã đi đến kinh đô của Tây Sơn để làm thông dịch cho một phái bộ của người Anh do Charles Chapman dẫn đầu vào năm 1778:

“Ông quan không may tội nghiệp của chúng tôi đang ở trên boong tàu, ông ta thích ẩn mình trong một bộ trang phục của người Anh, râu cạo nhẵn, răng đánh sạch, và điều làm cho ông ta lo lắng là phải cắt bộ móng tay dài từ hơn bảy phân đến một tấc. Ông ta muốn xem tờ giấy (một chỉ dụ của Nguyễn Nhạc cho Chapman) và ông ta nói với tôi mà nước mắt quoanh tròng khi nhìn thấy dấu đóng từ ấn tín cũ của các chúa Nguyễn mà người sở hữu đê hèn đã lấy cắp nó”.

Thật vậy, tầm quan trọng của ấn tín trong thế giới biểu tượng chính trị của người Việt Nam được chứng tỏ qua việc đánh cắp ấn của một vị quan hay tự ý đúc ấn là có thể bị chém đầu.

Các lãnh tụ Tây Sơn biết rõ giá trị những vật phẩm do chúa Trịnh cấp, và cố công gìn giữ những gì mà các ân nhân của họ đã ban cho họ. Nguyễn Nhạc nhiều lần cử các phái bộ mang quà tặng cho các ông chủ ở phía bắc, dâng những phẩm vật có giá trị phản ánh sự giàu có và tài nguyên thiên nhiên của phía nam: ngựa, voi, gỗ trầm hương, đá cẩm thạch và vàng. Những phái bộ này xuất hiện đều đặn đến mức chúa Trịnh phải từ chối một số lễ vật của nhà Tây Sơn. Trong số những phái bộ mang phẩm vật có một phái bộ được Nhạc chính thức giao việc dâng cho chúa Trịnh quyền kiểm soát ba phù dưới quyền họ là Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên. Vì ba phủ này nằm ở phía nam đèo Hải Vân mà quân Trịnh đã rút khỏi, việc dâng tặng được nêu lên với nhận thức đầy đủ là món quà này sẽ không được chấp nhận. Hoặc đúng hơn là các lãnh tụ Tây Sơn tin chắc rằng ngay cả khi chúa Trịnh nhận quà tặng thì họ cũng chỉ làm việc đó theo nghi thức, vẫn cho phép Nhạc tiếp tục thực hiện quyền kiểm soát trực tiếp lãnh thổ trên thực tế.

Có trong tay chức tước mới và nhiều vật phẩm có giá trị tượng trưng, anh em Tây Sơn quay sự chú ý vào việc tấn công quân Nguyễn ở phía nam, vì lúc bấy giờ họ là tướng trong quân Trịnh, tự coi mình là đạo quân tiên phong của quân Trịnh ở phía bắc. Không còn bị đe dọa bởi quân Trịnh ở mặt bắc, quân Tây Sơn có thể tiến hành một cuộc phản công hữu hiệu chống quân Nguyễn và đẩy cuộc xung đột đi xa hơn về phía nam. Trong lúc quân Tây Sơn chống quân Nguyễn, Nguyễn Nhạc tiếp tục nuôi dưỡng những tham vọng chính trị xa hơn mà ông ta tin rằng người bảo trợ là chúa Trịnh có thể đáp ứng được. Cuối cùng, vào đầu năm 1777, Nhạc đòi hỏi chúa Trịnh thừa nhận quyền hành chính trị của ông ta (đối lại với trách nhiệm quân sự đơn thuần) trên lãnh thổ phía nam Phú Xuân. Chúa Trịnh về mặt danh nghĩa có mọi quyền hạn trên vùng đất này, đã thuận theo yêu cầu của ông ta. Chúa bổ nhiệm Nguyễn Nhạc làm trấn thủ Quảng Nam và phong tước quận công, hãng thứ ba trong các tước vị triều đình. Đây không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Nguyễn Hoàng, người khai sáng vương quyền nhà Nguyễn ở Đàng Trong, cũng được phong chức tước này, và điều đó cho thấy chúa Trịnh xét Nhạc trên danh nghĩa tương tự*, có thêm trong tay những chức tước đó, Nhạc trở thành một viên chức chính trị ưu tú của chúa Trịnh.

Sau những thăng thưởng này, có vẻ như mối tương quan giữa Nguyễn Nhạc (và nhà Tây Sơn nói chung) với những nhà lãnh đạo ở phía bắc đã không còn như trước nữa. Các tài liệu lịch sử Việt Nam không còn viết về những mối quan hệ giữa các năm 1777 và 1786 và có lẽ những tình huống này không đáng phải ngạc nhiên. Trong thời gian các nhà lãnh đạo Tây Sơn tham gia vào một cuộc chiến đấu mãnh liệt với kẻ thù họ Nguyễn ở phía nam, họ ít có cơ hội, và cũng không cần mấy, tiếp xúc nhiều với chúa Trịnh. Khi hai bên chạm trán nhau lần nữa thì đó là vào năm 1786, lúc bấy giờ quân Tây Sơn tấn công ồ ạt vào các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị trước kia của họ.

II.6.3. Nhà Tây Sơn và các mối quan hệ chính trị địa phương: người dân vùng cao và người Chăm

Ngoài những nỗ lực ban đầu nhằm kết hợp với những trung tâm chính trị xa xôi (cho dù là hùng mạnh hơn) ở Thăng Long và Phú Xuân, nhà Tây Sơn còn thiết lập mối quan hệ với các lực lượng và tổ chức chính trị tại địa phương. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất trong cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn là mối quan hệ giữa họ với nhiều bộ tộc không phải là người Việt, gồm cả những người sống ở cao nguyên và những người cư trú ở đồng bằng ven biển. Thông qua giao thiệp về thương mại, Nguyễn Nhạc đã thiết lập mối quan hệ tốt với các bộ tộc ở cao nguyên, trong đó đáng lưu ý nhất là người Bahnar. Một vài tài liệu chép rằng Nhạc đã cưới một phụ nữ Bahnar làm vợ, một điều dường như đã được xác minh trong tài liệu của người châu Âu về sau này cho rằng vợ ông ta và mấy người con có thể xuất thân từ các nhóm người vùng cao. Cùng với các bộ tộc khác, người Bahnar cung cấp binh lính, quân nhu, và sự phòng vệ trong những năm đầu của phong trào, khi nó dễ dàng bị tấn công và tiêu diệt bởi quân Nguyễn. Có thể sự dính líu của người Bahnar vào phong trào Tây Sơn là sự tiếp tục hỗ trợ cho những hành động chống nhà Nguyễn đã diễn ra vào các thập niên 1750 và 1760. Những nhóm người này tiếp tục ủng hộ nhà Tây Sơn, cho dù chúng ta sẽ thấy ở Chương IV, nhiều người khác chọn cách đứng về phía nhà Nguyễn là đối địch của Tây Sơn*.

Trong lúc những quan hệ chính trị và cá nhân diễn ra tại cao nguyên cố nhiên là có tính quan trọng, đặc biệt trong những giai đoạn đầu tiên của phong trào, khi nhà Tây Sơn mở rộng hoạt động xuống vùng đồng bằng ven biển, họ ngày càng dựa vào các tổ chức chính trị ở đồng bằng, đặc biệt nhất là các tổ chức của người Chăm. Vùng đất các anh em Tây Sơn đứng lên là trung tâm của một vùng từng được dùng làm kinh đô của vương quốc Champa hùng mạnh. Vào thế kỷ XVIII, tổ tiên của người Chăm từng kiểm soát phần lớn vùng đất miền Trung của Việt Nam ngày nay, có lúc quyền lực của họ trải dài tới Thăng Long ở phía bắc, tới Angkor ở các phía tây và nam. Champa có một lực lượng chính trị và quân sự ghê gớm đối đầu với nhà nước Việt Nam lúc ban sơ, song rồi suy yếu về chính trị và mất dần đất đai vào tay người Việt từ đầu thế kỷ XV. Đến các thế kỷ XVI và XVII, nhà nước Champa và cư dân của họ còn phải chịu đựng cảnh nhà Nguyễn bành trướng về phía nam, và vào thời kỳ Tây Sơn, vương quốc Champa đã thu nhỏ rất nhiều về đất đai và uy thế. Tuy vậy, Champa tiếp tục giữ một mức độ độc lập về chính trị nhất định, cảnh quan trong vùng vẫn còn rải rác các tháp Chăm và các bức tường thành, nhắc nhở uy lực một thời của các vua Chăm. Do sự tiếp tục tồn tại của người Chăm, khu vực trên được gọi phổ biến là xứ Chiêm hoặc các du khách châu Âu gọi đơn giản hơn là Chăm.

Nhận ra những gì họ phải chịu đựng dưới bàn tay quyền lực của các chúa Nguyễn, có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng người Chăm sẵn sàng liên kết với nhà Tây Sơn. Trong số những người đầu tiên ủng hộ phong trào Tây Sơn có bà công chúa Chăm tên Thị Hỏa và các ngươi thân cận của bà. Nhà Tây Sơn không chỉ đơn thuần trông chờ vào sự ủng hộ vật chất của người Chăm, cho dù họ có tuyển mộ người Chăm vào trong quân đội của họ, họ còn coi đó là những biểu tượng chính trị, tuy không rõ ràng song cũng quan trọng không kém. Theo các sử quan triều Nguyễn vào thế kỷ XIX, các nhà lãnh đạo người Chăm đã giới thiệu với các lãnh tụ Tây Sơn nhiều vật phẩm có tính biểu tượng: “Chưởng cơ Chăm ở xứ Thuận Thành (một thuộc quốc của triều đình nhà Nguyễn), tiếp xúc với nhà Tây Sơn, mang theo tất cả biểu chương của vương quốc Chăm để dâng nộp cho họ”*. Trên thực tế, một hành động như vậy cho thấy một chuyển biến về kỳ vọng chính trị của người Chăm vào nhà Tây Sơn. Có lẽ người lãnh đạo dân tộc Chăm suy luận rằng nhà Tây Sơn có thể giúp họ duy trì sự tự trị hoặc ít nhất cho phép họ thực hiện việc trả thù nhà Nguyễn. Cũng như những lễ vật mà họ Trịnh đã dâng nộp, các đồ tạo tác cung đình của người Chăm đã giúp nhà Tây Sơn thực hiện các nghi thức trong nỗ lực hợp pháp hóa về mặt chính trị.

Về những vật phẩm cung đình được dâng nộp, một tài liệu rất khác biệt và có lẽ hạp lý hơn, là thư của một giáo sĩ Pháp tên Jean- Pierre-Joseph D’Arcet, người Pháp duy nhất sống trong lãnh địa do nhà Tây Sơn kiểm soát trong thời gian giữa thập niên 1770 và năm 1786:

“Ngày nọ, rút quân về sau một trận chiến ở Đồng Nai, (Nguyễn Nhạc) viếng một tiểu vương cư ngụ trên lộ trình của ông ta nằm giữa hai vương quốc, ông ta không gặp ai tại triều đình ngoài một thiếu niên khoảng 10 đến 12 tuổi đang ngồi trên ngai vàng. Nhạc tự xưng là cha và người anh cả của ông vua trẻ kia* và đòi xem những vật phẩm quý giá nhất trong triều. Trong những đồ vật mà ông ta được cho xem, có một cây quyền trượng bằng vàng chạm trổ đẹp, với hình 14 chiếc sừng, đánh dấu 14 thế hệ cha con đã nắm quyền kể từ khi vương quốc được thành lập. Ông ta giữ lấy tác phẩm tuyệt vời đó và nói với người đệ tử: “ta sẽ trả nó lại cho con”. [Vị tiểu vương] đã phải nhận quà tặng và cho phép người giám hộ nhân đức và giàu lòng trắc ẩn kia* cướp đoạt tài sản chốn cung đình. Người đệ tử đáng thương đó phải sẵn lòng như thế để bảo tồn sự sống còn của ông ta”.

Tài liệu đó chứng tỏ là nhà Tây Sơn đã tịch thu các biểu chương của người Chăm, thay vì người Chăm dâng hiến cho họ, và những điều này cho thấy động cơ của nhà Tây Sơn rõ hơn là nguyện vọng của người Chăm. Cho dù biểu chương của vương quốc Chăm có được dâng nộp hay bị tịch thu thì cuối cùng cũng đã nằm trong tay các lãnh tụ Tây Sơn và chắc chắn là họ sử dụng chúng với hiệu quả cao. Những vật phẩm đó có một ý nghĩa rất bí ẩn mà âm vang của chúng đã làm tăng thêm trọng lượng đáng kể cho những tuyên bố về chính trị và lễ nghi của nhà Tây Sơn.

Có lẽ mối quan hệ có ý nghĩa biểu tượng nhất của nhà Tây Sơn đối với dân tộc Chăm nằm trong việc Nguyễn Nhạc đã chọn cố đô Vijaya của người Chăm làm kinh đô của mình. Thành này có tên tiếng Việt là Chà Bàn (hay Đồ Bàn), hơi xa cảng Qui Nhơn và không được tu sửa từ nhiều thế kỷ qua. Nguyễn Nhạc nỗ lực tích cực khôi phục chúng, gia cố các bức tường thành và tái thiết một số cung điện bên trong*. Du khách Anh Charles Chapman đã đến thăm thành phố này vào năm 1778 và có để lại một tài liệu miêu tả thú vị về nó (xem bên dưới). Chà Bàn được dùng làm kinh đô của Nguyễn Nhạc từ năm 1776 cho đến khi ông ta qua đời vào năm 1793, khi đó, người cháu kế nghiệp ông* tiếp tục sử dụng thành phố này như một trung tâm chính trị. Mặc dù không có một chứng cứ rõ ràng nào cho thấy nhà Tây Sơn chọn lấy khu vực này vì nó là một kinh đô cũ của người Chăm, nhưng hầu như chắc chắn rằng đây là một phần quan trọng trong các tính toán của Nguyễn Nhạc. Một nguồn tư liệu có tên Nguyễn thị Tây Sơn ký ghi chép rằng khu vực này được chọn lựa không phải vì nó báo hiệu một điềm tốt, mà vì trong bất cứ trường hợp nào, nó cần ích và tương đối dễ phòng thủ.

Mối quan hệ Tây Sơn-Chăm được thiết lập trong mấy năm đầu của cuộc nổi dậy và không phải là một mối quan hệ có thể đánh giá được. Xét cho cùng, nhà nước Chăm vẫn là một vị trí trung gian của quyền lực chính trị. Từ vị trí này, nhà Tây Sơn có thể tranh giành quyền lực với nhà Nguyễn, không phải với tư cách người kế tục trực tiếp của dòng họ Nguyễn, mà với tư cách là những người kế tục truyền thống chính trị Chăm. Có lẽ không phải hoàn toàn là điều ngẫu nhiên khi Nguyễn Huệ đến Thăng Long vào năm 1786, một số người phương Bắc đã gọi ông với cái tên Chế Bồng Nga, nhắc nhở nhà lãnh đạo Chăm nhiều quyền lực vào thế kỷ XIV, người đã tấn công kinh đô nước Đại Việt tương tự như thế. Và điều có một ý nghĩa biểu tượng là cũng như Chế Bồng Nga, như chúng ta sẽ thấy, Nguyễn Huệ cũng được kết hôn với một bà công chúa như một hành động vừa nhằm nhân nhượng vị tướng phương Nam, vừa kết nối hai vương quốc chính trị nam và bắc*. Trong lúc đế chế Chăm từng đạt đến đỉnh cao dưới triều Chế Bồng Nga, và đến thế kỷ XIX, nó trở nên rất tầm thường về mặt chính trị đến mức hầu như không còn tồn tại trên thực tế, thì với người phương Bắc, khi bị tách rời khỏi phần đất Đại Việt, dân tộc Chăm vẫn còn là một thế lực chính trị và quân sự mạnh mẽ.

II.7. TRỞ THÀNH VƯƠNG CÔNG, VUA VÀ HOÀNG ĐẾ: ANH EM TÂY SƠN TUYÊN BỐ NẮM QUYỀN LỰC

Cho dù đã tạo được mối quan hệ quan trọng với những thế lực chính trị đương thời, nhà Tây Sơn có những tham vọng chính trị riêng của họ và không hoàn toàn đi theo con đường của họ Nguyễn, họ Trịnh hay người Chăm. Vì vậy, ngay cả khi họ tự coi mình như những người bảo vệ dòng họ Nguyễn, đạo quân nổi loạn ấy đã hủy hoại những vật phẩm thiêng liêng nhất của triều Nguyễn, đặc biệt nhất là họ đã đốt cháy 9 ngôi đền (của các chúa Nguyễn, kể từ chúa Nguyễn Hoàng), trong thủ phủ chính của tỉnh Quảng Nam vào giữa năm 1774. Trong lúc không rõ đó có phải là một hành vi có tính toán nhằm báo thù chính trị hay không, hay đơn thuần chỉ là sự phá hoại do thiếu kiểm soát trong một chiến dịch quân sự, điều này làm lộ rõ sự căng thẳng trong mối quan hệ vốn có giữa nhà Tây Sơn với những thế lực được coi là đồng minh của họ. Năm sau, Nhạc biểu lộ những dấu hiệu đầu tiên về tham vọng chính trị của ông (có lẽ mới triển khai). Tham vọng đó diễn ra dưới hình thức thiết lập một chính quyền chính thức của nhà Tây Sơn, mô phỏng về danh hiệu, nếu không về chức năng, là những yếu tố quan trọng của một chính quyền quân chủ. Quan trọng hơn cả là Nguyễn Nhạc tự phong là Minh Đức Chúa Công - giữ cương vị từng do các chúa Nguyễn nắm giữ" và sau đó ban phát tước vị cho các em của ông, ông cũng tổ chức, ít nhất trên danh nghĩa, lục bộ là 6 cơ quan đảm trách những nhiệm vụ chính của một chính quyền Đại Việt theo truyền thống: bộ Công, bộ Lại, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hình và bộ Hộ, và bổ nhiệm người trông coi các bộ. Như sách Bình Nam thực lục đã mô tả, ông “đặt ra các tước vị theo đúng hệ thống của dòng họ Nguyễn”. Hành vi này là một chỉ dấu rõ ràng cho thấy là nhà Tây Sơn không cần một bung xung từ dòng họ Nguyễn, ngay cả khi họ tiếp tục cầm giữ một hoàng tôn Dương bướng bỉnh làm con tin về chính trị.

Năm 1776, bị chúa Trịnh quấy rầy, các lãnh tụ cuộc nổi dậy nâng cao tính độc lập của họ khi Nguyễn Nhạc tự xưng hiệu Thiên Vương*. Li Tana đã chỉ ra rằng đó là danh hiệu mà các chúa Nguyễn thường sử dụng trong mối quan hệ với dân bản địa trong vùng. Có vẻ đây là một nỗ lực nhằm công bố một danh hiệu chính trị quen thuộc như một phần trong ý đồ của Nhạc muốn củng cố hơn nữa địa vị của ông ta trong cộng đồng dân cư địa phương. Cũng vào thời điểm đó, ông ta chính thức thiết lập kinh đô tại Vijaya, đúc một chiếc ấn vàng (như chúng ta đã thấy, đó là một biểu tượng quyền lực rất mạnh mẽ), lập một phân khu chính trị mới tại Qui Nhơn, và công bố một chế độ cưỡng bách quân sự, qui định cứ 5 dân làng thì phải có một người khai báo nghĩa vụ quân sự.

Tuy nhiên, tham vọng chính trị của Nhạc vẫn chưa được thỏa mãn, vì hai năm sau, vào năm 1778, ông ta tuyên bố lên đến đỉnh cao nhất của quyền lực chính trị, tự xung hoàng đế và khai mở năm đầu tiên của niên hiệu Thái Đức, về mặt tượng trưng, đó là một bước đi vô cùng quan trọng, vì trong lúc chấp nhận một niên hiệu mới, Nguyễn Nhạc phải đoạn tuyệt hoàn toàn với các mệnh lệnh của triều Lê, một bước đi mà thậm chí sau gần 200 năm, nhà Nguyễn cũng không thực hiện*. Trong hệ thống chính trị xưa của nước Đại Việt, niên hiệu được dùng để ghi lại thời điểm xảy ra các sự kiện, như một chuẩn mực theo thể biên niên ký. Việc nhà Nguyễn sử dụng niên hiệu của vua Lê trong lịch của họ và trong các tài liệu khác cho thấy sự kiện họ tiếp tục công nhận quyền hành tối cao của nhà Lê*. Nguyễn Nhạc không có được sự đảm bảo về quyền hành như nhà Nguyễn khi họ duy trì lâu dài ý niệm về quyền thống trị của nhà Lê đối với vùng đất phía nam, bước đi của Nhạc có lẽ nên được coi như là một lối tuyên xưng cá nhân hợp với logic hơn là một thách thức chính trị mạnh mẽ đối với vua Lê. Qua việc chấp nhận một niên hiệu mới, Nhạc công bố sự thiết lập một nhà nước độc lập ở phía Nam, thay vì thách thức những lời khẳng định của vua Lê trên toàn cõi Đại Việt, về điểm này, các chứng cứ về mặt tư liệu chưa đầy đủ, rõ ràng, cho dù có vẻ như lời tuyên bố của Nhạc chỉ nhằm vào lãnh địa cũ của nhà Nguyễn. Trong cùng năm đó, khi nêu rõ kế hoạch mở rộng đất đai xa hơn với phái viên người Anh Charles Chapman, Nguyễn Nhạc cũng chỉ đề cập đến việc chiếm lĩnh những đất đai cũ của nhà Nguyễn vào thời đó còn nằm dưới sự kiểm soát của quân Trịnh, không kể tới việc thách thức quyền hành của nhà Lê ở phía bắc con sông Gianh.

Việc Nhạc cố gắng mô phỏng tính xa hoa của triều đình nhà Lê được Chapman kể lại trong chuyến viếng thăm của ông vào tháng 7.1778, tại triều đình Tây Sơn ở thành cổ của người Chăm*. Như Chapman đã viết:

“Xét tổng quát, khung cảnh có một vẻ bề ngoài tinh tế, và mặc dù nó đòi hỏi sự sắp đặt những đồ dùng cần thiết để tạo nên sự đường bệ và lộng lẫy để so sánh với các ông hoàng phương Đông khác, như sự dồi dào những ngọc đá quý, thảm, người hầu cận, sự qui củ và đúng mực quan sát được ở đây mang lại cho mọi người ý tưởng về một vị vua có nhiều quyền hành được vây bọc bởi triều đình của ông ta”.

Chapman cũng viết về vẻ bề ngoài của Nguyễn Nhạc như sau:

“Vì vua mặc một chiếc áo lụa màu vàng sẫm*, trên khảm hình rồng bằng vàng và các hình thể khác; ông đội trên đầu một chiếc mũ chật quay ra sau, trán được trang điểm bằng châu ngọc, trên cùng là một viên đá to màu đỏ được một sợi dây xỏ qua và nâng nó lên vài phân, Nó lúc lắc và sáng lấp lánh mỗi khi ông cử động”.

Có thể rằng Chapman đến thăm Nguyễn Nhạc một thời gian ngắn sau khi ông lên ngôi Thái Đức hoàng đế. Trong lúc các nguồn tư liệu về vấn đề này không rõ ràng thì sách Nguyễn thị Tây Sơn ký chép rằng “vào mùa xuân, tháng đầu tiên năm Mậu Tuất (1778), quân ta (Nguyễn) tiến công Sài Gòn, quân của Tổng đốc Nhung bị đánh bại và trốn chạy. Vào lúc đó, Nhạc tự xưng là Mình Đức hoàng đế”. Phần còn lại của tài liệu bao gồm nghi thức phủ phục của các quan lại trước Nhạc, cho thấy rằng thể chế của ông ta vào thời đó là thể chế của một hoàng đế hơn là của một quốc vương.

Với việc Nhạc tự xưng hoàng đế, nhà Tây Sơn đã cắt đứt liên minh chính trị và quân sự với nhà Nguyễn và họ Trịnh khi họ tạo nên một quyền lực chính trị độc lập. Trong 8 năm sau đó, tình trạng chính trị này vẫn diễn ra trên vùng đất do Tây Sơn kiểm soát, ngay cả khi những xung đột về quân sự với nhà Nguyễn vẫn tiếp diễn ở phía nam. Tuy nhiên, về sau, tình hình biến đổi mạnh mẽ, làm thay đổi sâu sắc diễn biến của phong trào và chia rẽ các lãnh tụ Tây Sơn.

II.8. GIỚI HẠN CỦA SỰ CỐ KẾT: SỰ CHIA RẼ VỀ CHÍNH TRỊ CỦA NHÀ TÂY SƠN

Khoảng cuối năm 1785, các lãnh tụ Tây Sơn tiếp tục khai triển những tuyên bố về chính trị và tính hợp pháp trong phạm vi lãnh thổ cũ của nhà Nguyễn ở phía nam đèo Hải Vân. Tuy nhiên, qua năm sau, tình hình biến đổi, và năm 1786 đánh dấu một sự phân rẽ trong phong trào Tây Sơn, khi những mối căng thẳng tiềm ẩn giữa các lãnh tụ Tây Sơn nổi lên một cách mạnh mẽ. Nguồn cội của những đổi thay này là sự bành trướng dần ảnh hưởng quân sự và chính trị của nhà Tây Sơn ở Đàng Ngoài, nổi bật với việc trước tiên Nguyên Huệ chiếm lấy Phú Xuân và ngay sau đó là kinh thành Thăng Long ở phía bắc trong một chiến dịch thần tốc. Về thực chất, phong trào bị chia rẽ vào mùa hè năm 1786 và một đường ranh chia cách đã được vạch ra giữa Nguyễn Nhạc, là người cẩn trọng hơn, song có lẽ ít tham vọng hơn, với người em trai năng động và có tài về quân sự là Nguyễn Huệ.

Hình 6: Bản đồ Đàng Ngoài cho thấy những vị trí then chốt liên quan đến hoạt động của nhà Tây Sơn ở khu vực phía bắc. Các tên trong trấn được đặt theo sự phân bố địa lý chung.

Trước thời điểm này, anh em Tây Sơn chiến đấu cùng với nhau trong khuôn khổ một sự lãnh đạo còn tương đối chặt chẽ, dưới sự giám sát tối hậu của Nguyễn Nhạc. Điều đáng tiếc là có ít thông tin về những động lực nội tại trong sự lãnh đạo của nhà Tây Sơn trong khoảng thời gian giữa những năm 1775 và 1786, do đó khó mà xác định bản chất và qui mô của những căng thẳng tồn tại từ lâu giữa hai anh em. Một chi tiết trong thư của một giáo sĩ có miêu tả việc hai anh em Nhạc-Huệ bất hòa với nhau về việc hành xử với người Cơ Đốc giáo vào năm 1784, cho thấy sự tồn tại của mối căng thẳng này. Vào thời điểm trên, người ta kể rằng Huệ đã đả kích mạnh mẽ chính sách của người anh qua việc thẳng tay đàn áp người Cơ Đốc giáo, lập luận rằng điều này gây nhiều chia rẽ vào lúc mà họ cần sự hợp nhất về mặt xã hội trong cuộc chiến đấu chống lại nhà Nguyễn đang diễn tiến. Bức thư miêu tả là Huệ rất giận dữ và Nhạc cũng miễn cưỡng đồng tình với những lập luận của người em*. Mặt khác, chúng ta chỉ có thể suy đoán rằng dù gì thì sự cáng thẳng đang tồn tại giữa hai anh em cũng được làm dịu đi bởi những chiến dịch quân sự diễn ra đều đặn khiến họ thường xuyên sống xa nhau và luôn bận rộn ở vùng đất phía nam. Cùng lúc đó, khi Huệ đạt được những thắng lợi liên tiếp ở phía nam trong lúc người anh vẫn bất động ở Chà Bán, người em có thể đã bắt đầu khuếch trương tham vọng chính trị của riêng mình. Dù ở trường hợp nào thì mối quan hệ giữa họ cũng đã thay đổi từ năm 1786 vớí chiến dịch chiếm lại Thuận Hóa từ tay quân Trịnh.

II.8.1. Tây Sơn tiến ra Bắc

Nhiều yếu tố khiến cho năm 1786 trở thành thời điểm thuận lợi cho việc tấn công quân Trịnh. Quan trọng nhất là chiến thắng có tính quyết định của quân Tây Sơn trước liên quân Nguyễn- Xiêm tại vùng châu thổ sông Cửu Long vào cuối năm 1785. Đòn trí mạng này buộc Nguyễn Ánh và những người ủng hộ ông phải sống lưu vong tại Xiêm và ở đó cho đến năm 1787. Trong tình trạng chúa Nguyễn ở xa và có vẻ như vùng đất phía nam đã chắc chắn nằm dưới sự kiểm soát của mình, cuối cùng thì anh em Tây Sơn đã nhìn ra phía bắc. Nhạc muốn lấy lại vùng đất mà quân Trịnh đã chiếm của chúa Nguyễn trong chiến dịch 1774-1775, một tham vọng mà ông ta đã nuôi dưỡng từ ít nhất là vào năm 1778. Thứ đến, Đàng Ngoài đã bị hủy hoại bởi một trận đói kéo dài tàn phá cả một vùng và trở nên đặc biệt dữ dội vào đầu năm 1786. Cuối cùng, Nhạc nhận được sự tư vấn và ý kiến về mặt chuyên môn của Nguyễn Hữu Chỉnh, một người đã phản lại triều đình phương Bắc và tham gia vào lực lượng quân sự phương Nam từ năm 1782. Chỉnh trốn khỏi Đàng Ngoài sau khi cảm thấy bị thất sủng trong một cuộc lật đổ ở triều đình tiếp sau cái chết của chúa Trịnh Sâm. Ngay cả sau khi đâ bỏ đi, Chỉnh vẫn còn quan hệ với chính quyền phía bắc. Mùa xuân năm 1786, ông ta tiếp một người quen đến thăm, là một sứ giả do chúa Trịnh gửi đến để thảo luận về vấn đề ranh giới với các lãnh tụ Tây Sơn. Sứ giả này đã cung cấp cho Chỉnh chi tiết của trận đói đang xảy ra ở phía bắc và thẳng thắn khuyến cáo người bạn của ông ta tiến hành một cuộc tấn công; ông ta biểu lộ sự bất bình với chính quyền họ Trịnh và những khó khăn to lớn đang diễn ra tại vương quốc phía bắc. Chỉnh được nghe kể lại về tình hình trong vùng quê của ông và cung cấp cho anh em Tây Sơn những thông tin họ cần nắm để chuẩn bị tiến hành cuộc tấn công.

Được Chỉnh cổ vũ là thời cơ đã chín muồi cho một cuộc tấn công, Nhạc phái Chỉnh và Nguyễn Huệ đi chiếm lấy những vùng đất họ Trịnh đang chiếm giữ ở phía bắc sông Gianh. Đã bị trận đói làm cho suy yếu, sức mạnh của những người bảo vệ khu vực này sa sút thêm sau một tuần lễ nhịn ăn theo lệnh của viên trấn thủ, như một phần của nghi thức chữa lành bệnh. Một cuộc tấn công ngắn ngủi vào kinh thành Phú Xuân đã hạ gục quân phòng thủ, phần lớn quân Trịnh đồn trú tại đây bị quân Tây Sơn tiêu diệt. Nhiều nguồn tư liệu viết rằng kết quả trận đánh là một cuộc thảm sát mà hầu như không một người nào trong lực lượng phòng thủ ở kinh thành còn sống sót. Viên tổng trấn cũng bị sát hại trong trận này. Sau khi giải quyết nhanh gọn lực lượng phòng thủ chính của quân Trịnh ở Phú Xuân, quân Tây Sơn nhanh chóng tiến về phía bắc, đến sông Gianh.

Thay vì tạm dừng chiến dịch tại con sông từ lâu được dùng làm ranh giới chia cắt giữa quân Trịnh và quân Nguyễn, Nguyễn Huệ quyết định vượt quá chỉ thị của người anh và mở rộng chiến dịch qua khỏi sông Gianh, hướng về kinh thành Thăng Long ở phía bắc. Nhiều nhà viết sử người Việt cho rằng trong những chiến dịch năm 1786, Nguyễn Huệ quyết định chiếm lấy Đàng Ngoài thay vì dừng lại ở sông Gianh. Một số người cho rằng họ nhìn thấy ở Huệ một ước vọng thống nhất đất nước, trong khi các nhà phân tích bi quan hơn thì giải thích quyết định của ông đơn thuần là sự phản ánh ý thức mạo hiểm cá nhân. Thật vậy, theo những tư liệu đương thời của cả người Việt và người châu Âu, người thúc đẩy việc mở rộng chiến dịch không phải là Nguyễn Huệ, mà đúng hơn là Nguyễn Hữu Chỉnh. Sách Hoàng Lê nhất thống chí, một trong những nguồn tư liệu quan trọng nhất về thời kỳ này, có thuật lại một cuộc đàm luận kéo dài giữa hai người, trong đó Chỉnh thúc giục Huệ nắm lấy cơ hội, mở rộng cuộc tấn công về hướng Thăng Long, lưu ý Huệ rằng ở phương Bắc lúc bấy giờ, không còn ai có nhiều sức mạnh hoặc sự hiểu biết để tổ chức kháng cự. Dù cho Chỉnh lập luận rằng có thể lấy lý do phục hồi ngôi vị nhà Lê để biện minh cho cuộc mạo hiểm này, điều rõ ràng là việc ông ta nóng lòng đi ra bắc là sự kết hợp giữa tham vọng cá nhân và mong muốn tră thù nhà họ Trịnh đã buộc ông ta phải sống kiếp lưu đày.

Căn cứ vào lời khuyên của Chỉnh, quân Tây Sơn mang theo những lá cờ đề rõ 4 chữ Phù Lê Diệt Trịnh, cho thấy rằng chiến dịch của họ nhằm giải thoát cho vua Lê*. Vì thế, cũng giống như những chiến dịch trước đây mà họ đã chiến đấu nhân danh người kế nghiệp “chân” chúa Nguyễn, lần này họ tiến ra Thăng Long dưới lá cờ nhà Lê. Họ không phải là những kẻ nổi loạn, mà là những lực lượng khôi phục nhắm đến việc “phò vua”. Nhưng ngay cả khi nhà Tây Sơn sử dụng danh nghĩa nhà Lê theo cách này, cũng đã có những dấu hiệu cho thấy họ có thể đồng thời sử dụng trở lại họ Nguyễn, nhân danh dòng họ Nguyễn, giải phóng đất bắc khỏi tay chúa Trịnh và giúp đỡ nhà Lê. Theo sách Sử ký Đại Nam Việt quốc triều, một tác phẩm không rõ năm ra đời (song chắc chắn là ở vào thế kỷ XIX), đã miêu tả mánh khóe đó với mấy chi tiết sau:

“Trước tiên, họ gửi đi một bức thư báo cho người dân biết rằng ‘nhà Nguyễn đã đánh bại quân Tây Sơn và đã bình định mọi vùng đất ở Đàng Trong; nay chúng tôi ra Đàng Ngoài, trước tiên để cứu dân lành và diệt họ Trịnh, do trong quá khứ họ đã gieo rắc nhiều khó khăn cho dân; thứ đến, là cứu giá nhà Lê; và thứ ba là do trước đây họ Nguyễn là các chúa cai trị toàn bộ khu vực Đàng Ngoài và tôn phò nhà Lê, và vì thế một lần nữa chúng tôi mong mỏi nắm lấy cương vị này’. Vì vậy, một số quân lính (của Tây Sơn) đã mang theo những lá cờ ghi hàng chữ ‘nhà Nguyễn có nhiệm vụ diệt Trịnh phù Lê’”.

Đoạn văn trên cho thấy rằng vào năm 1786, một lần nữa, nhà Tây Sơn nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa họ với các chúa Nguyễn, coi như những người này từng có một kinh đô chính trị ở phía bắc. Ngoài ra, một giáo sĩ Pháp còn ghi chép rằng trong thời gian diễn ra các chiến dịch của nhà Tây Sơn, tiếng đồn loan truyền là chúa Nguyễn sắp đến, làm ra vẻ như quân Tây Sơn là một đạo quân của chúa Nguyễn. Có nhiều khả năng các lãnh tụ Tây Sơn tìm cách làm cho mọi người tin rằng chính họ là nhà Nguyễn khi trước đến để cứu giúp nhà Lê. Cho dù có thể người dân phía bắc có đôi chút ác cảm với chúa Nguyễn, nhưng sẽ có lý khi cho rằng họ sẽ chào đón các chúa Nguyễn hơn là chào đón những nông dân nổi dậy được đại diện bởi nhà Tây Sơn.

Cho dù sử dụng chiêu bài nào để biện minh cho việc tiến quân ra bắc, Nguyễn Huệ cũng đã đưa quân đội của ông vào một chiến dịch rất có hiệu quả chỉ kéo dài mấy tuần lễ. Một lần nữa, quân Tây Sơn chỉ phải đối phó với sự kháng cự yếu ớt của quân Trịnh, nạn đói kèm theo những cuộc đấu tranh chính tỏ nội bộ tại kinh đô đã làm giảm thiểu khả năng tổ chức một cuộc phòng thủ thích đáng. Vì thế, quân Tây Sơn đã vào thành Thăng Long ngày 21.7.1786 mà không gặp một sự kháng cự nào, chúa Trịnh đã chạy khỏi kinh thành. Khi đã vào hoàng thành, Nguyễn Huệ kiên định với lời hứa phục hồi địa vị của vua Lê. Ông thu xếp một cuộc bệ kiến và long trọng trao trả lại quyền hành cho vua Lê Cảnh Hưng*. Bù lại, vua Lê ban tước vị cho lãnh tụ Tây Sơn bao gồm tước rất cao là Đại Nguyên Soái Uy Quốc Công. Việc ban danh hiệu Đại Nguyên Soái là một hành động có ý nghĩa đặc biệt, bởi vì đây chính là danh hiệu mà các chúa Trịnh nắm giữ, và điều đó có ngụ ý là Nguyễn Huệ được vua Lê coi như người đã thay thế chúa Trịnh*. Có nhiều khả năng vua Lê coi việc nhà Tây Sơn trao quyền độc lập chính trị cho mình là một mưu mẹo và cho rằng hiện trạng sẽ được khôi phục, với nhà Tây Sơn đang giữ vai trò của chúa Trịnh đã bị trục xuất khỏi kinh thành.

Cho dù được vua Lê chào đón và ban tước vị, Nguyễn Huệ tỏ vẻ không hài lòng và thậm chí còn cảm thấy bị hạ nhục khi nhận như thế. Ông đã gián tiếp phàn nàn điều này với người tâm phúc là Nguyễn Hữu Chỉnh:

“Ta đã mang hàng chục ngàn quân, đánh chỉ một trận mà bình định cả vùng phía bắc sông Gianh. Từng tấc đất, từng con người ở đây đều là của ta, nếu ta muốn xưng đế, xưng vương, có gì cản được ta đâu. Về cái chỉ dụ cử ta làm Nguyên Soái Uy Quốc Công, đó có phải là điều quan trọng với ta không? Phải chăng người phương Bắc muốn dùng danh hiệu anh hùng để lung lạc ta? Ông có nghĩ rằng ta là kẻ mọi rợ nhận ngay lấy những danh vị này và coi đó là đủ danh dự và vinh quang cho ta rồi!"*.

Không thỏa mãn với những tước vị đó, lãnh tụ Tây Sơn tìm kiếm một phần thưởng lớn lao hơn. Điều đặc biệt là ông đã hỏi cưới cô công chúa triều Lê*. Không có cớ từ chối, vua Lê chịu gả cho Nguyễn Huệ cô con gái cưng của mình là công chúa Ngọc Hân.

Cũng giống như việc ban chức Đại Nguyên Soái, chuyện hôn nhân vua Lê chấp thuận cũng là sự tiếp nối mô thức đã được thiết lập trong mối quan hệ cộng sinh lâu dài giữa vua Lê và chúa Trịnh, thường là những cuộc hôn nhân giữa các công chúa triều Lê với người trong dòng họ Trịnh. Các chúa Trịnh thường cưới công chúa nhà Lê để cho mối quan hệ với hoàng tộc nhà Lê được luôn mới mẻ và sâu sắc. Bằng cách thâm nhập triều đình nhà Lê qua hôn nhân, anh em nhà Tây Sơn làm theo cách của các chúa Trịnh mà họ đã loại trừ và mở rộng mối quan hệ với những người cầm quyền chính trị. Trước tiên, Nguyễn Nhạc mưu toan một cuộc hôn nhân cưỡng bách giữa con gái ông ta và vị Thế tử trẻ tuổi của nhà Nguyễn*, và giờ đây, người em trai của ông đi theo một tiến trình tương tự, cho dù trong những tình huống có khác đôi chút. Bằng cách dàn xếp mối liên kết với nhà Lê qua hôn nhân, chỉ sau hơn 10 năm một chút, anh em Tây Sơn đã thiết lập hay mưu toan thiết lập mối quan hệ chính trị hoặc gia tộc với những nhà cầm quyền vào thời kỳ này, và thậm chí trong trường hợp người Chăm, họ còn loại bỏ các chính quyền địa phương. Thêm vào đó, như đã ghi trước đây, cuộc hôn nhân giữa Nguyễn Huệ và Ngọc Hân gợi nhớ lại cuộc hôn nhân vào thế kỷ XIV giữa vua Chăm Chế Bồng Nga và một bà công chúa Việt khác*. Một lần nữa, một nhân vật chính trị-quân sự phía nam đến từ một căn cứ trên lãnh thổ Chăm và đã được an ủi bằng cách được lấy một nàng công chúa.

Sau khi đã làm rể trong gia đình hoàng tộc phía bắc, Nguyễn Huệ sớm bị lôi cuốn vào các vấn đề chính trị trong triều khi vua Lê già nua qua đời chỉ mấy ngày sau lần tiếp kiến vị lãnh tụ Tây Sơn. Đã có những cuộc tranh cãi trong triều về việc nên chọn ai kế vị ngai vàng, vì không có một người thừa kế trực tiếp nào bên nam giới. Nguyễn Huệ trực tiếp tham gia vào cuộc bàn cãi về ai sẽ là người kế vị tốt nhất của vua Cảnh Hưng và cuối cùng chọn người cháu của vua là Lê Mân Đế lên ngôi với niên hiệu Chiêu Thống*, Mặc dù người cháu này là ứng viên hàng đầu, song ông ta còn khá trẻ* không có nhiều hiểu biết về chính trị hơn người tiền nhiệm, nên ông dễ bị lôi kéo bởi những nhân vật chính trị quyền uy hơn. Chưa đầy 6 tháng sau, ông ta đã phải nhờ sự che chở của những người còn sót lại của dòng họ Trịnh*.

II.8.2. Một cuộc tranh cãi: Sự chia rẽ trong hàng ngũ Tây Sơn

Với sự phục hưng triều đại nhà Lê và việc kế vị đã được sắp xếp xong, có vẻ như Nguyễn Huệ đã củng cố chặt chẽ quyền hành của nhà Tây Sơn trên dải đất trải dài từ Hà Tiên ở vịnh Xiêm La đến biên giới Trung Quốc. Ngược lại, hành động của ông ở miền Bắc đã đánh dấu sự khỏi đầu mối bất hòa công khai về chính trị bên trong hàng ngũ nhà Tây Sơn. Hai yếu tố góp phần tạo ra sự nứt rạn này. Trước tiên là sự thách thức công khai của Nguyễn Huệ đối với quyền hành chính trị của người anh. Trong lúc đây không phải là lần đầu tiên Huệ thách thức mệnh lệnh của Nhạc, đây là sự vi phạm hiển nhiên nhất đối với chính quyền khởi thủy từ Qui Nhơn. Cho dù Huệ có gửi một thư thông báo cho người anh ý định đẩy chiến dịch đi xa hơn và tấn công Thăng Long, song ông đã không chờ được trả lời trước khi bắt đầu cuộc tấn công.

Yếu tố thứ hai góp phần vào sự căng thẳng giữa hai anh em đơn giản là lãnh thổ nằm dưới ảnh hưởng của nhà Tây Sơn đã tăng lên hơn gấp đôi trong một sớm một chiều. Vì thế, lãnh thổ này trở thành dải đất rộng lớn nhất chưa từng được một chính quyền đơn độc nào kiểm soát, nó cũng trở nên khó cai trị hơn rất nhiều. Trong lúc Nguyễn Huệ chính thức chuyển giao quyền lực ở phía bắc cho nhà Lê, ông tiếp tục quan tâm vào những công việc ở vùng này, đặc biệt trong vùng đất quan trọng là Nghệ An, mà Huệ đã chiếm lấy từ triều đình nhà Lê và đặt nó dưới quyền hạn của mình. Do hậu quả của việc Nguyễn Huệ tấn công ra Đàng Ngoài, sức mạnh chính trị của nhà Tây Sơn bị kéo dãn ra, đặc biệt khi xét đến khoảng cách tương đối xa giữa Qui Nhơn với phần lãnh thổ ở phía bắc đèo Hải Vân.

Nguyễn Nhạc phản ứng lại loạt diễn biến này theo hai cách. Trước tiên, sau khi nhận được thư của Huệ vào giữa tháng 8, Nhạc lập tức tập hợp một đạo quân nhỏ và chạy vội ra bắc để kéo người em về. Sau khi trải qua 4 ngày ở Bắc hà, và bệ kiến tân hoàng đế nhà Lê, Nhạc đưa Huệ cùng đạo quân hỗn hợp xuôi về nam vào cuối tháng 8. Họ để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại, bề ngoài là để coi sóc những quyền lợi của họ ở Nghệ An, cho dù lúc đó có sự suy đoán rằng ông ta bị bỏ rơi bởi những người từng một thời liên kết với ông ta. Thứ đến, để đáp ứng với sự mở rộng việc kiểm soát lãnh thổ - và có lẽ cũng nhằm làm rõ mối quan hệ giữa ông ta và người em - Nhạc phân chia lãnh thổ giữa các anh em. Như đã đề cập ở trên, ông ta phong cho Nguyễn Huệ tước Bắc Bình vương, và giao cho nhiệm vụ trấn giữ đất Thuận Hóa, phần lãnh thổ mà Huệ vừa lấy lại từ quân Trịnh, và Nghệ An, do Huệ chiếm giữ của nhà Lê. Nhạc vẫn còn giữ cương vị Thái Đức hoàng đế, thêm vào danh nghĩa Trung ương Hoàng đế, xác định quyền kiểm soát toàn bộ xứ Quảng Nam, ngoại trừ vùng Gia Định. Vùng đất quan trọng ở phía nam được ông ta giao cho một người em khác là Nguyễn Văn Lữ, với tước Đông Định Vương. Vì vậy, chuỗi sự kiện bắt đầu vào năm 1786 đã đưa lãnh thổ nước Đại Việt vào một tình trạng qua phân về chính trị (thậm chí còn nặng nề hơn thời kỳ Trịnh- Nguyễn phân tranh).

Mối quan hệ chính trị về sau giữa ba anh em nhà Tây Sơn không được các nguồn tư liệu đương thời mô tả rõ ràng, về mặt kỹ thuật, chỉ có một hoàng đế thống trị toàn bộ lãnh thổ từ Nghệ An trở vào, là Nguyễn Nhạc. Từ những tài liệu chính thức được soạn thảo trong thời kỳ Nguyễn Huệ trị vì, chúng ta biết rằng ông vẫn tiếp tục công nhận người anh của ông là Thái Đức hoàng đế. Có vẻ như mối quan hệ chính trị giữa hai anh em cũng tương tự như mối quan hệ tồn tại dưới thời vua Lê, trong quan hệ với chúa Trịnh. Vua Lê từng là người đứng đầu triều đình trên danh nghĩa, với danh hiệu hoàng đế, trong khi chúa Trịnh nhận tước vương. Cho dù bản chất thật của mối quan hệ tồn tại giữa ba anh em Tây Sơn như thế nào, thực tế cho thấy có ba gương mặt chính trị cao cấp đang kiểm soát một lãnh thổ gồm phần lớn nước Đại Việt. Tuy nhiên, sự phân chia trách nhiệm về chính trị không triệt tiêu được sự thù địch ngày càng dâng cao giữa các anh em, và vào đầu năm 1787, Huệ và Nhạc lâm vào một cuộc nội chiến. Một vài tài liệu cho rằng Huệ giận dữ vì đã không được chia phần thích đáng từ những gì đã tranh thủ được trong các chiến dịch đánh ra phía bắc. Các tài liệu khác thì cho rằng Huệ cảm thấy bị sỉ nhục do Nhạc đã ngủ với một trong những người vợ của ông. Dù với lý do nào, chiến tranh cũng đã bùng nổ giữa hai anh em, lên đến đỉnh điểm khi Huệ tập hợp một đạo quân lên đến hơn 80.000 binh sĩ vây hãm thành Chà Bàn. Sau ba tháng bị vây hãm, cuối cùng thì Nhạc đã đầu hàng người em của mình. Điều kiện đầu hàng làm phức tạp thêm sự phân chia lãnh thổ giữa các anh em Tây Sơn, khi Nhạc nhượng hai huyện ở phía bắc Quảng Nam cho Huệ. Nó tạo nên một hình thể vụng về về mặt địa lý khi lãnh thổ của Huệ chồm qua hai bên đèo Hải Vân vốn từ lâu được xem như một đường ranh thiên nhiên chia đôi hai vùng đất về mặt địa lý. Mặt khác, nó tạo điều kiện cho Huệ mở rộng việc kiểm soát vùng Quảng Nam cùng tiềm năng tiếp cận những vùng đất xa hơn về phía nam.

Sự bất hòa giữa hai anh em tiếp tục dưới những hình thức tinh vi hơn sau khi cuộc xung đột công khai được giải quyết xong, và biểu lộ qua những nỗ lực của Nguyễn Huệ nhằm đảm bảo quyền lực của ông trên lãnh thổ miền Bắc. Trong lúc Huệ bị Nhạc kéo về nam vào cuối mùa hè năm 1786 và ở lại Phú Xuân thì Nguyễn Hữu Chỉnh bị bỏ lại ở Bắc hà và quyết định ở lại Nghệ An, tiếng là để bảo vệ quyền lợi của nhà Tây Sơn ở đây. Vì thế, khi một người còn sót lại của dòng họ Trịnh mưu toan tái lập quyền thống trị về chính trị của dòng họ Trịnh vào cuối năm 1786, chính Chỉnh là người ở gần mà vua Lê đã vời đến để giúp ông chống lại thách thức này. Khi đã quay về bắc, Chỉnh bắt đầu thể hiện quyền lực đối với vua Lê, trực tiếp đụng chạm đến các tuyên ngôn về chính trị của Nguyễn Huệ. Trước đây Huệ đã nhìn Chỉnh bằng con mắt hoài nghi do tầm vóc và ảnh hưởng đáng kể của ông ta ở Đàng Ngoài. Có lẽ điều cũng quan trọng là Huệ coi Chỉnh như một đồng minh thân cận của Nhạc, vì chính Nhạc là người đã phát triển mối quan hệ chặt chẽ với kẻ đã phản bội chúa Trịnh vào giữa những năm 1782-1786*. Trên phương diện này, quyết định của Huệ tước bỏ quyền lực của Chỉnh vào mùa hè năm 1787 có thể coi như một mưu toan gián tiếp làm giảm thiểu ảnh hưởng của Nhạc trên đất Bắc*. Quân đội của Huệ một lần nữa trở ra Bắc để truy bắt Chỉnh và cuối cùng họ bắt được ông ta và chém đầu vào cuối năm 1787, trong khi vua Lê, người đang dựa vào sự hỗ trợ của Chỉnh, đã rời khỏi kinh thành và đang đi trốn.

Người được cử thay mặt nhà Tây Sơn để giám sát một đất bắc không có người lãnh đạo là Võ Văn Nhậm, vốn là em rể của Nhạc*, đang là một viên tướng cao cấp trong quân đội Tây Sơn. Khi vừa ra đến Thăng Long, Nhậm đã phải đối mặt với một tình hình chính trị rối ren khi nhiều phần tử trung thành với vua Lê- chúa Trịnh đang tìm cách tổ chức quân đội để chiếm lại kinh thành. Việc hành xử quyền lực chính trị một cách nặng tay của Nhậm ở phía bắc làm dấy lên sự bất mãn của quần chúng và tiếng đồn đến tai Nguyễn Huệ ở Phú Xuân*. Huệ nhanh chóng quyết định hành động, một phần để dập tắt nguồn gốc gây ra nỗi bất hạnh cho người dân, phần khác nhằm loại bỏ một người đang nổi lên như một đối thủ chính trị tiềm tàng của Huệ. Mùa xuân năm 1788, Huệ dẫn quân ra Bắc và xử tử Nhậm như đã xử Chỉnh trước đó. Khử Nhậm, Huệ đã tiến thêm một bước trong việc làm giảm thiểu ảnh hưởng có thật hoặc trong tưởng tượng của Nguyễn Nhạc ở phương Bắc*. Việc Huệ diệt những người này không chỉ được thúc đẩy bởi mưu toan làm giảm thiểu ảnh hưởng của Nhạc ở phương Bắc, mà sự kiện này còn cần được coi là một phần trong tính toán của Huệ khi áp dụng những biện pháp đó. Với việc vua Lê trốn đi và hai tướng cũ của nhà Tây Sơn bị Nguyễn Huệ trừ khử, khu vực Bắc hà nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của lãnh tụ Tây Sơn ở phía bắc. Rồi trước khi quay về Phú Xuân, Huệ tuyển dụng một nhóm nhân sĩ rất được trọng vọng ở Bắc hà để trông coi vùng này với sự hỗ trợ của lực lượng Tây Sơn.

II.9. SỰ XÂM LĂNG CỦA QUÂN TÀU VÀ CÁC HẬU QUẢ

Trong lúc sự phân hóa trong nội bộ nhà Tây Sơn đang phát triển, thì lại dấy lên mối quan tâm từ bên ngoài khi Trung Quốc bị lôi cuốn vào cuộc tranh giành quyền lực chính trị. Năm 1787, khi Nguyễn Huệ tiến ra Bắc để loại trừ Chỉnh, vua Lê Chiêu Thống chạy khỏi Thăng Long. Sau một thời gian lưu lạc trong nước và thất bại trong việc kêu gọi sự ủng hộ để ông ta trở lại ngai vàng, vua Chiêu Thống vượt qua biên giới đi vào đất Tàu, xin triều đình nhà Thanh ủng hộ. Vua Càn Long nhà Thanh được thúc giục bởi Tôn Sĩ Nghị, một tổng đốc nhiều tham vọng tại các tỉnh phía nam Trung Hoa, ở biên giới Đại Việt, đã chuẩn y đề nghị của ông ta. Tháng 11.1788, một đạo quân Trung Quốc hùng hậu bắt đầu tràn qua Đại Việt để ủng hộ vua Lê*. Viên tướng chỉ huy đạo quân Tây Sơn đóng quân ở phía bắc cho rằng thật là điên rồ và dại dột khị chống lại cuộc xâm lược qui mô lớn của đạo quân phương Bắc nên lui quân về phía nam, đóng ở các dãy núi đá vôi và các hang động ở Tam Điệp nằm giữa trung tâm Thanh Hóa.

Từ một vị trí chiếm nhiều lợi thế ở Phú Xuân, kinh đô cũ của nhà Nguyễn, Nguyễn Huệ kết luận rằng cách tốt nhất để hợp nhất lực lượng quân sự của ông với người dân nói chung nhằm tiến hành một cuộc tấn công quân nhà Thanh là tự xưng hoàng đế, cương vị mà theo ông, vua Lê đã từ bỏ khi trốn sang Tàu. Cuối cùng, vào ngày 22.12.1788, Nguyễn Huệ làm lễ đăng quang tại cố đô của nhà Nguyễn, ban bố chỉ dụ tuyên xưng hoàng đế với niên hiệu Quang Trung và giải thích về quyết định lên ngôi của ông. Ông viết trong chỉ dụ: “ta khởi phục quyền lực cho triều Lê, nhưng thay vì trông nom việc nước, (nhà vua) đã chạy ra ngoài nước xin che chở. Nhân sĩ và dân chúng phương Bắc không còn quý trọng nhà Lê nữa. Họ chi tin cậy vào ta". Qua việc Huệ bước lên ngai vàng với danh nghĩa Quang Trung hoàng đế, lúc bấy giờ có đến hai vua Tây Sơn cai trị một dải đất trải dài từ ranh giới Gia Định cho đến Nghệ An*.

Vào thời điểm này, những rối rắm về quyền lực chính trị ở Đại Việt đã lên đến đỉnh điểm. Vua Lê Chiêu Thống vẫn tự coi mình là hoàng đế Đại việt, vẫn còn có một nhóm người trung thành đi theo, cũng sắp được đội quân xâm lăng hùng hậu của nhà Thanh đưa trở lại ngai vàng. Ở phía nam của vua Chiêu Thống là Nguyễn Huệ, đang cai trị với niên hiệu Quang Trung hoàng đế, đang kiểm soát về mặt chính trị phần lãnh thổ trải dài từ biên giới Việt-Trung đến phần trên của xứ Quảng Nam. Ở phía nam vùng đất của Huệ là lãnh thổ của Thái Đức hoàng đế Nguyễn Nhạc, cai trị vùng đất phía nam cho đến ranh của vùng Gia Định*. Và cuối cùng, xa hơn về phía nam là dinh lũy Gia Định do Nguyễn Lữ kiểm soát đến năm 1787, đang nằm trong tay quân đội của người còn sót lại của dòng họ Nguyễn là Nguyễn Ánh. Để tỏ ra trung thành với nhà Lê, Ánh vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng của vì vua Lê quá cố trong các văn kiện chính thức ban hành*. Như vậy, trong tình hình lúc đó, có đến 4 gương mặt chính trị tự xưng (hoặc được hiểu như) hoàng đế trên một lãnh thổ mà vào năm 1778 chỉ có một.

Quân đội nhà Thanh nhanh chóng tiến vào Đại Việt lúc đó đang bị chia rẽ về mặt chính trị và vào thành Thăng Long ngày 17.12.1788, tại đây, họ đưa vua Lê Chiêu Thống trở lại ngai vàng như là hoàng đế của lãnh thổ Đại Việt. Tuy nhiên, ông vua Đại Việt này trên thực tế chỉ là một kẻ bị cầm tù trong chính cung điện của mình, bị giám sát chặt chẽ bởi tướng nhà Thanh. Ông không thể đi ra ngoài cung điện nếu không được phép, cũng không thể ban bố các chỉ dụ nhân danh mình. Quân Thanh buộc Chiêu Thống phải sử dụng niên hiệu của hoàng đế nhà Thanh trong các văn kiện do triều đình ban ra, và sự sỉ nhục này gia tăng đến mức họ nhất định buộc ông phải sử dụng đồng tiền của họ có khắc niên hiệu của hoàng đế nhà Thanh thay vì sử dụng tiền riêng của xứ sở. Song chuyện này không tồn tại lâu.

Sau khi tự xưng hoàng đế vào cuối tháng 11, Nguyễn Huệ nhanh chóng tập hợp khoảng 20.000 quân tiến thẳng ra Bắc. Ông ban bố một lời kêu gọi quân sĩ, gợi lại ký ức lịch sử về những người đi trước từng chống lại những đạo quân Tàu xâm lăng hùng hậu:

“Dưới thời Hán, có Hai Bà Trưng. Thời Tống có Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Thời Nguyên Mông có Trần Hưng Đạo. Thời Minh có Lê Thái Tổ, người sáng lập triều đại hiện nay.

Những vị anh hùng này không thể ngồi yên nhìn kẻ thù ngang nhiên dùng bạo lực và tàn ác với dân mình. Họ đã nghe theo ý nguyện của dân và giương cao lá cờ chính nghĩa”*.

Rõ ràng là vua Quang Trung tự xếp mình vào hàng ngũ những bậc anh hùng kia và ám chỉ rằng cuộc tấn công của ông vào quân Thanh cũng sẽ thắng lợi như thế. Lợi dụng lúc sắp đến ngày Tết nguyên đán, vị lãnh tụ Tây Sơn tính toán sao cho cuộc tấn công của ông trùng với ngày lễ tết. Ông suy luận chính xác rằng quân Thanh sẽ vui tết và sẽ không phòng bị trước cuộc tấn công của quân Tây Sơn, vốn đã để cho quân Thanh thấy họ rút lui trước đạo quân hùng hậu đến từ phương Bắc. Vua Quang Trung tập hợp đạo quân của mình lại và hứa với họ là việc mừng lễ tết của họ sẽ chỉ hoãn lại vài ngày và ngày mùng 7, họ sẽ vui tết trong thành Thăng Long. Vì vậy, vào những ngày đầu năm âm lịch (tháng 1-2 năm 1789), vua Quang Trung tổ chức một cuộc tấn công nhanh chóng tiêu diệt đạo quân Thanh không phòng bị. Hàng ngàn quân Thanh bị tiêu diệt trong ngày đầu của cuộc tấn công, phần lớn những kẻ còn lại bỏ chạy tán loạn, trong đó có nhiều tướng nhà Thanh. Bản thân vua Lê cũng bỏ chạy khi tin tức về cuộc tấn công đến tai ông, và ông nhanh chóng đi theo lộ trình sang Tàu. Như vị tư lệnh đã hứa, quân đội Tây Sơn vào thành Thăng Long sau chưa đầy 7 ngày.

II.10. QUANG TRUNG CỦNG CỐ QUYỀN LỰC

Sau khi đã tự xưng hoàng đế trên lãnh thổ cũ của nhà Lê và đánh đuổi quân Thanh, Nguyễn Huệ đang ở vào một tư thế có thể củng cố hơn nữa quyền hạn của ông. Ông đã làm điều đó theo nhiều cách khác nhau - khôi phục mối quan hệ chặt chẽ với triều đình Trung Hoa, đặt nền tảng cho một trung tâm chính trị ở Nghệ An, và giành lấy sự ủng hộ và công nhận của giới nho sĩ có uy tín ở Bắc hà.

II.10.1. Tranh thủ sự công nhận của nhà Thanh

Một mặt, việc vua Quang Trung đánh bại quân Thanh là lời tuyên bố mạnh mẽ về tính hợp pháp về chính trị, vì sự bảo vệ đất nước chống lại quân xâm lược tạo được một tiếng vang rất lớn trong dân chúng cũng như trong các thành phần xã hội ưu tú liên quan đến việc tạo ra một thể chế chính trị. Trong lời phát biểu với đạo quân Tây Sơn trước khi mở cuộc tấn công quân Thanh, vua Quang Trung dẫn chứng hàng loạt những nhân vật anh hùng đã đi trước ông trong việc đánh bại quân phương Bắc. Một hành động như thế có lẽ là một nguồn lực mạnh mẽ nhất của sự hợp pháp hóa về mặt chính trị giúp khẳng định quyền lực ở Đại Việt. Mặt khác, và điều này có vẻ như là một sự nghịch lý, trong lúc việc đánh bại quân Thanh là một hình thức hợp pháp hóa có sức tác động mạnh mẽ trong nước, thì việc xoa dịu họ sau một thất bại như thế và nhận sự tuyên phong của triều đình Trung Hoa cũng là một hình thức công nhận về mặt chính trị không kém phần quan trọng. Đó cũng là trường hợp xảy ra từ những ngày đầu độc lập của nước Đại Cồ Việt vào thế kỷ X, sự giao hảo với triều đình phương Bắc là một điều tối cần thiết nhằm tự phòng bị trước khả năng người Trung Hoa có thể thực hiện các tham vọng quân sự mới.

Sau đợt rút quân ban đầu của người Thanh, vua Quang Trung thận trọng để không làm nhục họ một cách không cần thiết, ông đối xử tốt với những binh lính nhà Thanh bị bắt giữ và thu xếp cho họ về nước ngay, ông cũng bắt đầu trao đổi nhiều thư từ với người Trung Hoa (ông sử dụng danh sĩ Ngô Thì Nhậm như người bình bút riêng cho mình), trong đó, ông bày tỏ mong muốn khôi phục sự hòa hợp giữa hai nước và bắt đầu bình thường hóa các tương tác về ngoại giao và kinh tế*. Để đổi lại sự hợp tác của ông, vua Quang Trung yêu cầu nhà Thanh công nhận ông là vị vua hợp pháp của Đại Việt. Hoàng đế nhà Thanh có thể chọn cách tri hoãn việc ban vương hiệu cho ông và cố gắng tổ chức một cuộc xâm lăng lần thứ hai nhằm ủng hộ vua Lê. Song ông đã chọn cách đồng ý với yêu cầu của nhà vua Tây Sơn. Triều đình nhà Thanh cử một sứ bộ đến nước láng giềng phương Nam chính thức công nhận Nguyễn Huệ là người lãnh đạo nước "An Nam” - phong ông danh hiệu theo truyền thống của người Trung Hoa là An Nam Quốc Vương. Nhà Thanh sau đó còn công nhận Nguyễn Quang Toản, con trai của vua Quang Trung, là hoàng thái tử, người sẽ nối ngôi vua.

Sự công nhận này được tiến hành với sự thỏa thuận là tân vương nước Đại Việt sau đó sẽ thăm viếng triều đình Trung Hoa. Trước đây, chưa có một hoàng đế Đại Việt nào thực hiện một chuyến đi như thế, và vua Quang Trung cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, vào năm 1790, ông cử một sứ bộ sang nhà Thanh, với một người giống như ông đi thay. Hoàng đế nhà Thanh cảm thấy hài lòng với cuộc thăm viếng này, cư xử tốt với đoàn tùy tùng của Quang Trung. Mưu chước đó phản ánh nỗ lực của vua Quang Trung nhằm giữ một khoảng cách với người Trung Hoa, ngay khi ông tìm cách xoa dịu họ. Chẳng những vị hoàng đế Đại Việt không đi đến triều đình nhà Thanh, ông còn không bao giờ gặp bất cứ một sứ giả Trung Hoa nào đi đến vương quốc của ông. Thay vào đó, cử người đại diện tiếp họ, qua nhiều công văn, ông than phiền là hoàn cảnh chính trị hoặc những điều kiện di chuyển không thuận lợi trên đường từ Phú Xuân ra Thăng Long khiến cho ông không thể đích thân tiếp họ. Thật vậy, việc Quang Trung tiếp tục ở Phú Xuân là lý do thuận lợi để duy trì một khoảng cách vật chất với người Trung Hoa, ngay khi ông có thể kiểm soát lãnh thổ của mình ở khu vực miền Trung Đại Việt.

II.10.2. Xây dựng kinh đô mới: Phượng Hoàng Trung Đô

Sau khi đánh bại quân Thanh, Quang Trung là vị hoàng đế cai trị một lãnh thổ trải dài từ biên giới Trung Hoa về phía nam qua đèo Hải Vân. Điều này phù hợp với việc mở rộng chính quyền Lê-Trịnh lúc đỉnh điểm diễn ra vào năm 1775, khi cuộc tiến công của quân Trịnh được đẩy đi xa nhất*. Khi vua Quang Trung mở rộng lãnh địa của mình, ông không còn tập trung sự chú ý về phía nam - trung tâm Qui Nhơn do người anh kiểm soát - mà về toàn bộ lãnh thổ mới mẻ và phức tạp bao gồm kinh đô Thăng Long cũ của nhà Lê và cố đô Phú Xuân của nhà Nguyễn. Mặc dù ông đã bắt đầu đóng đô ở Phú Xuân, nơi ông tái thiết các đồn lũy và xây dựng cung điện riêng, ông vẫn quyết định là tốt hơn hết nên thiết lập một kinh đô hoàn toàn mới, nằm ở gần trung tâm của dải đất đang do ông kiểm soát. Nhận thức được nhu cầu tập trung căn cứ của mình, không có gì đáng ngạc nhiên khi ông chọn Nghệ An, nằm gần cách đều với hai trung tâm trên*, làm nơi xây dựng một kinh đô to lớn mới lấy tên là Phượng Hoàng Trung Đồ. Đó sẽ là kinh đô trung tâm, đưa hai kinh đô cũ của nhà Lê và nhà Nguyễn xuống hàng thứ yếu.

Nghệ An không đơn thuần là một vị trí thuận lợi về mặt địa lý, đối với nhà Tây Sơn, nó còn có sức thu hút mạnh mẽ về mặt tâm linh, vì đây chính là nơi tổ tiên của họ đã đặt chân đến từ thế kỷ XVII Mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn và đất Nghệ An về sau được một nho sĩ Bắc hà là Bùi Dương Lịch miêu tả như sau:

“Nhà Tây Sơn truyền đạt cho ấp Thái Lão (huyện Hưng Nguyên) dựng lên một ngôi đền thờ tổ tiên của họ để thờ cúng tại đây, bởi vì theo hồ sơ nhân khẩu, ấp Thái Lão nằm trong huyện Hưng Nguyên là quê nhà của tổ tiên của họ. Trong quá khứ, tổ tiên của họ đã đi lính ở phía nam, đóng tại Qui Nhơn. Năm đó, Nguyễn Huệ đã đánh chiếm miền Bắc, thắng trận và quay về Nghệ An”.

Vì thế, việc vua Quang Trung đóng đô ở Nghệ An sẽ được coi như ông quay về quê hương của tổ tiên. Một kinh đô ở Nghệ An sẽ tạo nên một trung tâm chính trị cũng như tinh thần của chế độ mới. Ông đã có những nỗ lực đáng kể trong việc xây dựng đền miếu cho tổ tiên trong vùng, mô phỏng truyền thống thờ cúng tổ tiên của hoàng tộc nhà Lê, cũng như của những dòng họ ít quyền thế hơn.

Mặc dù cái Phượng Hoàng Trung Đô do vua Quang Trung hoạch định đã không bao giờ hoàn thành, song ông cũng đã vạch ra những dự án lớn lao cho trung tâm chính trị mới của mình. Thành trì được xây dựng trên một con sông mà bên ngoài là thành phố Vinh ngày nay, với một đài chỉ huy có thể quan sát nhiều con sông và các dãy núi gần đó. Nó được thiết kế trên một qui mô rất lớn, biểu lộ quá những mảnh tường ngoài còn sót lại cao 20m và cho thấy có một cấu trúc rộng 300m và dài 450m2. Do kinh đô này chưa hoàn thành lúc sinh thời của ông, vua Quang Trung tiếp tục đóng đô ở Phú Xuân, song rõ ràng là ông coi đó như trung tâm cuối cùng của triều đại của ông, vào lúc ấy cũng như trong tương lai. Được nghe kể rằng trong phút lâm chung của ông vào năm 1792, ông đã khuyên nhủ con trai là Nguyễn Quang Toản phải coi Nghệ An chứ không phải Phú Xuân là nền tảng của triều đại của ông này.

II.10.3. Quang Trung và các sĩ phu Đàng Ngoài

Một thành phần thứ ba trong tiến trình củng cố chính trị của vua Quang Trung bao gồm việc thể hiện thiện ý của ông đối với cộng đồng các sĩ phu Bắc hà. Với ông, những sĩ phu này tiêu biểu cho nhiều thứ. Trước tiên, sự ủng hộ hoặc đồng tình của họ dành cho ông sẽ là một hình thức hợp pháp hóa cần thiết đối với vị lãnh tụ Tây Sơn. Trong con mắt những nho sĩ này, tính hợp pháp rất quan trọng, bởi vì tầm cỡ của họ trong xã hội có thể giúp thuyết phục đông đảo quần chúng đi theo nhà Tây Sơn. Bằng vào mối quan hệ của họ với khu vực nông thôn, một khi các nho sĩ chịu phụng sự cho nhà Tây Sơn, người dân ở các huyện họ cư ngụ có thể cũng ủng hộ chế độ mới. Thứ đến, vị hoàng đế Tây Sơn cần những người này làm quan cai trị các lãnh địa mới được chiếm giữ và làm sứ thần sang Trung Hoa, nhất là sau khi đã đánh bại quân nhà Thanh. Cuối cùng, vua Quang Trung cần giới sĩ phu ở sự hiểu biết của họ về phương Bắc, với những vấn đề của nó, cùng cư dân trong vùng. Đây là một vùng đất mà các lãnh tụ Tây Sơn không nắm rõ, do họ đến từ vùng đất phía nam xa xôi. Như một hệ quả của nhu cầu được sự ủng hộ về nhiều mặt của giới sĩ phu, có vẻ như Nguyễn Huệ chịu nhiều ảnh hưởng của họ, thường xuyên làm theo những tri thức của họ và triết lý hiện hành.

Vua Quang Trung tuyển dụng những nho sĩ này theo nhiều cách khác nhau, trong đó có việc ban Chiếu Tìm Hiền Tài năm 1789 (?) nhắm trực tiếp vào những nho sĩ sống trong lãnh địa mới của ông. Vị hoàng đế cũng sử dụng những cách tiếp cận trực tiếp hơn nữa (và hiệu quả hơn), chẳng hạn như nhờ những người đã tham gia vào chế độ mới tuyển mộ bạn bè hay người ngang hàng với họ. Vị hoàng đế Tây Sơn nhận thấy rằng cách dễ dàng nhất để có được sự ủng hộ của kẻ sĩ Bắc hà là tranh thủ được sự hỗ trợ của vài gương mặt tiêu biểu, từ đó dẫn đến những người khác thông qua mối quan hệ cá nhân và nghề nghiệp của họ với nhau. Điều này chứng tỏ rất có hiệu quả vì kẻ sĩ Bắc hà đã hình thành một cộng đồng vô cùng gắn bó với nhau. Nhiều người trong số họ quan hệ với nhau qua hôn nhân, học chung trường, hoặc trở thành bè bạn khi đi thi hoặc trong lúc phục vụ các nhiệm sở khác nhau*. Trong nhóm những người kết nối chặt chẽ với nhau này, có nhiều sĩ phu Bắc hà quan trọng bậc nhất trong thế hệ của họ, là những người mà hoàng đế Tây Sơn hi vọng nhiều nhất vào việc lôi kéo họ vào guồng máy của ông. Nếu một trong những sĩ phu này bị phía đối nghịch tuyển dụng thì sẽ có nhiều khả năng những người có quan hệ với ông ta cũng bị thu phục.

Trong nhóm sĩ phu Bắc hà cốt cán, nhiều người tỏ ra đặc biệt quan trọng có thể góp phần vào nỗ lực tuyển dụng những người của vua Quang Trung. Trần Văn Kỷ(1740?-1801) là nhân vật quan trọng trong nỗ lực tuyển mộ của vua Quang Trung và sự ủng hộ của gần như toàn bộ các sĩ phu Bắc hà cốt cán có thể xuất phát từ nỗ lực trực tiếp hay gián tiếp của ông ta. Kỷ sắp xếp giới thiệu cho Nguyễn Huệ nhiều nhân sĩ nổi tiếng trong đó có Nguyễn Thiếp, một nhân sĩ được nhiều người biết tiếng nhưng sống ẩn dật ở Nghệ An, và sau đó là Ngô Thì Nhậm. Nhậm có mối quan hệ với nhiều sĩ phu Bắc hà quan trọng do có một thời gian dài ông ta phục vụ dưới trướng chúa Trịnh, thuộc dòng dõi danh tiếng, và ông có thể tuyển mộ nhiều tiến sĩ lỗi lạc cho nhà Tây Sơn bao gồm Phan Huy Ích, Ninh Tốn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Nha, Trần Bá Lãm, và Vũ Huy Tấn. Trong lúc phục vụ cho nhà Tây Sơn, Nhậm được biết đến như người chuyên soạn các chiếu chỉ cho vua Quang Trung, nỗ lực chiêu mộ các kẻ sĩ bạn của ông rất quan trọng đối với chế độ mới.

Khi lời hiệu triệu người dân hoặc những cuộc tiếp xúc cá nhân không đạt hiệu quả, vua Quang Trung chuẩn bị lực lượng. Chẳng hạn vào mùa xuân năm 1788, sau khi vua Lê trốn lánh khỏi kinh thành Thăng Long, Nguyễn Huệ muốn hòa giải với các quan lại triều Lê để họ giúp ông điều hành các vấn đề chính trị ở phía bắc. Trong trường hợp này, ông đã tập hợp họ lại và theo một vài nguồn tư liệu, ông buộc họ ký một văn kiện thể hiện lòng trung thành với ông*. Họ đã làm điều đó, với ít nhiều tính tự nguyện, với hai ngoại lệ: nhà triết học và biên khảo Bùi Huy Bích giả ốm, không tham gia cuộc họp, và Nguyễn Huy Trạc (1733-1788), đỗ tiến sĩ năm 1769, đã uống thuốc độc tự tử. Từ thời điểm này, rõ ràng là triều đại Quang Trung đã áp đụng khá sớm mô hình cưỡng bách hợp tác đối với các nho sĩ Đàng Ngoài đang có thái độ miễn cưỡng. Trong trường hợp đặc biệt đó, cưỡng bách sự hợp tác của các nho sĩ đang cư trú tại Thăng Long tương đối dễ, họ có ít cơ hội trốn đi. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, các nho sĩ còn có thái độ do dự bị lùng kiếm và bị cưỡng bách đi vào triều đình Tây Sơn. Những người được mời đến mà không đồng tình hợp tác sẽ có hai sự chọn lựa: hoặc tự sát, hoặc trốn đi. Chỉ có một nhóm nhỏ chọn cách thứ nhất, về sau, sử của triều Nguyễn vào thế kỷ XIX là sách Đại Nam nhất thống chí đã vinh danh họ về quyết định họ đã chọn.

Đáp ứng với các chiếu chỉ, những lời kêu gọi cá nhân, hoặc là áp lực trực tiếp, nhiều nho sĩ Đàng Ngoài đã chọn cách phục vụ chính quyền mới của nhà Tây Sơn. Những người chọn cách tham gia vào chế độ mới đã làm thế vì nhiều lý do khác nhau, với nhiều mức độ cam kết khác nhau. Một số người đồng tình phục vụ với nhiệt tình thật sự đối với các chương trình hoạt động của nhà Tây Sơn, với kỳ vọng các chương trình này mang lại một trật tự chính trị và xã hội mới. Những người khác hợp tác với niềm tin rằng ý thức hệ Khổng giáo của họ đòi hỏi sự phục vụ vì công ích ở những người có khả năng phục vụ, ngay cả khi họ không tin chắc vào triển vọng thành công của chế độ mới*. Vẫn còn những người tham gia vào chế độ mới không vì những lý do nhân bản hay triết lý, mà vì những lý do thực dụng, ủng hộ điều mà họ xem như một quyền hành chính trị trên thực tế để tiếp tục nghề nghiệp của mình. Ý niệm thực dụng kể sau cùng có liên quan đến trường hợp Tuần huyện Trang. Sau khi phản bội chúa Trịnh là người đã trốn thoát khỏi tay quân Tây Sơn vào năm 1786, bất chấp việc người thầy của ông ta giao phó chúa cho ông ta chăm sóc, Trang đã giải thích hành động của ông ta bằng cách tuyên bố rằng: “Tôi không sợ thầy tôi bằng sợ những người phản loạn, và tôi không thể yêu chúa bằng yêu chính tôi”.

Tuy nhiên, phần lớn các nho sĩ Đàng Ngoài quyết định không phục vụ chế độ mới, một quyết định được thúc đẩy hoặc bởi lý do trung thành với chế độ cũ, hoặc vì những mối quan tâm thực tế hơn. Phần lớn những nho sĩ chọn con đường không phục vụ nhà Tây Sơn thường là ẩn dật, chờ tình thế thay đổi, một cách hành động phổ biến trong những thời kỳ biến động chính trị. Điều này khiến cho vua Quang Trung phải than vãn (qua bàn tay Ngô Thì Nhậm): “Than ôi, khi trời đất chẳng hanh thông, người tài đức đâu hết cả"*. Trong lúc một số nho sĩ ẩn dật hay về trí sĩ, những người khác không chấp nhận một mưu chước như vậy, cho dù vua Quang Trung kiên trì theo đuổi những trí thức nổi tiếng ở Đàng Ngoài. Một tác giả vào thời kỳ này đã miêu tả nỗ lực của hoàng đế Tây Sơn như sau: “ (Ông) cư xử với các nho sĩ mà không phân biệt người nam hay người bắc, tìm và hỏi thăm họ khắp nơi, từ hang cùng rừng thẳm đến bờ cây bụi cỏ”. Cách xác định này có lẽ không hoàn toàn mang tính ẩn dụ, mà phản ánh thực tế của việc Nguyễn Huệ tìm kiếm các nho sĩ đã giấu mình nơi rừng sâu hay hang động.

Cuối cùng, những nho sĩ tham gia vào chính quyền Tây Sơn, dù nhiệt tình hay miễn cưỡng, cũng đều rất quan trọng đối với vua Quang Trung, mang lại cho ông niềm tin rằng ông đang có được sự hỗ trợ thiết thực và khôn ngoan để cai trị vương quốc mới của mình. Ảnh hưởng của những nho sĩ này trong hoạt động chính trị của vua Quang Trung rất đáng kể. Dưới sự cố vấn của họ, đặc biệt của Ngô Thì Nhậm, vua Quang Trung thực hiện nhiều dự án, từ việc xét tuyển quan lại đến việc đề ra chương trình học dành cho hệ thống học đường do triều đình bảo trợ, kết hợp hài hòa cùng với một dự án lớn nhằm dịch các tác phẩm cổ điển bằng chữ Hán ra chữ Nôm. Thông qua những nho sĩ này, cũng chủ yếu từ Nhậm, vua Quang Trung ban hành các chiếu chỉ và thư từ trao đổi với triều đình Trung Quốc, Cho dù không thể thiết lập một cơ chế điều hành đầy đủ trước khi chính quyền nhà Tây Sơn bị lật đổ, giới trí thức Đàng Ngoài cũng đã định hướng nó bằng những cách thức đáng chú ý phản ánh quan điểm riêng và những mối quan tâm lâu dài của họ.

II.11. TRUNG QUỐC VÀ THAM VỌNG CHÍNH TRỊ CỦA VUA QUANG TRUNG

Sau khi đã hành động một cách có hiệu quả để đảm bảo quyền lực chính trị của mình, trong đó có việc được nhà Thanh chính thức công nhận và được sự hỗ trợ của các danh sĩ tài năng, giúp ông tái lập bộ máy công vụ của chế độ cùng nhiều định chế khác, có vẻ như vua Quang Trung muốn chọn cho mình một tư thế nghỉ ngơi. Trên thực tế, từ đó về sau, ông vẫn ở kinh thành Phú Xuân, nhưng đến năm 1791, ông vẫn không ngừng vẽ ra những kế hoạch nhằm tranh thủ thêm sự nhân nhượng từ một triều đình nhà Thanh có vẻ như đang tỏ ra khiếp sợ*. Trong những nhân nhượng mà có vẻ như vua Quang Trung muốn có được từ phía Trung Quốc là trái tim của cô công chúa nhà Thanh. Cũng như mưu định của người anh trước đây từng tạo mối quan hệ hôn nhân với nhà Nguyễn* và cuộc hôn nhân sau này của chính Nguyễn Huệ với công chúa nhà Lê, một yêu cầu như thể là phương tiện để củng cố một mối quan hệ chính trị quan trọng. Nó cũng cần được xem một bước khác nữa hướng đến việc hợp pháp hóa người mới đến trong những cặp mắt hoài nghi của giới trí thức Đàng Ngoài. Cho dù việc thiết lập mối quan hệ chính trị thông qua hôn nhân là một nguyên tắc đã được biết đến từ lâu, việc vua Quang Trung xin kết hôn với công chúa nhà Thanh là chuyện chưa có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam. Có lẽ nó được xem như một chỉ dấu về việc hoàng đế Tây Sơn tin chắc rằng ông đã dọa dẫm vừa đủ để nhà Thanh phải lưu tâm đến một yêu cầu như thế*.

Táo bạo hơn nữa là kế hoạch của vua Quang Trung đòi nhà Thanh trả lại hai tỉnh lớn ở phía nam Trung Quốc là Quảng Đông và Quảng Tây. Sách Đại Nam liệt truyện chép rằng kế hoạch này xuất phát từ việc nhà Thanh không quan tâm tới sự phàn nàn của phía Đại Việt về một số quận huyện nằm ở biên giới mà họ cho rằng phía Trung Quốc đã chiếm của họ. Nếu người Trung Quốc không muốn trả lại hai tỉnh đó, vua Quang Trung hình như đã sẵn sàng lấy lại chúng bằng vũ lực. Sách Hoàng Lê nhất thống chí viết rằng, thư của vua Quang Trung gửi nhà Thanh đòi hai tỉnh đơn thuần chỉ nhằm thăm dò phản ứng của người Trung Quốc, chứ không phải thực tâm muốn thế*. Tuy nhiên, hình như vị hoàng đế Tây Sơn bị lôi cuốn bởi một sự thôi thúc không mấy tầm thường, vì ông biết là phần lãnh thổ đó từng có lần thuộc về người Việt Nam và việc được nhận lại nó là một phần của sự phục hồi (hơn là mở rộng) một lãnh thổ cũ của người Việt. Như Alexander Woodside từng viết: “Nhằm khôi phục sự thống nhất ban đầu của Bách Việt, một truyền thuyết mà hai mươi thế kỷ của lịch sử chế độ quân chủ của Trung Quốc đã xóa sạch, vua Quang Trung đã đưa ra một quyết định có tính thúc ép đến mức vào khoảng thời gian trước khi ông qua đời vào năm 1792, triều Tây Sơn đã cho đóng những chiếc thuyền chiến khổng lồ để chuyển voi chiến đến Quảng Đông, như là bước đầu hướng đến việc tái chiếm Quảng Đông và Quảng Tây”.

Ở một mức độ nào đó, một cuộc tấn công của Đại Việt chống lại Trung Quốc có vẻ như là một cuộc tự sát, nếu như ta so sánh kích thước tương đối giữa hai nước và quân đội nằm trong tay họ. Logic tiềm tàng chi phối ý định của vua Quang Trung có lẽ được vạch ra từ vị thế chính trị của ông ở Đàng Ngoài. Sự tin tưởng của người xứ Đàng Ngoài vào vua Quang Trung phát xuất phần lớn từ việc ông bảo vệ đất nước Đại Việt chống lại cuộc xâm lược của quân nhà Thanh vào năm 1788. Chính hành động này, hơn bất cứ hành động nào, đã củng cố tầm vóc của ông trong con mắt của các nho sĩ Bắc hà cũng như trong quảng đại quần chúng, Chiến thắng quân Thanh của ông đã dứt khoát đưa ông vào ngôi đền của những anh hùng dân tộc - Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo và Lê Lợi - là những người đã bảo vệ đất nước chống lại người láng giềng phương Bắc. Ông gợi nhớ lại chiến công của những vị anh hùng này khi tập hợp quân đội tấn công quân Thanh và chiến công của ông rõ ràng đã kết nối thành tích của ông với thành tích của các vị anh hùng. Chỗ đứng của Quang Trung trên vũ đài quốc gia được xác định bởi chiến công của ông về mặt quân sự hơn là tầm nhìn chính trị của ông. Hình như là sau nhiều năm xa chiến trường, vua Quang Trung cần đến sự kích động và một sự tưởng thưởng hậu hĩnh từ một cuộc đối đầu quân sự khác. Thật vậy, cuộc xâm lăng có trù tính nhắm vào nhà Thanh chứng tỏ logic quân sự và chính trị được liên kết đến mức độ nào trong đầu óc của ít nhất một lãnh tụ nhà Tây Sơn. Ra đời như một mối đe dọa về quân sự đối với các nhân vật và cơ chế chính trị đương thời, trên nhiều phương diện, phong trào Tây Sơn là phản ứng về quân sự trước một tình hình đòi hỏi những giải pháp sâu rộng hơn về xã hội và chính trị.

Hình như vua Quang Trung cũng tin rằng người nhà Thanh đã tỏ ra sợ hãi trước quân đội của ông, sau khi ông đã đánh tan tác lực lượng của họ vào năm 1789. Thư của một giáo sĩ thời đó đã miêu tả tình hình lúc ấy như sau:

“Có vẻ vị hoàng đế nhà Thanh sợ hãi trước một Attila mới*, khi chỉ vài tháng sau đó, đã cử một sứ thần sang phong cho ông làm An Nam Quốc Vương, quên đi thanh danh và sự tổn thất hơn 40.000 hay 50.000 quân đã bị bạo chúa* tiêu diệt chỉ trong một trận đánh vào năm trước, một trận đánh mà quân Thanh được trang bị tận răng, nào gươm, nào súng và quân số nhiều hơn đối phương cỡ 10 chọi l*. Sự thật là trong con mắt mọi người, sứ bộ này không đáng tin tưởng đến mức người ta có lý khi nghi ngờ về những gì vị hoàng đế đã làm. Bản thân bạo chúa cũng không buồn rời Đàng Trong để được đăng quang tại kinh đô của chúng ta* và tự bằng lòng với việc cử một quan lại tầm thường thay thế mình, mặc trang phục, lấy danh nghĩa của người lãnh đạo và tự nhận là sứ thần”*.

Ngoài ra, theo sách Đại Nam thực lục, cuộc tiếp đón rất thân tình dành cho sứ bộ của vua Quang Trung vào năm 1790 càng khiến ông tin vào mối quan hệ này nhiều hơn. Có lẽ điều này dựa vào sự giải thích tình thế lúc bấy giờ là vua Quang Trung đòi nhà Thanh nhường cho hai tỉnh phía nam. Tuy nhiên, những kế hoạch lớn lao này không bao giờ thành hiện thực, vì vua Quang Trung đã qua đời vào cuối mùa hè năm 1792, ngay khi sứ bộ của ông đang trên đường đến Trung Quốc để trình bày những yêu cầu của ông. Khi các sứ giả Đại việt hay tin về cái chết của vị hoàng đế của họ, họ ngay lập tức quay về Thăng Long. Điều này đánh dấu sự kết thúc một kế hoạch táo bạo của Quang Trung, một kế hoạch chẳng bao giờ được hồi sinh dưới triều đại người kế vị ông.

Dù vị vua Tây Sơn có bị thúc đẩy bởi bất cứ yếu tố nào, kế hoạch thách thức người Trung Quốc chứng tỏ ông có tham vọng khẳng định tầm vóc chính trị của mình trong phạm vi lãnh thổ Đại Việt và trong mối quan hệ vô cùng quan trọng với Trung Quốc. Hình như ông đã rất thành công khi xác lập vị thế chính trị trong con mắt của cả người Việt lẫn người Trung Quốc, và chỉ có cái chết sớm của ông vào năm 1792, ở tuổi 40, mới làm chấm dứt ước vọng của ông muốn tạo lập cho dòng dõi của mình một triều đại mới mẻ và lâu đài. Mặc dù người con, người kế vị ông, là Quang Toản sẽ còn cai trị một thập niên nữa (một phần thời gian này có sự giám hộ của một phụ chánh), ước vọng chính trị của nhà Tây Sơn đã thực sự chết theo vua Quang Trung.

II.12. KẾT LUẬN: TẦM NHÌN HẠN CHẾ CỦA CÁC LÃNH TỤ NHÀ TÂY SƠN

Vậy thì chúng ta kết luận thế nào về mục đích và quan điểm của những người lãnh đạo phong trào Tây Sơn trong 30 năm cuối cùng của thế kỷ XVIII? Việc liên tục sử dụng các mối liên hệ chính trị khả dĩ và duy trì cho đến khi nào chúng không còn có ích nữa, hoặc đơn giản là tích lũy những mối quan hệ đó chờ thời cơ khả dụng, cho thấy rằng các lãnh tụ Tây Sơn không phải là những người canh tân hay những nhà cách mạng, mà chỉ là những kẻ cơ hội về chính trị. Họ tỏ ra thực dụng khi đưa ra nhiều lời kêu gọi khác nhau, theo nhiều cách khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, sử dụng những công cụ tìm thấy, và những tình huống bắt gặp được để tranh thủ sự ủng hộ và để hợp pháp hóa bản thân họ cũng như phong trào của họ. Cho dù một vài sử gia người Việt cố gán cho cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn những mưu định lớn lao, một cái nhìn sâu sát hơn cho thấy họ chẳng có một chiến lược nào tài giỏi, rất ít khi dựa vào một triết lý đặc biệt nào. Tuyên ngôn của các nhà lãnh đạo Tây Sơn về những mục tiêu nào đó thường được tính toán nhắm vào lợi ích riêng tư và quyền lực chính trị của họ, mà không nhằm tạo sự chuyển biến cho đất nước họ hay cho đời sống của cư dân của họ. Những thay đổi diễn ra không chứng tỏ một tầm nhìn chính trị và xã hội rộng lớn của bất cứ người nào trong anh em nhà Tây Sơn. Có lẽ ngoại lệ duy nhất là việc vua Quang Trung kết nối một vài chính sách tổng quát sau năm 1789, và đó là kết quả từ ảnh hưởng của giới nho sĩ Đàng Ngoài.

Trường hợp của nhà Tây Sơn cho thấy sự phức tạp của nguồn gốc quyền lực và tính hợp pháp về chính trị thường thấy ở những người đưa ra yêu sách về quyền lực vào đầu thời kỳ này. Cho dù có một sự chồng chéo nào đó, các chiến lược mà anh em nhà Tây Sơn sử dụng để hợp pháp hóa rõ ràng là đã được vạch ra nhằm kêu gọi sự ủng hộ của nhiều nhóm khác nhau trong xã hội. Một số chiến lược, chẳng hạn như việc tìm người ra làm quan, hôn phối trong các gia đình hoàng tộc, và phục hồi cơ cấu chính trị Khổng giáo, đã tác động có hiệu quả trong giới trí thức. Những lời kêu gọi khác tác động nhiều hơn trong dân chúng, trong đó có nỗ lực của nhà Tây Sơn liên kết họ với các thế lực siêu nhiên và những hành động mang lại công bằng về kinh tế, vừa cụ thể, vừa có tính tượng trưng của họ. Thật vậy, sự pha trộn các cách giải quyết vấn đề phản ánh một sự thật là trong lúc vua Quang Trung bận tâm vào việc chứng tỏ thành tâm theo Khổng giáo của ông ở phía bắc, thì người anh của ông ở Qui Nhơn không quan tâm gì đến sự tinh tế của Khổng giáo, và trong chừng mực có thể xác định được, ông tiếp tục nêu lên tính hợp pháp của mình từ những thắng lợi về quân sự, từ mối quan hệ với người Chăm, và từ quyền lực cá nhân của ông.

Cuối cùng, cho dù những tuyên ngôn chính trị của họ lớn lao đến đâu, và những thắng lợi trong các chiến dịch quân sự của họ gây ngạc nhiên đến mức nào, trên nhiều phương diện, anh em nhà Tây Sơn vẫn duy trì tính cục bộ địa phương trong sự định hướng và các mục tiêu nhắm đến*. Họ có thể đưa quân đội ra đến biên giới nước nhà, hoặc thậm chí vượt ra khỏi biên giới như trường hợp với các vương quốc Lào và Chân Lạp, nhưng cuối cùng thì họ luôn luôn quay về căn cứ, nơi họ cảm thấy dễ chịu nhất. Sự kiện những cố vấn chính trị, những chiến lược gia quân sự đáng tin cậy nhất của họ, với một ít ngoại lệ, vẫn là những người ủng hộ họ sớm nhất ngay từ quê nhà, là một chỉ dấu khác cho thấy các lãnh tụ Tây Sơn tiếp tục nhìn về nguồn gốc của họ ngay cả khi các chiến địch cũng như tham vọng của họ vượt ra khỏi trục Qui Nhơn-An Khê. Đặc biệt là Nguyễn Nhạc vẫn kiên trì ở kinh đô Chà Bàn của ông, nơi ông nhiều lần bị vây khốn. Thật vậy, chuyến đi xa duy nhất của Nguyễn Nhạc ra khỏi Chà Bàn là chuyến đi tốc hành đặc biệt của ông ta ra Thăng Long vào mùa hè năm 1786 để đuổi theo và đưa người em là Nguyễn Huệ trở về. Mặc dù Huệ đã chứng tỏ một sự năng động mạnh mẽ hơn nhiều so với Nhạc, song ông cũng chôn chân ở Phú Xuân từ năm 1786 đến ngày ông mất vào năm 1792. Trong lúc vị tướng vĩ đại này tiến hành nhiều chiến dịch quân sự ra Bắc, ông thích giao quyền bính lại cho người khác, luôn cảm thấy thoải mái khi trở về gần với cội rễ của mình.

Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi các sử gia nhà Nguyễn vào thế kỷ XIX không chịu nhìn nhận anh em Tây Sơn từng là những nhà cai trị hợp pháp trên lãnh thổ Đại Việt, coi họ như những kẻ soán ngôi đã chiếm lấy quyền lực chính trị mà nhà Nguyễn coi như của mình. Và còn nữa, như đã lập luận trong chương này, trong chiều dài lịch sử Việt Nam, có vô số nguồn tư liệu dùng để giải thích tính hợp pháp về chính trị. Cho dù nhà Tây Sơn là những người ngoài nắm lấy quyền hành chủ yếu thông qua các biện pháp quân sự, họ không phải là những người đầu tiên hay cuối cùng đã làm như thế, và thật ra sự chiến thắng nhà Nguyễn và nắm quyền là kết quả của một chiến dịch quân sự kéo dài. Trên một vài phương diện, việc nhà Tây Sơn nắm lấy quyền hành có thể so sánh với những người kế tục họ, và trong mọi trường hợp, đây là sự chứng tỏ có sức thuyết phục về phương cách mà các đối thủ chính trị có thể vươn lên từ bóng tối để trở thành những kẻ xuất chúng.

Báo cáo nội dung xấu