Cuộc Nổi Dậy Của Nhà Tây Sơn - Chương 3

CHƯƠNG III

GIỚI NÔNG DÂN ĐỜI SỐNG DƯỚI CHÍNH QUYỀN TÂY SƠN

* * *

Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết.

-Sấm truyền của người Việt vào thế kỷ XVIII-

Những kẻ thô lỗ này xuất phát từ các dãy núi ở Đàng Trong, họ không biết gì về sự sắp đặt việc cai trị. Họ không mưu cầu việc gì khác ngoài cướp phá, và không buồn nghĩ đến những hậu quả tiếp theo. Họ lấy đi tất cả vàng bạc của vương quốc..., họ lôi nông dân ra khỏi các cánh đồng và cho đi lính; họ thiêu hủy phần lớn làng mạc, đánh thuế người dân và bắt dân làm lao dịch. Và điều gì đã xảy ra? Tất cả những điều tệ hại mà chúng tôi đã xác định nay vẫn còn tiếp diễn: nạn đói, dịch bệnh, cái chết của người và thú, và tất cả không có thuốc chữa.

Thư của giáo sĩ Pháp, 1789*.

Do các lãnh tụ Tây Sơn có mưu định hợp pháp hóa quyền lực chính trị của họ, họ bắt đầu thi thố cái quyền lực đó với những người dân mà họ đang kiểm soát. Khả năng kiểm soát những người dân này của chính quyền Tây Sơn rất cần thiết để đối phó với những mối đe dọa trước mắt mà họ phải đương đầu, từ việc tiếp tục cuộc chiến trên nhiều mặt trận đến việc di chuyển người dân ở những nơi mà sản xuất nông nghiệp bị thất thu nhiều. Chính quyền nhà Tây Sơn thường xuyên đưa ra nhũng yêu cầu nặng nề cho người dân sống trong lãnh thổ do họ kiểm soát, những yêu cầu phát sinh do chiến tranh tiếp diễn không ngừng, do sự phá hoại và những chi phí phải đài thọ. Trước hết là nhu cầu về nhân lực để hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Thứ đến, do các lãnh tụ Tây Sơn thiết lập nhà nước riêng của họ, họ cần sức lao động để xây dựng những trung tâm chính trị mới và nhiều loại công trình công cộng. Cuối cùng, những người lãnh đạo chính quyền cần có các nguồn tài chánh để trả lương cho lính và thực hiện các chương trình khác của chính quyền, vì vậy họ cần bòn rút những khoản thuế do người dân đóng góp, cả hiện kim lẫn hiện vật.

Hậu quả của những yêu cầu này rất nặng nề, vì chúng thường gây ra sự gián đoạn các chu kỳ gieo hạt giống, cấy mạ và thu hoạch vụ mùa. Sự cưỡng bách quân sự, vốn chỉ áp dụng cho đàn ông, đã đẩy nhiều nông dân ra khỏi ruộng đồng của họ. Yêu cầu lao dịch nặng nhọc rơi cả vào đàn ông lẫn đàn bà. Trong lúc những lao dịch như thế thường chỉ đáp ứng yêu cầu của địa phương, cho phép mọi người vẫn còn được ở lại nông trại của họ, thời gian dành cho việc làm đường mới, xây dựng thành lũy mới, hoặc sửa chữa đê điều, hoặc thực hiện các dạng hạ tầng cơ sở nông thôn khác, tất nhiên là họ sẽ không còn thời gian cần thiết để cấy cày, trồng trọt. Chiến tranh kéo theo sự di chuyển của nhiều đạo quân dọc theo chiều dài đất nước phá hủy mùa màng, và cũng thường phá hủy những đường đê, những bờ ruộng lúa khi quân lính đi qua những khu vực không có đường đi hay đường đi còn thô sơ. Việc luân phiên vào quân đội hay bị trưng dụng làm lao dịch đã vượt ra ngoài khuôn khổ. Tất nhiên đối với vấn đề năng suất nông nghiệp, vào quân đội hay làm lao dịch đều có cùng một hậu quả như nhau, đó là những cánh đồng không có người chăm sóc, gìn giữ.

Mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn với giới nông dân thường xuyên gây ra sự đối chọi giữa những đòi hỏi của các lãnh tụ cuộc nổi dậy với nhu cầu của giới nông dân. Trong một thời gian dài, đặc biệt trong thời loạn lạc, mối quan hệ giữa những người cai trị và những người bị trị là một mối quan hệ phức tạp, một cuộc đấu tranh giữa một bên nhằm kiểm soát con người và tài nguyên thiên nhiên và một bên nhàm hạn chế những gì chính quyền có thể làm được. Mối quan hệ này càng phức tạp hơn khi thời tiết thất thường, khi xảy ra chiến tranh và với việc làm tệ hại của chính quyền. Lúc ban đầu, các lãnh tụ Tây Sơn chỉ hi vọng mở rộng số người để hình thành một đạo quân đủ chống lại nhà Nguyễn và tranh thủ thiện cảm của những người không thích đi lính. Một khi lực lượng quân nổi dậy bắt đầu chuyển thành một đạo quân chính qui vào năm 1775 - nó cần được thay đổi. Nó đòi hỏi một sự kiểm soát có hệ thống những người dân dưới quyền của mình. Để kiểm soát có hiệu quả, các lãnh tụ Tây Sơn thường xuyên kiểm tra dân số và phân loại những người dân của họ, áp đặt trật tự trong một xã hội mà nhiều nơi đã bắt đầu trượt khỏi tầm kiểm soát của chính quyền, về sau, các lãnh tụ cuộc nổi dậy đã có thể lợi dụng những người dân này để đưa họ vào quân đội hay làm lao dịch cũng như đóng thuế bằng tiền hay hiện vật.

Cho dù áp lực của hoạt động quân sự kéo dài trong thời Tây Sơn đã làm gia tăng một vài sự căng thẳng giữa người cai trị và người bị trị, có vẻ như những mô hình quan hệ như thế khá phổ biến vào nhiều thời kỳ trong lịch sử Việt Nam. Mục đích của tôi ở đây là sử dụng kinh nghiệm của nhà Tây Sơn để vạch ra những đặc điểm của thời kỳ phức tạp này, nhưng cũng nhằm gợi lên những loại động lực nào đã gây ra tai họa cho mối quan hệ giữa vua chúa và thần dân của họ xuyên qua lịch sử Việt Nam. Trong lúc nhiều khía cạnh trong mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo Tây Sơn và giới nông dân có tính cách đặc biệt hoặc khác thường, tác động chung của phong trào lên người nông dân là một phần của một mô hình cũ hơn nhiều. Cho dù phong trào có những biểu hiện bề ngoài như thế nào, thì từ cái nhìn tầm thường của người nông dân Việt Nam, thời kỳ Tây Sơn chỉ có tệ hại, đôi lúc tệ hại hơn rất nhiều.

Trong lúc về mặt vật chất, người nông dân có thể chống, và đã chống lại chính quyền mói bằng nhiều cách, thì họ cũng có thể sử dụng các phương tiện chống đối ít trực tiếp hơn, bao gồm các hình thức về mặt tâm lý. Do nhà Tây Sơn là một trong những kẻ thách thức các quyền lực chính trị vào cuối thế kỷ XVIII, sự hiện diện của nhiều người muốn nắm lấy quyền lực và sự thành bại của các chiến dịch quân sự cho thấy trên thực tế, người nông dân vẫn còn níu giữ hi vọng được cứu thoát khỏi cảnh ngộ khốn khổ của họ. Song không may cho họ, niềm hi vọng thường bị tiêu tan khi họ khám phá ra rằng những người mà họ nóng lòng mong đợi như các đấng cứu tinh cũng không khá hơn những chính quyền mà họ đã thay thế. Sau cùng, từ cái nhìn của giới nông dân, có vẻ như có ít cơ sở để phân biệt giữa chính quyền nhà Tây Sơn với các chính quyền Trịnh-Nguyễn.

Mối quan hệ phức tạp và thường có tính thù địch giữa người dân Đại Việt với các lãnh tụ Tây Sơn không giống bao nhiêu với cái nhìn lý tưởng hóa đối với nhà Tây Sơn thường thấy trong tác phẩm của các nhà viết sử Việt Nam đương đại. Việc thường xuyên nhắc lại cụm từ vô định hình “phong trào Tây Sơn” trong ngữ cảnh này là điều cần bàn lại. Chương này tách bạch chữ “Tây Sơn” - được sử dụng một cách quá rộng rãi - và nhận thấy là nó che giấu một sự phân hóa sâu sắc. Tôi rút ra kết luận rằng các chiến dịch quân sự nhiều và tàn bạo trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn đáp ứng rất ít nguyện vọng của người nông dân hoặc những mục tiêu đặt ra so với những gì thuộc về tham vọng chính trị của các lãnh tụ phong trào. Người nông dân thời kỳ Tây Sơn là những kẻ lót đường* cho quân đội, là đối tượng của sự lao dịch, là nguồn tiếp tế và nguồn lợi tức cho phong trào. Những người đàn ông và đàn bà đó có thể nuôi ước vọng về một cuộc sống tốt hơn, điều này phản ánh trong sự ủng hộ đầy vẻ lạc quan của họ khi nhìn thấy những biểu hiện sớm sủa của cuộc nổi dậy, song những ước vọng đó sớm nhường chỗ cho một thực tế đầy thất vọng và theo những chứng cứ khả dĩ nhất, ít có người nông dân nào nhìn thấy một sự cải tiến đáng kể trong đời sống của họ phát xuất từ hành động của nhà Tây Sơn.

Khi tôi nhắc đến người nông dân trong chương này, tôi muốn nói đến trước tiên những người mà cuộc sống của họ tập trung vào sản xuất nông nghiệp trên một qui mô nhỏ (gia đình hay gia đình mở rộng); họ tiêu biểu cho đại đa số những người dân sống trên lãnh thổ Đại Việt vào thế kỷ XVIII. Để được thuận tiện, thành phần này cũng bao gồm những người có liên kết với nền kinh tế nông thôn tập trung vào sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, nó không bao gồm những người mà nghề nghiệp có liên quan đến lãnh vực thương mại. Các nhà buôn ở nông thôn cũng như ở vùng duyên hải có những hoạt động rộng rãi, trong lúc kết nối với nhịp sống của khu vực thương mại, họ cũng bị tác động ngay lập tức của những yếu tố ngoài địa phương hay ngoài khu vực. Rõ ràng là có nhiều thành phần kinh tế nằm trong tầng lớp “nông dân” - như chính các lãnh tụ Tây Sơn đã miêu tả, song không may là nguồn tư liệu hạn chế hiếm khỉ cho phép chúng ta có được một sự phân biệt rõ ràng như thế.

III.1. KIỂM SOÁT NGƯỜI DÂN

Mỗi khi các lãnh tụ Tây Sơn thiết lập một chế độ chính trị mới - vào năm 1775 ở Đàng Trong và năm 1788 ở Đàng Ngoài - họ tìm cách khẳng định quyền kiểm soát cư dân sống trên những lãnh thổ nằm dưới quyền hành chính trị của họ. Những nỗ lực này phản ánh nhu cầu quân sự và thuế khóa trước mắt, song chúng cũng là một phản ứng lại sự dịch chuyển của người dân và những xáo động do cuộc xung đột quân sự và sự rối loạn xã hội gây nên. Chiến lược kiểm soát dân chúng bắt đầu với việc điều tra dân số giúp chính quyền mới có được một số ý niệm về dân số và sự phân bố dân cư trên những lãnh thổ họ làm chủ. Một khi dân chúng đã được kiểm kê, cả hai chế độ của nhà Tây Sơn* thiết lập các hệ thống nhằm phân loại cư dân dựa vào tuổi tác hay tình trạng kinh tế để tính toán việc bắt lính, làm lao dịch, và các nghĩa vụ về thuế. Cuối cùng, ở Đàng Ngoài, vua Quang Trung khai triển một hệ thống thẻ căn cước duy nhất giúp nhà nước có thể theo dõi người dân khi họ đi ra khỏi làng mạc. Bằng những phương cách mà phần lớn đã được các vua chúa từng áp dụng, các lãnh tụ Tây Sơn toan tính kiểm soát những cư dân đã rời bỏ chỗ ở, không chỉ trong một thời gian ngắn ở Đàng Trong, do hậu quả cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, mà còn trong hơn một phần tư thế kỷ ở Đàng Ngoài, nơi những cuộc nổi loạn của dân, lụt lội và nạn đói kém đã đưa hàng chục ngàn người ra khỏi nhà cửa của họ.

III.1.1.Điều tra dân số

Phương tiện chủ yếu được các nhà lãnh đạo Tây Sơn sử dụng để kiểm soát dân chúng là sổ hộ khẩu. Thông tin thu thập được theo cách này rất cần cho việc hành thu thuế, xác định trách nhiệm lao dịch, và thông thường hơn nữa là để có một nhận thức về nhân khẩu trong địa hạt. Như Phan Huy Chú đã nhận định vào đầu thế kỷ XIX: "Để được lợi từ ba cõi (Thiên, Địa, Nhân), người ta phải hiểu có bao nhiêu người sẵn sàng phục vụ cho xứ sở để không phải lo không đủ người”. Nhận thức rõ tầm quan trọng của những thông tin như thế, các vua chúa Việt Nam đã thực hiện việc kiểm tra dân số từ ít nhất vào giữa thế kỷ XI, khi mới vừa lấy lại nền độc lập. Cho dù họ thường xuyên tiến hành việc kiểm tra này, quãng cách giữa các lần kiểm tra và tính hiệu quả của chúng thay đổi qua nhiều thế kỷ, phản ánh hoàn cảnh chính trị và xã hội cùng sức mạnh tương đối của một vua chúa nào đó.

Ở Đàng Ngoài, vua Lê-chúa Trịnh tiến hành định kỳ việc kiểm tra dân số, đôi lúc không có hệ thống, song cuộc kiểm tra cuối cùng tương đối chính xác được tiến hành vào năm 1658. Các biến động vào thế kỷ XVIII, trong đó có tình trạng rối ren của nửa thế kỷ bất ổn trong dân chúng, hậu quả của những năm đói kém và chết chóc tràn lan, đã khiến cho sổ bộ dân còn sống do các viên chức làng xã hoặc chính quyền trung ương làm ra trở nên sai lạc rất nhiều. Vì thế, vào năm 1773, sau khi cuộc nổi dậy quan trọng cuối cùng của người dân đã bị đàn áp, chúa Trịnh muốn xem lại và cập nhật hóa các số liệu kiểm tra. Kế hoạch đó bị thất bại hoàn toàn khi gặp phải sự chống đối bền bỉ và rộng khắp buộc triều đình phải ngưng nỗ lực này. Ở Đàng Trong, nhà Nguyễn cũng thực hiện những cuộc kiểm tra định kỳ tương tự nhằm mục tiêu thuế khóa và bắt lính, tình trạng hệ thống quản lý hồ sơ khá tốt. Một cuộc điều tra dân số có hệ thống vào năm 1769 là một phần nỗ lực của chính quyền nhằm tăng thu thuế và, như chúng ta đã nhận thấy trước đấy, đó là nguồn gốc chủ yếu gây ra sự bất mãn trong dân chúng. Chỉ được cập nhật hai năm trước khi nổ ra cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, nên số liệu về dân số thời Nguyễn cũng chỉ được xác định vào ngày tháng khi cuộc nổi dậy mới bắt đầu.

Mặc dù chưa rõ cuộc kiểm tra dân số đầu tiên của nhà Tây Sơn diễn ra vào lúc nào, lời tuyên bố của Nguyễn Nhạc vào năm 1775, rằng cứ 5 dân làng thì phải có một người sung vào lính, cho thấy là nhà lãnh đạo Tây Sơn đã nắm đươc các sổ sách hành chánh hiện hành của nhà Nguyễn. Sách Đại Nam thực lục còn chép rằng vào năm sau, Nhạc buộc người dân sung vào quân đội dựa vào danh tánh được ghi trong sổ bộ (hào) ở các làng mạc quanh Qui Nhơn, chứng tỏ rằng ông ta kiểm soát được ít nhất một số sổ bộ về dân số. Tuy nhiên, phải chờ đến năm 1784, chúng ta mới có được báo cáo đầu tiên về kiểm tra dân số do chính quyền của Nguyễn Nhạc tiến hành. Giám mục Pháp Pigneau de Béhaine đã viết vào tháng 3.1785 rằng khi ông rời Đàng Trong vào tháng 8.1784, nhà Tây Sơn đang tiến hành một cuộc kiểm kê dân số nghiêm ngặt, và nhiều người dân đã trốn khỏi làng mạc để tránh bị kiểm kê. Năm sau, Nguyễn Nhạc ra lệnh tiến hành một cuộc kiểm tra khác, ít bao quát hơn. Lần kiểm kê này đặc biệt nhắm vào người Việt theo Cơ Đốc giáo. Với mối quan tâm về lòng trung thành chính trị của người Cơ Đốc giáo trên lãnh thổ của mình, Nhạc ra lệnh ghi danh họ để hoặc đánh thuế họ hoặc buộc họ phải bỏ đạo. Trong lúc việc kiểm kê này chỉ bao gồm một phần dân số Đàng Trong là những người Việt theo Cơ Đốc giáo, đối tượng của nó là một thành phần dân chúng rất dễ bị tổn thương và dễ dàng bị khai thác về mặt tài chánh hay lao động.

Tiếp theo cuộc đánh chiếm lãnh thổ phía bắc vào năm 1786, nhà Tây Sơn mở rộng việc áp dụng những phương cách như thế ở vùng này. Những năm 1787 hoặc 1788, có vài thời điểm nhà Tây Sơn bắt đầu lập danh sách người dân sống ở phía bắc Đàng Trong, tức lãnh thổ cũ của nhà Nguyễn mà họ đã lấy lại từ tay họ Trịnh vào năm 1786. Rồi khi Nguyễn Huệ đã nắm lấy quyền bính từ tay nhà Lê vào cuối năm 1788, nỗ lực này được đẩy ra Đàng Ngoài. Nhà lãnh đạo Tây Sơn hi vọng phục hồi trật tự và ổn định ở Đàng Ngoài bằng cách biến những người dân di trú thành những người sống yên một chỗ, và làm như thế để phục hồi nền kinh tế nông nghiệp đã bị gián đoạn một thời gian dài. Với mục tiêu này trong đầu, vào tháng tư năm Kỷ Dậu (tháng 4-5, năm 1789), vua Quang Trung “cho điều chỉnh các sổ bộ về tình trạng pháp lý” của dân chúng như là bước khởi đầu của một cuộc kiểm kê dân số rộng lớn hơn. Đầu năm sau, ông ban bố một chỉ dụ trong đó có đoạn sau “Trong tất cả các trấn từ phía bắc sông Linh Giang, các phủ, huyện phải nỗ lực ghi chép số dân làng phân theo hạng”. Trong cùng năm này, ông ban bố một chỉ dụ khác liên quan đến việc đánh thuế, phân loại dân chúng, và chi tiêu của các làng xã, theo đó, trách nhiệm gìn giữ các sổ bộ được giao cho các làng xã. Làng xã tiếp tục trả thuế dựa vào sổ bộ hiện có, thuế suất chỉ giảm nếu xã trưởng chính thức xác nhận cư dân đã qua đời.

Có lẽ vào khoảng thời gian trên, vua Quang Trung ban hành một chỉ dụ - dù không được xác định ngày tháng - nhắm trực tiếp vào cuộc khủng hoảng nông nghiệp. Với văn kiện này, ông mô tả những vấn đề phát sinh do cuộc sống rày đây mai đó của người dân trong những năm xáo động, dẫn đến sự sa sút của sản lượng nông nghiệp và gia tăng nỗi lo đói kém. Vị hoàng đế ước tính rằng có lẽ chỉ 40% đến 50% dân số được ghi sổ là còn ở tại chỗ, và chỉ có một tỷ lệ tương tự đất nông nghiệp là đang được canh tác. Chỉ dụ kêu gọi các xã trưởng, trưởng thôn ấp tiến hành cuộc điều tra về nhân khẩu và đất đai và ghi số liệu vào sổ bộ làng rồi trình cho các quan lại nhà Tây Sơn xem xét. Cuối cùng, chỉ dụ yêu cầu mọi người dân đã rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn hãy quay lại làng mạc và tiếp tục lại công việc đồng áng. Mục tiêu của chính sách này rõ ràng là có hai phần: phục hồi sản lượng nông nghiệp để hỗ trợ cư dân Bắc hà, và đưa dân chúng trở về làng quê, nơi họ có thể được kiểm kê và nhà nước có thể kiểm soát họ một cách hữu hiệu. Cho dù theo quan điểm của người nông dân, sự gia tăng mức độ kiểm soát của chính quyền được coi như một bước thụt lùi, song chỉ dụ đã có hiệu quả tức thì khi nhắm vào việc cải tiến sự ổn định xã hội, giúp khôi phục hoạt động nông nghiệp.

Năm 1792, một thời gian ngắn trước khi qua đời, vua Quang Trung ban lệnh thực hiện một cuộc điều tra dân số có tính hệ thống hơn, lưu ý rằng những nỗ lực trước đây đã hoặc không thành công, hoặc không đầy đủ. Tác giả Bùi Dương Lịch đã mô tả những vấn đề về sổ bộ dân số vào thời đó như sau:

“Sổ đinh lập từ năm Nhâm Dần (1722) đời Lê cũ đến nay đã sáu bảy mươi năm, hộ khẩu nơi đông thêm, nơi hao hụt, khác nhau rất nhiều, nên thuế khóa, sai dịch không đều. Đến năm Quý Tỵ (1773), ban chỉ làm lại, nhưng dân thì cương ngạnh, quan thì ăn hối lộ, không làm xong được, sau đó lại phải theo sổ cũ. Đến bấy giờ, Tây Sơn hạ lệnh cho dân xã các nơi phải mở sổ của thôn ấp"

Khi mệnh lệnh của nhà Tây Sơn được ban bố, một cuộc điều tra dân số diễn ra và một giáo sĩ đã mô tả là việc này được tiến hành nghiêm túc nhất, trùng khớp với mọi người dân trong độ tuổi từ 9 đến 70 tuổi. Các số liệu kiểm tra sau đó được dùng áp dụng cho cả việc thu thuế lẫn nghĩa vụ quân sự.

Cuộc điều tra dân số cuối cùng của nhà Tây Sơn mà chúng tôi có được chứng cứ đã diễn ra vào năm 1801, dưới triều Nguyễn Quang Toản, là con, cũng là người kế vị vua Quang Trung. Việc kiểm kê này là một phần trong công cuộc tái cơ cấu rộng lớn hơn đang được nhà Tây Sơn tiến hành. Nỗ lực này khởi đầu vào năm 1800 với việc thay thế niên hiệu Cảnh Thịnh bằng niên hiệu Bảo Hưng, một sự thay đổi được dự liệu nhằm làm trẻ lại một chế độ đang sa sút trước những cuộc tấn công của chúa Nguyễn* và đang có nguy cơ thất thủ kinh thành Phú Xuân. Đó cũng là thời kỳ mà sự bất bình của dân chúng đối với nhà Tây Sơn đang tăng cao ở những trấn phía bắc, số vụ nổi loạn qui mô nhỏ cũng nhiều hơn, do chúng được khích lệ bởi hi vọng lực lượng của chúa Nguyễn sắp ra tới. Không rõ là cuộc điều tra dân số mới của nhà Tây Sơn có phải là một cuộc đổi mới chính quyền của họ hay không. Có điều rõ ràng là cuộc điều tra đó được phác họa trong điều kiện ngay cả việc kiểm kê dân số cũng không ghi nhận được ai đã đi khỏi làng xã của họ. Căn cứ vào cuộc điều tra này, những ai không có tên trong sổ bộ làng được coi là thuộc thành phần các phong trào chống Tây Sơn.

Dù có thể gặp nguy hiểm, song các làng xã vẫn tìm cách ngăn trở các nỗ lực của chính quyền (Tây Sơn) muốn có một dân số chính xác. Dân làng và các viên chức làng xã biết rất rõ rằng họ sẽ có lợi nhất khi ghi dân số (trong làng) ở mức thấp nhất để bảo vệ họ trước những yêu sách của chính quyền. Do mỗi làng có trách nhiệm chung phải đáp ứng yêu cầu về thuế má và bắt lính do chính quyền Tây Sơn đề ra, cư dân của họ sẽ có lợi khi lừa dối chính quyền trung ương. Vì thế, nhiều làng mạc ở phía bắc tìm cách giảm thiểu nghĩa vụ quân sự và thuế má bằng cách khai ít đi số cư dân của họ*. Giữa cuộc điều tra dân số năm 1801, một giáo sĩ Pháp ghi rằng những ngôi làng có thể báo cáo ít hơn dân số thật của họ cần phải có một lập trường vững chắc để có thể tồn tại trước những yêu sách của chính quyền. Từ sự miêu tả của giáo sĩ trên, rõ ràng tiến trình này không chỉ đơn thuần là một kiểu lừa bịp về dân số mà đúng hơn là sự báo cáo hạ thấp dân số thật. Chẳng hạn như ngôi làng nơi ông ta ở có dân số thực gần 300 người nhưng chỉ được báo cáo có 10% con số này. Rõ ràng là nếu một làng xã có thể báo cáo một con số vô cùng sai lạc như vậy, cư dân của họ sẽ ở vào một vị thế tốt hơn nhiều so với nhà nước. Điều không thể nghi ngờ là chính quyền nhà Tây Sơn cũng cảnh giác trước những dối gạt như vậy và đã thận trọng ngăn ngừa chúng, nhưng trong phần lớn những trường hợp như vậy, họ không có nhiều thẩm quyền buộc làng xã đưa ra những con số chính xác, một việc đòi hỏi phải có sự hợp tác của địa phương.

III.1.2. Phân loại dân chúng

Như người nông dân được kiểm kê dưới chính quyền Tây Sơn, dân chúng cũng được phân loại, tiếp tục một việc làm mà các triều đại trước đã thực hiện. Chẳng hạn như triều Lê-Trịnh đã áp dụng cơ chế phân loại, theo đó các loại hạng được thiết lập tạo nên thứ bậc của người dân thường trong làng xã. Hệ thống này được vua Lê Thánh Tông đưa ra năm 1470, chi tiết được giải thích rõ ràng trong bộ luật Hồng Đức. Theo bộ luật này, dân làng khi đến tuổi 18 sẽ được ghi tên vào sổ bộ làng và phân loại nhằm vào mục đích đánh thuế và bắt lính. Những ai không chịu ghi tên có thể bị trừng phạt bằng cách sung vào lính. Dân làng được phân chia hạng, loại như dưới đây:

Tráng hạng: thanh niên và người trưởng thành, đối tượng của nghĩa vụ quân sự.

Quân hạng: thanh niên và người trưởng thành, đối tượng của binh lính dự bị.

Dân hạng: dân chúng nói chung.

Lão hạng: người từ 50 đến 60 tuổi.

Cố hạng: người lao động ăn lương không có đất.

Cùng hạng: người bần cùng.

Nhà Nguyễn cũng phân loại dân của họ tương tự như thế, dù họ có bổ sung hai hạng dân là tàng tật và đào*. Các hạng này áp dụng trong các khu vực hay làng xã đặc biệt, nhấn mạnh vào hai hạng đầu tiên, trong đó con số thanh niên cố định được đánh dấu cho nghĩa vụ quân sự tại ngũ hay dự bị. Việc phân loại, hạng những người cá biệt có khác nhau, tùy thuộc vào tình hình địa phương ở một làng xã nào đó hoặc tùy vào từng địa điểm*. Ngoài ra, về mặt lý thuyết, luật lệ của nhà Nguyễn quy định rằng những số liệu cần được cập nhật thường xuyên, mỗi ba năm một lần thường thức và mỗi sáu năm một lần bao quát hơn.

Chính quyền Tây Sơn cũng phân loại dân dựa vào tuổi tác, rõ ràng là dựa vào cách làm của nhà Nguyễn và họ Trịnh trước đó. Có những chỉ dấu cho thấy hoàng đế Thái Đức sử dụng cùng một hệ thống, vì lịch sử nhà Nguyễn thế kỷ XIX cho biết là sổ bộ về dân số của nhà Tây Sơn trong lãnh địa của họ đã sử dụng ít nhất các hạng lão hạng và lão nhiêu là hai hạng cuối cùng dựa vào tuổi tác. Điều này cho thấy rằng vua Thái Đức tiếp tục sử dụng sổ bộ làng xã cũ mà ông ta đã tịch thu được, trong đó có hệ thống phân loại của nhà Nguyễn mà các sổ bộ đó đã áp dụng. Đáng tiếc là không có thông tin nào về việc vua Thái Đức sử dụng cơ chế này và trong điều kiện tốt nhất, có thể phỏng đoán rằng ông tiếp tục sử dụng hệ thống hiện hành của nhà Nguyễn dưới một hình thái không thay đổi.

Chúng ta có nhiều chi tiết hơn liên quan đến việc vua Quang Trung thực hiện cơ chế này trong lãnh địa phía bắc của ông. Ở vùng đó, dân chúng được phân loại theo cách dưới đây:

Vị cập: những người từ 9 đến 17 tuổi.

Tráng hạng: những người từ 18 đến 55 tuổi.

Lão hạng những người từ 56 đến 60 tuổi.

Lão nhiêu: những người từ 61 tuổi trở lên.

Nhiều yếu tố trong sự sắp xếp phân loại này rõ ràng là khởi đầu từ phương thức của hai họ Trịnh-Nguyễn. Điều hiển nhiên nhất là hệ thống mới này được hợp lý hóa, làm giảm số hạng còn có bốn. Thứ đến, hệ thống phân loại được đơn giản hóa này đã triệt tiêu cách xếp hạng dựa vào tình trạng không có ruộng đất và những biểu hiện khác của sự nghèo đói, mà chỉ nhắm chủ yếu vào tuổi tác. Một điều cũng đáng ghi nhận nữa là trong kế hoạch của nhà Tây Sơn, có một thành phần mới được bổ sung dành cho những người dưới 18 tuổi. Trong những cách phân loại trước đây, người dân chỉ được ghi tên vào sổ bộ khi được 18 tuổi. Nay một nỗ lực đã được thực hiện để ghi tên những người mới lên 9. Có thể đây là mưu định nhằm ngăn chặn tình trạng người dân thoát khỏi sự kiểm soát của nhà nước, bằng cách ghi tên họ vào sổ bộ từ rất sớm. Nhưng rõ ràng điều này cũng được thúc đẩy bởi ý định mở rộng số người mà chính quyền mới có thể gọi họ sung vào lính hay làm lao dịch. Vì vậy, trên thực tế, mọi người nằm trong độ tuổi 9 và 55 tuổi đều là những đối tượng tiềm năng của nghĩa vụ quân sự, qui định cứ ba người thì có một người tại ngũ và cứ 7 dân làng thì có một người đủ tiêu chuẩn đi lính*. Hình như nhà Tây Sơn coi những người trẻ là một nguồn lực quan trọng, và chúng ta sẽ thấy rằng họ định kỳ được sử dụng trong quân ngũ và trong những dự án lao động khổ sai*.

III. 1.3. Thẻ căn cước

Một khi dân chúng đã được kiểm kê và phân loại xong, chính quyền Tây Sơn tìm cách kiểm soát các hoạt động của họ và cột chặt họ vào gia đình hơn. Bước đầu tiên hướng đến những biện pháp như vậy ở Đàng Ngoài được một giáo sĩ Pháp đề cập đến vào năm 1788. Ông ta viết rằng tất cả du khách đều được yêu cầu phải có một thẻ căn cước nếu họ muốn đi khắp cả nước. Thêm vào đó, mỗi làng được lệnh xây dựng hai hay ba văn phòng để ghi tên khách bộ hành đi ngang qua, từ đó tạo ra một phương cách giúp qui định việc đi lại trong nước cũng như thu thập các số liệu về dân số. Hệ thống này không được nói đến trong các nguồn tài liệu khác, có vẻ như đã không được thiết lập một cách rộng rãi.

Ngay sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi Quang Trung hoàng đế, và cùng với một trong những cuộc điều tra dân số theo lệnh của ông, ông thực hiện một nỗ lực có tính hệ thống và mạnh mẽ hơn nhằm áp đặt sự kiểm soát lên mọi người. Giống như hệ thống có trước, hệ thống này nhằm sử dụng thẻ căn cước cá nhân do hoàng đế Tây Sơn thực hiện như một phương tiện theo dõi và kiểm soát hoạt động của dân chúng và dễ dàng nhận biết những làng xã mà họ thống thuộc. Những tài liệu này được gọi một cách thông tục là tín bài, do câu chữ ghi trên đó là thiên hạ đại tín. Một nguồn tư liệu về sau đã miêu tả hữu ích về những thẻ này và cách vận hành của hệ thống:

“Mỗi người sẽ có một thẻ, trên đó khắc mấy chữ ‘Thiên hạ Đại tín’ và một con dấu chính thức. Trên 4 cạnh của thẻ, người ta ghi tên, họ, lai lịch người đeo và dấu chỉ tay ngón cái bàn tay trái... Khi đi ra ngoài, người dân phải luôn mang theo thẻ, và nếu xảy ra trường hợp xét hỏi, họ phải lấy ra trình. Thẻ đó được gọi là ‘tín bài’ Và nếu một người không có thẻ thì... người dân được phép xem và hiểu điều đó. Sự kiện này được báo cáo và người không có thẻ sẽ bị bắt giữ và sung vào quân đội”.

Hệ thống thẻ căn cước là một sự đổi mới về phía nhà Tây Sơn: có vẻ như nó chưa có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam. Nó là một phần trong kế hoạch có tính hệ thống nhằm áp đặt sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước lên cá nhân người dân hơn là sự thực hành có tính qui ước quyền lực của nhà nước diễn ra một cách rộng rãi ở cấp làng xã. Chính thể mới nhấn mạnh rằng mọi người dân đăng ký với nhà nước và mang thẻ đăng ký, và qui định rằng ai không có một thẻ như thế và không xuất trình khi được yêu cầu sẽ lập tức bị bắt vào quân đội Tây Sơn.

Sách Hoàng Lê nhất thống chí đưa ra giả thuyết rằng những thẻ đó là một phần trong sự chuẩn bị kế hoạch xâm lược Trung Quốc của vua Quang Trung*. Tuy nhiên, một tài liệu khác là sách Tây Sơn thuật lược cho là chính sách thẻ tín bài đã được phác họa bởi Ngô Thì Nhậm, một danh sĩ và là cố vấn của vua Quang Trung. Nếu điều này đúng thì nó cho thấy rằng chính sách đó là một công cụ dùng để kiểm soát dân chúng hơn là một phương cách tăng cường việc bắt lính. Trong lúc không có một chỉ dấu nào cho thấy Nhậm có một tham vọng quân sự, ông rất quan tâm đến những người sống lang thang, một vấn đề mà ông đã kiến nghị với chúa Trịnh vào thập niên 1770. Một hệ thống như thế sẽ giúp hoàn thành mong muốn của ông đặt người dân dưới sự kiểm soát. Thật vậy, nếu hệ thống thẻ căn cước là một sáng tạo của Nhậm thì có thể ông đã được gợi ý từ sách Chu Lễ, một tác phẩm có từ thời tiền đế chế Trung Hoa mô tả những hệ thống các tư liệu nhận dạng để kiểm soát hoạt động của người dân.

Dù xuất phát từ đâu hay mục tiêu ban đầu như thế nào, rõ ràng là những thẻ nhận dạng như thế có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, ngay cả khi tác dụng đáng lưu ý nhất của nó là nhằm dọa dẫm cư dân Bắc hà. Bất kể mục tiêu của chúng là gì, thẻ căn cước rất không được dân chúng ưa thích và họ chỉ mang theo một cách rất miễn cưỡng. Như một tài liệu có miêu tả, chỉ có nỗi sự hãi mới khiến người ta bằng lòng mang theo thẻ: “Lúc ấy nhân dân sợ oai dữ của Huệ, cùng đưa nhau ra lãnh [thẻ] tín bài”. Một giáo sĩ Pháp viết rằng hệ thống này có tác dụng khiến người dân không muốn rời khỏi làng xã của họ vì sợ bị hỏi thẻ căn cước và có thể bị bắt đi lính. Sách Hoàng Lê nhất thống chí mô tả một phản ứng đối nghịch: dân chúng rời bỏ làng mạc và trốn vào vùng đồi núi để tránh phải mang thẻ và trình thẻ khi bị hỏi đến. Một nhân chứng khác cho biết dân chúng phẫn uất vì thẻ căn cước đến nỗi nhiều lần họ đứng lên làm loạn và bị lực lượng hùng mạnh của nhà Tây Sơn đập tan. Sự thù nghịch đó là điều không khó hiểu, vì hệ thống này, ít nhất về mặt lý thuyết, có một ảnh hưởng rất rộng, đạt đến một trạng thái mới, khiến người dân dễ bị nguy hiểm trước chính quyền và không dễ gì che giấu trước các quan lại. Sự thù nghịch kéo dài của người dân đối với hệ thống thẻ tín bài đã khiến cho chính quyền Tây Sơn xét lại và một thời gian ngắn sau cái chết của vua Quang Trung vào năm 1792, hệ thống thẻ tín bài bị bãi bỏ bởi tân quân là vua Cảnh Thịnh, ông cũng ngưng hẳn việc bố ráp những kẻ sống lang thang.*

III.2. VIỆC KHAI THÁC: BẮT LÍNH VÀ KHỔ DỊCH DƯỚI THỜI TÂY SƠN

III.2.1. Việc quân sự

Một khi dân chúng đã được kiểm kê, phân loại và vào sổ bộ, họ có thể bị chính quyền bắt tham gia vào nhiều công việc và công trình khác nhau. Nhu cầu quan trọng nhất nằm trong lãnh vực quân sự vì xét về mặt cơ bản, các lãnh tụ Tây Sơn rất quan tâm đến việc động viên và triển khai quân đội. Mặc dù họ đơn thuần là những người cuối cùng trong danh sách dài những vua chúa Việt Nam đã kêu gọi người dân phục vụ trong quân đội, yêu cầu về mặt quân sự họ đưa ra là rất phiền hà. Luôn có một kẻ thù đối đầu với nhà Tây Sơn, vốn là những người ngay lúc ban đầu đã tiến hành các chiến dịch quân sự qui mô lớn chống lại nhà Nguyễn từ năm 1773 đến năm 1778, và rồi từ năm 1782 đến năm 1785, những cuộc xung đột tiếp tục trở lại vào đầu thập niên 1790. Thêm vào đó, còn có một chiến dịch tuy ngắn ngủi nhưng rất qui mô nhằm đánh đuổi quân Thanh vào những năm 1788 - 1789. Khi không còn có sự thách thức của nhà Nguyễn hay nhà Thanh, nhà Tây Sơn tìm tới những cuộc xung đột khác: với họ Trịnh năm 1786, những cuộc tấn công quan trọng vào đất Lào những năm 1790 và 1791; và cuối cùng vào năm 1792, khi vua Quang Trung dự tính tấn công Trung Hoa trong một nỗ lực lấy lại hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây đã “mất”, rồi sau đó hoạch định một cuộc tấn công lớn chống lại chúa Nguyễn. Bên cạnh đó, còn có những cuộc chiến công khai trong nội bộ nhà Tây Sơn, trong đó có cuộc chiến ngắn ngủi nhưng gây ấn tượng mạnh nhất giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vào năm 1787, cũng là việc Nguyễn Huệ tấn công Nguyễn Hữu Chỉnh năm 1787 và Võ Văn Nhậm năm 1788, tiếp theo là những cuộc xung đột vào cuối thập niên 1790, khi triều đình Tây Sơn ở Phú Xuân chống lại những viên tướng phản bội ở Qui Nhơn.

Dưới thời các chúa Nguyễn, sau năm 1672, các cuộc chiến qui mô lớn tại Đại Việt giảm xuống, khi những cuộc xung đột với họ Trịnh đã kết thúc. Vì thế, đời sống của những người trong quân đội Đàng Trong vào thời kỳ này không phải lúc nào cũng gặp nhiều khó khăn. Tài liệu của các quan sát viên người châu Âu vào thế kỷ XVII mô tả quân đội nhà Nguyễn được tổ chức tương đối tốt và cho rằng quân lính được phép đưa gia đình theo với họ. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ XVIII, có vẻ như tình hình trở nên khó khăn hơn. Như Pierre Poivre đã viết vào năm 1749: "Những binh lính này bị thiếu ăn và thậm chí còn được trả lương thấp. Họ mòn mỏi trong cảnh sống cực nhọc cho đến khi tính khí thất thường của vị chúa Nguyễn đưa họ lên một vị trí đặc biệt”. Sự sa sút trong mức sống của binh lính trùng hợp với những chiến dịch quân sự ngày càng gia tăng, đặc biệt ở vương quốc láng giềng Chân Lạp, cùng những khu vực thuộc vùng cao. Và còn nữa, dù có sự xuống cấp trong điều kiện sống của những người phục vụ trong quân đội chúa Nguyễn vào giữa thế kỷ XVIII, vẫn còn có một khác biệt về chất lượng sống giữa những người bị cưỡng bách vào quân đội Tây Sơn và những người bị cưỡng bách vào quân đội nhà Nguyễn trước năm 1771, khi những người bị buộc vào quân đội Tây Sơn thường xuyên trải qua những cuộc xung đột qui mô lớn.

Trong các cuộc chiến của nhà Tây Sơn, không những tần suất các cuộc xung đột mà còn vì qui mô của nó báo trước điềm gở cho những nông dân bị buộc đi lính. Khi những đạo quân này phát triển về lực lượng thì cũng là lúc gia tăng số tai họa và những hậu quả kèm theo của chiến tranh giáng xuống đầu người dân Việt, kể cả lính hay dân. Các chứng cứ rời rạc cho thấy có hàng trăm ngàn người ngã xuống trên chiến trường và có thể có hàng chục ngàn người khác chết vì bị thương hay bệnh hoạn. Những báo cáo rải rác đây đó về tai họa cho thấy một ý niệm về sự mãnh liệt của cuộc xung đột. Có những tài liệu cho thấy lực lượng Tây Sơn đã sát hại 1.600 quân Nguyễn vào đầu năm 1774. Thập niên tiếp sau khá ác liệt, cuộc chiến giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn tiếp diễn, sự mãnh liệt của nó được tiết lộ trong một tài liệu phổ biến năm 1784 chép rằng chỉ trong thời gian 6 tháng, đã có 18 trận chiến lớn, trong đó Nguyễn Nhạc tổn thất “một phần ba” quân đội của ông, về sau, 30.000 quân Trịnh có thể đã chết trong chỉ một trận đánh vào năm 1786, trong cuộc tấn công của Nguyễn Huệ vào Phú Xuân. Khi Nhạc và Huệ tham gia vào một trận chiến ngắn ngay vào đầu năm 1787, một giáo sĩ cho biết Nhạc bị tổn thất 40.000 quân*. Trong những năm 1793-1794, quân Tây Sơn vẫn còn là bộ binh với 50.000 đến 60.000 quân, cho thấy là những cuộc đụng độ lớn vẫn tiếp tục diễn ra. Rồi trong những trận chiến quanh vùng Qui Nhơn năm 1801, một quan sát viên người châu Âu ghi nhận số tổn thất (cả chết lẫn bị thương) của quân Tây Sơn và quân chúa Nguyễn lên trên 54.000 người. Những con số này cho thấy rõ qui mô những cuộc chiến của nhà Tây Sơn và nhu cầu tiếp tục tìm kiếm tân binh để bổ sung lực lượng chính qui đang sa sút.

Lúc ban đầu, quân Tây Sơn được điền thế bằng những người tình nguyện, đặc biệt khi phong trào còn tự giới hạn trong những cuộc hành quân qui mô nhỏ ở vùng cao nguyên, chủ yếu nhằm tìm cách gia tăng quân số. Bằng cách này, vào năm 1774, quân đội Tây Sơn đã lên đến 25.000 người. Đó là một lực lượng đáng kể, song vẫn còn phải đối đầu với một đạo quân Nguyễn nhiều hơn, vì thế nên vào năm 1775, sau khi đã tự xưng vương, Nguyễn Nhạc đề ra một chi tiêu quân số cho các làng xã dưới sự kiểm soát của ông ta. Cứ 5 người nam thì mỗi làng xã bị buộc phải giao một người để sung vào quân đội. Từ thời điểm đó trở đi, đội ngũ quân Tây Sơn không còn được bổ sung bằng những người hăng hái tình nguyện nữa, mà ngày càng nhiều bởi những người miễn cưỡng bị bắt lính. Cách thức mà các lãnh tụ Tây Sơn dùng để tuyển mộ lính thay đổi trong không gian và thời gian. Trong lúc Nhạc qui định cứ 5 người đàn ông thì có một người phải đi lính thì ở phía bắc, Nguyễn Huệ bắt cứ 3 dân làng phải có một người đi lính. Những tài liệu về sau của nhà Nguyễn cho rằng chế độ Tây Sơn ở phía nam thiết lập những nguyên tắc chỉ đạo trước về số lính mỗi làng phải cung cấp theo tỷ lệ 1 trong 7 người. Tuy nhiên, tài liệu này cũng nêu lên giả thuyết rằng những nguyên tắc chỉ đạo đó thường bị hoãn lại, với mỗi dân làng phải phục vụ như một người lính. Vào đầu năm 1776, Lê Quý Đôn cũng ghi rằng Nhạc buộc "mọi người dân ở phủ Qui Nhơn phải phục vụ như những người lính”, điều này cho thấy là những chỉ đạo đã soạn sẵn nhanh chóng bị gạt qua một bên. Một tài liệu tương tự về sau cho rằng cho dù Nguyễn Huệ dùng sổ bộ của làng xã để tuyển mộ người đi lính thay vì bắt lính theo một tỷ lệ nào đó trong số người đủ tư cách, trong ít nhất một trường hợp cá biệt, ông đơn thuần bắt sung vào quân đội tất cả những người trong độ tuổi 15 đến 60. Với nguy cơ cao bị tử trận hay bị thương từ một trận đánh lớn và kéo đài, cùng với đời sống khắc nghiệt trong quân đội Tây Sơn, các lãnh tụ cuộc nổi dậy phải bố ráp người một cách bừa bãi. Không có gì ngạc nhiên khi thấy rằng nhiều người bị cưỡng bách sung vào quân đội Tây Sơn đã đào ngũ càng nhanh càng tốt, trốn đi mà không đủ thức ăn, bị đối xử tàn nhẫn dưới bàn tay những kẻ chỉ huy, và nỗi khó khăn của những cuộc cưỡng bách hành quân nhanh như chớp. Nhiều tư liệu (xin xem phía dưới) mô tả các nhà lãnh đạo Tây Sơn, đặc biệt ở phía trên Đàng Trong và Đàng Ngoài, thường xuyên tuyển mộ người mới để thay thế quân đào ngũ, và làm điều đó một cách bừa bãi*. Vì vậy, khi Nguyễn Huệ tiến hành cuộc chiến năm 1787 chống Nguyễn Nhạc, ông đã nhanh chóng tập hợp một đạo quân đáp ứng được yêu cầu của ông: "(Huệ) trở lại đấy vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4 với khoảng 50.000 người, hoặc chính xác hơn, với 50.000 nông dân hoặc những kẻ sẵn sàng tòng quân được tuyển mộ vội vã, những quân lính trước đây của ông đã gần như bỏ ông đi hết vì sự tàn ác của ông đã để cho họ chết đói”*. Một kết quả của chiến lược tuyển mộ như thế là sự hình thành một lực lượng khố rách áo ôm với tỷ lệ đào ngũ cao sau đó là điều không có gì đáng ngạc nhiên. Ngay cả việc Nguyễn Huệ tuyển mộ lính cho đạo quân của ông để đánh đuổi quân Thanh cũng được thực hiện theo cung cách đặc biệt như thế, hình thành một lực lượng được một tài liệu đương thời miêu tả như sau:

Hình 7: Một lính Tây Sơn năm 1793. Tranh vẽ của William Alexander, một thành viên của phái bộ Huân tước Mc Cartney năm 1793. Cho dù có tính cách điệu, hình vẽ cũng cho thấy trang phục và vũ khí của binh sĩ Tây Sơn bên trong và quanh khu vực cung điện của nhà Tây Sơn. Tranh từ sách A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793 (Chuyến du hành sang Đàng Trong những năm 1792-1793) của John Barrow (London, T. Cadell & W. Davies, 1806; in lại tại Kuala Lumpur bởi Oxford University Press, 1975).

"Vào thời điểm đó (cuối năm 1788), bạo chúa mới của Đàng Trong biết về sự có mặt của quân Thanh và những thành tích của họ. Vì ông là một con người xuất sắc và được coi như một Alexandre Đại đế thứ hai, ông bổ sung vào trong chiến dịch của mình tất cả những người mà ông tình cờ gặp phải, đàn ông, trẻ con, người cao tuổi, và đạo quân của ông có dáng vẻ của một đoàn người đi cứu tế hơn là những chiến binh”*.

Đối đầu với sự phản kháng hàng ngày trong quân đội của họ và nhiều binh lính đào thoát ở chiến trường, các lãnh đạo quân sự nhà Tây Sơn ngày càng chấp nhận những biện pháp cưỡng bức để quân đội của họ có đầy đủ sức mạnh và thường xuyên sử dụng sự thô bạo trong mối tương quan của họ với dân chúng và các quan lại địa phương. Theo nhiều tài liệu, nhà Tây Sơn nhanh chóng cưỡng bách dân chúng gia nhập vào quân đội của họ và cũng nhanh chóng trừng phạt những ai từ chối vào quân đội.

Trên phương diện này, nhà Tây Sơn đã theo cách làm của nhà Nguyễn vào thế kỷ XVII và có thể sớm hơn. Như Li Tana đã viết:

“Luật tuyển quân của nhà Nguyễn rất chặt chẽ. Khoảng năm 1671, Vachet viết rằng: ‘một người sẽ bị mất đầu nếu bị phát hiện đang tìm cách trốn lính’, ông cũng thêm rằng nếu một quan lại phụ trách tuyển quân chấp nhận việc bắt người dưới tiêu chuẩn làm lính, ông ta cũng sẽ mất đầu. Xem tài liệu của Da Shan vào thập niên 1690, cách tuyển quân diễn ra ở mỗi làng xã chỉ kém hơn tai họa một chút”.

Sự đổi mới của nhà Tây Sơn, nếu có thể gọi như thế, đã làm gia tăng mức độ và phạm vi tàn bạo được dùng để đe dọa người dân, buộc họ phải tán đồng những yêu sách của Tây Sơn.

Việc hành hình là phản ứng đáp lại sự đối kháng diễn ra trong những ngày đầu tiên của cuộc nổi dậy, và vẫn là một yếu tố quan trọng trong chính sách quân sự của nhà Tây Sơn cho đến ngày cuối cùng của chế độ. Ngay khi cuộc nổi dậy mới nổ ra, cũng ông giáo sĩ Tây Ban Nha từng viết rằng nhà Tây Sơn được hoan nghênh là “những kẻ cắp nhân đức và từ thiện”, đã nhận xét rằng “họ nổi lửa thiêu hủy tư dinh của viên quan trấn thủ, làm chủ toàn bộ trấn mà không gặp một sự đối kháng nào, vì họ đã hành hình tất cả những ai chống lại họ”. Thật vậy, cũng nguồn tư liệu trên viết rằng trong những yếu tố khác nhau, chính nỗi sợ hãi đối với người lãnh đạo Tây Sơn là Nguyễn Nhạc đã dẫn đến những thắng lợi ban đầu của quân Tây Sơn. Những chính sách như thế kéo dài suốt thời kỳ Tây Sơn, và vào năm 1801, thư của một giáo sĩ viết rằng “ngay giữa lúc rối loạn đó, nhà Tây Sơn cũng không đánh mất sự sáng suốt của họ và đã tiến hành một đợt tuyển quân mới; không ai dám từ khước, vì những ai làm thế là bị chém đầu ngay tức khắc. Vì thế, không chỉ những người chết trên bãi chiến trường, nếu họ không may bị sung vào quân đội, mà còn có những người ngã xuống vì đã cố gắng cưỡng lại việc bắt lính ngay từ đầu.*

Trong lúc các nhà lãnh đạo quân sự Tây Sơn hành hình nhiều người cưỡng lại các nỗ lực tuyển quân của họ, họ còn hành xử đặc biệt tàn bạo với những người đã ở trong quân đội của họ - để trui rèn họ trong chiến đấu, hăm dọa để họ không có âm mưu trốn đi, và có lẽ cũng để ép buộc người dân địa phương phải hợp tác với họ. Thư của một giáo sĩ viết năm 1788 đã miêu tả sự kiểm soát tàn bạo do tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm và các quan lại của ông ta thực hiện:

“Tài năng của những con người này là giết rất nhiều người để làm cho họ sợ và biết tuân thủ hoàn toàn. Họ cũng giết nhiều người không vì lý do nào cả. Khi họ rời đi và mang theo đạo quân hùng hậu bị cưỡng bách, họ nhân đôi sự hung bạo của họ. Gây ra một sơ suất nào đó hoặc quấy rầy ai, hoặc vì một việc tương tự nào đó, hoặc thậm chí không có một vi phạm nào, những người lính cũng có thể bị chém đầu. Trong một khoảng không gian chừng nửa dặm đường, người ta có thể nhìn thấy 15 thi thể bị giết theo cách này”.*

Sự mô tả trên cho thấy một kiểu đe dọa được tạo ra để buộc người dân tham gia vào quân đội Tây Sơn và giữ họ ở đó. Đôi khi có vẻ như những mối đe dọa này mở rộng thành hành vi ăn thịt người theo nghi thức. Một bức thư có lẽ được viết năm 1795, ghi rằng; “những kẻ nổi loạn chiếm đóng toàn bộ Đàng Ngoài và phần trên của Đàng Trong, gây ra những phiền toái và làm điều hung bạo với một tính cách kỳ lạ nhất, đến mức khiến cho lính của họ uống máu người và ăn thịt những người vẫn còn sống để tập cho lính quen với sự tàn bạo"*. Tin đồn về cách hành xử như vậy không chỉ có trong các tài liệu của các giáo sĩ Pháp, mà còn cả trong sử của triều Nguyễn vào thế kỷ XIX. Chẳng hạn như sách Đại Nam thực lục mô tả một cuộc đối đầu giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn, trong đó một tướng nhà Nguyễn bị bắt giữ, và sau khi từ chối thỏa hiệp trước sự đe dọa của phía Tây Sơn, ông đã bị giết và bị ăn thịt.*

Tuy nhiên, với tất cả tính chất nguy hiểm của nó, việc sử dụng biện pháp hành hình và các hình thức dọa dẫm khác không đủ để duy trì sức mạnh cần thiết của binh lính trong quân đội Tây Sơn. Vì thế, các lãnh tụ Tây Sơn cũng đã áp dụng những chiến lược khác để giữ chân và thu hút binh lính, bao gồm các biện pháp thuyết phục hơn là cưỡng bách. Cách phổ biến nhất, đặc biệt vào những năm cuối cùng của chế độ, là các lãnh đạo quân sự Tây Sơn thăng thưởng binh lính của họ, hi vọng sự hãnh diện về cấp bậc có thể thuyết phục binh lính ở lại quân ngũ. Năm 1797, một giáo sĩ đề cập đến tình hình huyện của ông ta ở Đàng Ngoài rằng: “hầu hết đàn ông đều đã chết trong chiến tranh hoặc do những tai ương khác đã diễn ra trên đất nước này trong 25 năm qua, ít người còn ở lại phụng sự bạo chúa, và hầu như các võ tướng, quan lại cũng thế, một ít người còn ở trong quân đội, những người khác ở công sở, cơ quan tư pháp”*. Tương tự như thế, mấy năm sau, vào năm 1801, một nhà quan sát quân sự người Âu khá nhạy bén đã ghi nhận cái cấu trúc nặng phần đầu một cách khác thường của quân đội Tây Sơn ở Đàng Trong. Miêu tả quân nổi dậy sau một chiến thắng quan trọng của quân nhà Nguyễn với kết quả là 13.700 lính Tây Sơn bị bắt giữ, ông ta viết:

“Có trên 144 Chưởng cơ, Vệ úy, và Phó vệ úy* trong một trại giam rộng lớn ở dinh thự nằm bên phải lối ra vào. Tất cả đều bị xiềng xích. Ngoài ra, còn có 500 đến 600 người khác bị xiềng nhẹ hơn. Các Cai cơ, Cai đội chừng 3.500 đến 4.000 người thì bị mang gông”*.

Mặc dù các cấp bậc được ghi ở đây theo thuật ngữ châu Âu, hình như có thể thấy rõ một sự mất cân đối trong quân đội Tây Sơn giữa những người có cấp bậc cao so với binh lính thường.

Những chỉ dấu của khuynh hướng này cũng có thể tìm thấy trong các tài liệu của người Việt, sổ bộ làng từ một thôn ấp nằm ở phía bắc Phú Xuân, bên trên Đàng Trong, đề năm 1799, ghi là có 295 đàn ông đủ tiêu chuẩn trong làng, trong đó 122 người hoặc có danh hiệu cao quý, hoặc ở địa vị võ quan. Trong những điều kiện bình thường, thật khó mà có đến 41% đàn ông trong làng có các danh hiệu hoặc cấp bậc như thế trong quân đội. Thật vậy, trường hợp này cho thấy rằng các danh hiệu và cấp bậc cao trong quân đội đôi lúc được ban phát một cách hào phóng để thu hút hay giữ chân người ủng hộ. Thêm vào đó, sự bành trướng một cách mạnh mẽ thành phần quan võ Tây Sơn không làm mất người trong dân chúng nói chung, xét về các biến động quân sự vào cuối thời kỳ Tây Sơn. Một câu nói có tính chế nhạo vào những năm cuối cùng của nhà Tây Sơn, phê phán cơ cấu kỳ lạ của đạo quân nổi dậy:

Tướng chỉ huy ta có 3.000 người.

Các tướng trong quân đội, ta có 80.000 người.

Các quan võ, nhiều không đếm xuể.

Quan lại cấp thấp, ta lấy thuyền mà chở.

III.2.2. Lao dịch

Ngoài việc quân, nhà Tây Sơn còn bắt dân chúng phải đáp ứng những yêu cầu liên tục về sự lao dịch. Đây là một nghĩa vụ khó nhọc khác và tốn kém thời gian, đe dọa đời sống của người dân và đẩy họ ra khỏi những ruộng đồng của họ. Giống như các chúa Nguyễn, chúa Trịnh trước họ, và triều Nguyễn sau họ, nhà Tây Sơn dựa vào sự lao dịch của người dân để thực hiện những dự án lớn lao và tầm thường của họ*. Trong một thời kỳ mà chiến tranh và sự tàn phá nặng nề như cuối thế kỷ XVIII, có lẽ khó mà tránh được yêu cầu đóng góp sức lao động lớn lao vừa để ủng hộ các chiến dịch quân sự, vừa để xây dựng và tái thiết những hạ tầng cơ sở đã bị tàn phá trong chiến tranh. Trong lúc một vài hình thức lao dịch do chính quyền Tây Sơn yêu cầu có thể nói là có lợi cho dân địa phương - chẳng hạn như tu sửa đê điều hoặc làm lại những con đường đã hư hỏng- nhiều dự án khác có rất ít hoặc không mang lại lợi ích cụ thể nào cho những người bị bắt ép phải tham gia.

Nhu cầu lao dịch biểu hiện rất sớm trong phong trào Tây Sơn, và có lẽ sự tiếp cận với một cuộc chiến mang tính hủy diệt của nhà Tây Sơn - đốt cháy những gì có thể là những công trình hữu dụng - đã góp phần tạo ra những yêu cầu lao dịch vô độ của họ*. Chẳng hạn như khi chiếm lĩnh phủ lỵ Qui Nhơn vào năm 1773, quân nổi dậy đã nhanh chóng thiêu hủy tư dinh của viên tri phủ. Một thời gian ngắn sau, “họ đốt cháy tư dinh của quan phủ Quảng Ngãi và xây dựng một tư dinh mới”*. Quân đội Tây Sơn cũng gây ra những cuộc tàn phá trên diện rộng tại các thị trấn duyên hải quan trọng là Đà Nẵng và Hội An, riêng Hội An bị tàn phá đặc biệt nghiêm trọng. Họ cũng tàn phá những thị trấn ở xa về phía bắc sau khi đã xâm chiếm Đàng Ngoài vào năm 1786*. Dù các công trình xây dựng bị thiêu hủy bằng đuốc hay bị dỡ từng viên gạch, cuối cùng chỉ có người dân là phải xây dựng lại những gì đã bị tàn phá.

Đặc biệt hơn, chính người dân địa phương bị trưng dụng để thực hiện những dự án này và vì thế mà sự phân bố lao động có tính thất thường. Trong lúc có nhiều dự án qui mô nhỏ nhằm tái thiết nhà cửa và đường sá, xuyên suốt thời kỳ Tây Sơn, gánh nặng lao dịch nặng nề nhất rơi vào những người dân sống sát cạnh các trung tâm chính trị của chính quyền Tây Sơn. Dự án đầu tiên nhằm xây dựng một trung tâm chính trị mới vào năm 1775 khi Nguyễn Nhạc bắt đầu sử dụng lao công địa phương để củng cố các công sự và dựng lên các kiến trúc ở Chà Bàn. Mặc dù tại vị trí này, các phế tích một thành lũy của người Chăm vẫn còn tồn tại, công việc chủ yếu cần làm là củng cố các bức tường thành, xây dựng một không gian sống và lao động bên trong khu vực. Đó là tài liệu mắt thấy tai nghe duy nhất miêu tả chi tiết về nhà Tây Sơn “ kiểm soát Chà Bàn từ năm 1778, và kể về một thị trấn mà các thành lũy vẫn còn ở tình trạng chưa được tu sửa. Có giả thuyết cho rằng hoặc công trình chưa được hoàn thành - mặc dù nhân chứng (Charles Chapman) không cho biết đã thấy một toán lao công nào - hoặc công trình bị đình hoãn do người lao động đã trốn khỏi hiện trường, khiến cho nhà lãnh đạo Tây Sơn không còn đủ người để hoàn thành dự án.

Một kiểu mẫu tương tự cũng được tìm thấy ngay sau khi Tây Sơn tiến ra bắc vào năm 1786. Sau khi quân của ông đã chiếm lấy Phú Xuân từ tay quân Trịnh, Nguyễn Huệ bố ráp dân địa phương và buộc họ làm việc ngày đêm để tái thiết các công sự trong kinh thành, để biến nơi đây thành trung tâm chính trị riêng của ông. Cùng lúc đó, Huệ cũng bắt đầu khôi phục Lũy Sầy* ở phía bắc Phú Xuân, trước đây đã được dùng để bảo vệ quân Nguyễn chống lại quân Trịnh. Dự án này giống như dự án tái thiết khu phòng thủ kinh thành, đòi hỏi sự đóng góp sức lao động lớn lao của dân địa phương. Giáo sĩ Pháp Jean Labartette viết rằng, yêu cầu lao động nặng đến nỗi tất cả các thành phần dân chúng đều bị buộc phải tham gia, chi trừ các bà mẹ đang cho con bú.

Bốn năm sau, vào năm 1790, Nguyễn Huệ (lúc này là Quang Trung hoàng đế) bắt đầu tuyển lao động cho công trình quan trọng xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô mới của ông. Một tài liệu viết vào năm 1791 mô tả sự khó nhọc mà những người bị cưỡng bách lao động trong công trình đó phải đối đầu:

“Dân và lính ngập tràn, họ bận rộn không ngừng trong việc xây dựng một thị trấn mà những kẻ nổi loạn đang dựng lên. Một số người được phái đi tìm gỗ trong rừng, trong khi những người khác đào trong đất tìm đá; có người nung gạch ngói và những người khác thì làm việc trên những vùng đất cao hay những mương rãnh. Tất cả những việc đó được làm với phí tổn do dân chịu”.

Về sau một nhà chép sử biên niên người Việt viết rằng: Các quan chức trong vùng thúc giục người dân ở tất cả các huyện đi tới An Trường để lấp các ao hồ và đẵn gỗ. Phản ứng của người dân là chống lại dự án này, nhiều người từ bỏ công việc đang làm và trốn đi. Vì thế, như khi nhà Tây Sơn liên tục tuyển mộ lính mới thay cho lính đào ngũ, tình trạng tương tự cũng xảy ra với việc lao dịch.

Trong lúc những dự án qui mô lớn nhằm xây dựng một kinh đô mới có lẽ là nguồn gốc hiển nhiên nhất của sự gian khổ đối với người dân Việt, họ cũng bị cưỡng bách cung cấp sức lao động cho vô số dự án nhỏ khác. Đó là trường hợp trong phạm vi lãnh địa của nhà Tây Sơn, song hình như nó đặc biệt đúng ở Đàng Ngoài, nơi Nguyễn Huệ cùng các thuộc tưởng của ông và những người kế tục không ngừng đòi hỏi ở người dân của mình. Sự việc bắt đầu với sự sách nhiễu của Huệ quanh vùng Phú Xuân vào năm 1786 và tiếp tục xa hơn về phía bắc vào năm 1788, khi có tin tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm bắt mọi người phải sửa chữa các bức tường thành cũ quanh Hà Nội, một hành động làm cho người dân oán giận, và như chúng ta đã thấy, điều này góp phần vào việc Nguyễn Huệ loại trừ ông ta sau đó. Rồi khi chiến tranh với nhà Nguyễn kéo dài đến thập niên 1790, sự sách nhiễu về lao dịch của nhà Tây Sơn “cho những dự án từ việc làm lại cầu, đường, đến việc xây dựng và sửa chữa công sự - chỉ có tăng lên mà thôi. Năm 1794, lại thêm một loạt những yêu cầu lao dịch khác, được miêu tả là đã làm kiệt quệ người dân sống dưới sự kiểm soát của nhà Tây Sơn. Bốn năm sau, tình hình vẫn không cải thiện, và một lá thư khác của một giáo sĩ viết: “Người dân chưa bao giờ bị quấy rầy nhiều như thế. Họ phải cống nộp gấp đôi trong năm nay, phải đào những con kênh để chuyên chở gạo từ Đàng Ngoài vào miền thượng Đàng Trong và làm những chiếc giỏ để chuyển gạo bằng đường bộ ở những nơi người ta không thể đào kênh được”.

Để đáp ứng những yêu cầu lao dịch liên miên của họ, các nhà lãnh đạo Tây Sơn mở rộng các nhóm người trong xã hội là đối tượng để làm những công việc như thế. Họ bao gồm phụ nữ và những nhóm khác trong xã hội trước đây được miễn (hoặc ít sử dụng thường xuyên), gồm trẻ em, người già, và tu sĩ Phật giáo. Như đã lưu ý ở trên, khi quân Tây Sơn vào Thuận Hóa năm 1786, họ lập tức bắt mọi người làm việc, chỉ trừ các bà mẹ đang cho con bú. Sau đó, có thể việc sử dụng phụ nữ giảm xuống, nhưng vào mùa hè năm 1792, một giáo sĩ ở Đàng Ngoài thuật lại rằng “vừa có một chỉ thị là trong tất cả những làng xã không có đủ đàn ông để làm việc công ích, phụ nữ sẽ được sử dụng, và những phụ nữ chưa chồng được giao việc vác đá để xây dựng công sự”. Một vài dân làng, ít nhất trong trường hợp này, cố thể làm lung lạc sức mạnh của mệnh lệnh bằng mưu chước đi tìm các cô gái độc thân trong làng và ép họ lấy chồng. Bằng cách này, các làng xa có thể tránh được gánh nặng phải cung cấp đồ tiếp tế cho những cô gái được cử tham gia các dự án xây dựng. Tuy nhiên, việc này làm phát sinh những khó khăn và sức ép đối với dân địa phương.

Những sức ép như thế cũng kéo dài với những ai thường được coi là còn quá trẻ hoặc quá già để có thể trở thành đối tượng của những yêu cầu lao động trong nước. Hệ thống phân loại ghi danh những đàn ông trong làng từ lúc 9 tuổi đã là một chỉ dấu cho thấy rằng chính quyền mới kéo lùi giới hạn tuổi để có sự tham gia rộng rãi hơn trong xã hội và sẵn sàng đặt trẻ em trong tình trạng khả dụng khi cần đến. Như chúng tôi đã lưu ý ở trên, năm 1787, Nguyễn Huệ bắt những trẻ 15 tuổi vào lính. Đó không chỉ là công tác quân sự, mà còn là những loại lao động khác áp đặt cho giới trẻ. Một thư của giới giáo sĩ vào năm 1791 thuật lại rằng "nếu còn có bất cứ người trẻ tuổi nào trong làng, đó là vì họ được miễn trừ do đã có những đóng góp rất lớn. Thêm vào đó, vào những ngày này, còn có một mệnh lệnh bắt tất cả thanh thiếu niên từ 12 đến 15 tuổi đi phục vụ cho các con của nhà vua”.

Những đứa trẻ này, và nhiều trẻ khác từ 7 đến 8 tuổi được chọn để thành lập một đội bảo vệ đặc biệt cho một trong những người con của vua Quang Trung (khoảng 6 hay 7 tuổi) vừa được chọn làm người lãnh đạo chính quyền ở Đàng Ngoài. Cũng có rải rác những chứng cứ về việc chính quyền nhà Tây Sơn sử dụng những đàn ông, đàn bà lớn tuổi làm những công việc nặng nhọc, và cả những người đàn ông 60 tuổi bị buộc phải làm lính. Vào những thời điểm khác, những người già hơn cũng đã tình nguyện gia nhập vào quân đội Tây Sơn. Có trường hợp một nhóm người già lão sống ở Thăng Long hình thành một đội “bạch đầu quân" nhằm hỗ trợ cuộc tấn công quân Thanh vào năm 1789, một hành động được vua Quang Trung đích thân khen thưởng.

Cuối cùng, các lãnh tụ Tây Sơn, vốn ít chú trọng đến giáo lý Phật giáo, đã không băn khoăn gì khi bắt các tu viện Phật giáo phải lao động. Thông thường nhất là họ bắt các thầy tu phải rời tu viện (nhiều tu viện đã bị quân Tây Sơn cướp phá và sử dụng làm chuyện khác) để đi khuân vác hoặc làm lính trong hàng ngũ quân nổi dậy. Việc dùng thầy tu lao động theo lệnh của nhà nước như thế là điều rất bất thường vào thời kỳ Tây Sơn, vì theo truyền thống, những người thuộc giới tu sĩ được miễn lao dịch và thuế má. Quyết định của các lãnh tụ Tây Sơn bắt bất cứ ai mà họ coi như một nguồn lao động thuận lợi và chưa được khai thác một lần nữa cho thấy một mức độ cao về chủ nghĩa thực dụng hơn là về ý thức hệ đang dẫn dắt phong trào. Cùng lúc ấy, nhà Tây Sơn tấn công các trung tâm tu tập Phật giáo và việc phân tán những người ở trong đó cho làm lao dịch có thể còn có một lý do thứ hai, đó là giảm thiểu khả năng những chốn tu tập đó được sử dụng như những ổ đề kháng, vì cũng có những dấu hiệu cho thấy điều đó đã xảy ra.

Dù yêu cầu lao động xảy ra thường xuyên gây ra sự phiền hà cho tất cả các nhóm người trong xã hội, thỉnh thoảng chúng cũng tạo ra lợi ích cụ thể cho những người thực hiện. Chẳng hạn như những dự án sửa chữa đê đặc biệt quan trọng ở Đàng Ngoài, nơi đồng ruộng gần sông được tạo ra những bờ đê bằng đất để kiểm soát dòng chảy khó đoán trước của nó. Những vụ vỡ đê định kỳ thường tàn phá trên một diện rộng, đôi lúc cuốn đi hàng ngàn ngôi nhà. Một văn kiện miêu tả dự án sửa chữa đê năm 1795 tại trấn Sơn Nam (một khu vực đất phù sa bồi trải dài theo bờ phía nam con sông Hồng, từ Thăng Long ra đến bờ biển) được thực hiện dưới sự giám sát của một viên chức quan trọng của nhà Tây Sơn là Phan Huy ích, đã cho thấy dấu hiệu về ý nghĩa của những công trình như thế:

“Tôi nhận được lệnh giám sát việc đắp đê, đích thân đi xem xét và kiểm tra khắp nơi, sông và buộc dân tham gia bằng cách mang tre tới và bắt đầu dựng lên; tôi cũng thông báo cho họ thời hạn chót phải hoàn tất, để họ không xao nhãng. Sau một tháng, công trình hoàn tất, Dân chúng có mệt đôi chút, nhưng họ được lợi chung, và mọi người nhận thấy điều đó có lợi”*.

Sự miêu tả của Phan Huy ích rõ ràng là có tính lý tưởng hóa, có thể hiểu được là những người lao dịch cũng thấy được sự góp công của họ theo cách đó. Thật vậy, có lẽ như những người lao động hiểu được nhu cầu của các dự án bảo vệ đê vốn đã không được làm gì cả trong những năm tháng rối ren. Những dự án sửa chữa đê như trên tiêu biểu cho những trường hợp hiếm có mà sự lao động của dân chúng có lợi trực tiếp cho những người bị buộc phải thực hiện chúng. Một loại dự án lao động công ích khác cũng mang lại lợi ích là những nỗ lực tái thiết đường sá, vì những con đường này giúp chuyên chở thực phẩm cần thiết cùng những hàng hóa thương mại nói chung. Tuy nhiên, phần lớn những dự án khác như xây dựng công sự, thành trì, dinh thự hay công sở không phải là những lợi ích tức khắc hay rõ ràng đối với những người lao động bị buộc phải thực hiện chúng.

III.3. BÒN RÚT TÀI NGUYÊN: CƯỚP PHÁ, ĐÁNH THUẾ VÀ NHŨNG LẠM

Quân vụ và lao dịch cưỡng bách những người dân miễn cưỡng thi hành chỉ thể hiện một khía cạnh của áp lực của nhà Tây Sơn lên những người sống dưới sự kiểm soát của họ. Mặc dù những việc như thế đáp ứng nhiều nhu cầu cấp bách, song các lãnh tụ quân nổi dậy và những nhà lãnh đạo đất nước sau đó còn cần đến những đóng góp rõ ràng hơn. Vì thế, trong suốt thời kỳ Tây Sơn, người dân Đại Việt bị buộc phải thường xuyên cung ứng cho chính quyền các sản phẩm vật chất. Những đóng góp này đôi lúc dưới hình thức tiền bạc, song thường xuyên hơn gồm hàng hóa các loại, từ sản vật, thú nuôi đến những đồ quý giá khác. Hình thức của những sự bòn rút này thay đổi, phản ánh mục tiêu và sức mạnh của những người thực hiện chúng. Sự cướp phá đơn thuần do binh lính thực hiện, phổ biến trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy, vẫn là thành phần trung tâm trong chiến lược bòn rút của nhà Tây Sơn. Thứ đến, những thành phần có tổ chức hơn trong chính quyền Tây Sơn thu lợi bằng hiện vật hay tiền bạc qua việc thu thuế theo qui định thông thường hoặc sử dụng quân đội để cưỡng bách dân chúng phải đóng góp. Cuối cùng, các quan lại hoặc viên chức chính quyền địa phương thối nát sẽ ép buộc người dân sống dưới sự kiểm soát của họ phải đóng góp tài nguyên hay tiền bạc. Ở một mức độ nào đó, đối với người nông dân Việt trung bình, cơ chế đặc biệt dùng bòn rút lợi lộc không thích đáng, vì kết quả cuối cùng chắc chắn là không như nhau.

III.3.1. Sự cướp bóc (Sự “tái phân phối của cải”)

Việc tịch thu sản vật và đồ quân dụng, hoặc với mục đích tái phân phối, hoặc giữ lại chúng cho quân đội là một thành phần quan trọng trong việc tiếp cận quyền lực của các cấp lãnh đạo thực dụng của nhà Tây Sơn. Một mặt, lúc ban đầu, cuộc nổi dậy được dẫn dắt và hỗ trợ bởi những vụ tịch thu như thế, vốn được các nhà quan sát đương thời gọi là “sự trộm cắp từ thiện", các sử gia nhà Nguyễn thế kỷ XIX thì gọi là “cướp bóc”, còn các học giả hiện nay thì gọi là “phân phối lại của cải". Chứng cứ từ những ngày đầu tiên của phong trào cho thấy rằng quân đội Tây Sơn tái phân phối của cải như một cách hữu hiệu giúp giành được sự ủng hộ của dân chúng và tăng cường đội ngũ của họ. Trong lúc chắc chắn là những người nông dân nghèo hơn được hưởng lợi từ một số hành vi ban đầu của nhà Tây Sơn nhằm phân phối lại tài sản, thì khi những đạo quân của họ lớn mạnh hơn, việc tịch thu sản vật trở nên bừa bãi hơn.

Tài liệu miêu tả này xuất hiện năm 1774:

“Trước khi bỏ đi, quân nổi dậy tàn phá toàn vùng, không để sống sót một con gà... Họ tịch thu 82 khẩu súng đại bác bằng đồng do người Hà Lan và người Anh tặng cho chúa Nguyễn để bảo vệ thủ phủ của trấn này*, ở đó có cảng Tourane*; quân nổi dậy cũng bắt đi 45 con voi, nhiều vũ khí, trống và cờ cùng một lượng đồ vật khác. Mỗi quan chức rời đi cùng với hơn 12 chiếc thuyền lớn chở đầy của cải, đi bằng đường biển về địa phương nơi họ đóng quân”.

Những hành động đó đưa đến kết quả là người dân trở thành nạn nhân hơn là người được hưởng lợi từ những chiến dịch quân sự được gia tăng một cách đột ngột của nhà Tây Sơn. Vì thế, vị giáo sĩ Tây Ban Nha miêu tả cuộc tấn công có sức tàn phá của nhà Tây Sơn đã tiếp tục nhận xét rằng: “về phần dân chúng, họ tập hợp lại trong hàng ngũ của chúa Nguyễn*, bởi vì những kẻ nổi loạn đã lấy hết những gì họ có, sau khi đã cướp phá toàn thị trấn; vì vậy mà quân của chúa Nguyễn không gặp khó khăn gì khi chiếm lại thị trấn, khiến cho đối phương phải bỏ chạy”. Lời dẫn giải cho thấy rằng lợi ích về mặt chính trị của sự cướp phá chỉ là sự may mắn nhất thời và những hành động như thế thường làm cho người dân xa lánh hơn là lôi kéo họ về phía quân nổi dậy*. Dù vậy, hình như quân Tây Sơn vẫn tiếp tục việc cướp phá trong các chiến dịch quân sự trải dài suốt thời gian còn lại của thập niên 1770. Khi Charles Chapman thăm vùng duyên hải Đàng Trong vào năm 1778, ông đã gặp những dân làng đói rét bị quân Tây Sơn cướp bóc những tài sản ít ỏi của họ khi đạo quân này đi qua địa phương giữa lúc nạn đói đang diễn ra. Những cuộc cướp bóc như thế vẫn tiếp tục trong những lần tấn công sau đó của quân Tây Sơn vào Gia Định giữa những năm 1782-1785.

Mức độ cướp bóc của quân Tây Sơn gia tăng khi những kho báu của Đàng Ngoài nằm trong tầm tay của họ vào năm 1786. Mặc dù Nguyễn Huệ tìm cách áp đặt kỷ luật lên quân đội của ông trong những giai đoạn đầu tiên của chiến dịch đánh ra bắc, họ vẫn lấy đi nhiều vàng bạc trong phủ chúa Trịnh ở Thăng Long, cùng với tất cả vũ khí và quân dụng cất giữ tại kinh thành. Như một quan sát viên đã diễn tả: "quân Đàng Trong* cướp lấy mọi thứ vàng, bạc, súng lớn, súng nhỏ, đồ gia dụng, voi, ngựa; họ để lại đàng sau không có gì ngoài các bức tường của phủ chúa Trịnh”. Trên đường rút lui, quân Tây Sơn tiếp tục việc cướp bóc kéo dài của họ, chuyển sự chú ý của họ vào những làng mạc trên đường họ đi. Nhiều giáo sĩ châu Âu có dịp quan sát quân đội Tây Sơn đã viết rằng cuộc xâm chiếm đất bắc của họ được tiến hành chủ yếu như một hành trình cướp bóc kéo dài và biểu dương lực lượng, chứ không nhằm mục đích như một nỗ lực chính trị bền vững.

Như đã đề cập trong chương trước, việc cướp bóc trong chiến dịch đánh ra bắc vào năm 1786 đã gây ra sự căng thẳng phát sinh giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc. Khi hai anh em từ Đàng Ngoài trở về, Nhạc giành lấy cho riêng mình phần lớn hay tất cả những gì cướp được ở kinh thành Thăng Long. Để trả đũa, vào đầu nám 1787, Huệ tấn công Nhạc ở Qui Nhơn, nhưng rồi sau đó cũng cho phép (hoặc có thể cử đi) một số đơn vị quân đội của ông trở ra đất bắc để cướp bóc thêm, bù vào những của cướp được mà ông đã mất vào tay người anh.

“Khi quân Tây Sơn tích lũy đủ đồ dự trữ, cả về tài nguyên thiên nhiên lẫn tiền bạc, họ bí mật mang chúng đến tổng kho ở Xứ Thanh. Ở đó, sự moi tiền và bạo lực tiếp tục về phía nhà Tây Sơn và quân đội của họ cho đến giữa tháng ba, khi ít nhất là phần lớn những kẻ cướp bóc đó quay về Phú Xuân. Họ trở về với vô số đồ cướp được, lần này tất cả dành cho Đức ông (Nguyễn Huệ), để bù vào phần mất mát mà bạo chúa Nhạc đã thu giữ hoàn toàn trong năm trước”.

Như bức thư đã nêu rõ, chắc chắn những ngôi làng của người Việt và cư dân của chúng đã chịu ảnh hưởng của quân Tây Sơn khi họ sục tìm của cải ở vùng quê, hoặc cho bản thân họ, hoặc cho người lãnh đạo của họ.

Với cuộc tấn công qui mô lớn của nhà Tây Sơn ra phía bắc vào những năm 1787, 1788 và 1789, các vùng Nghệ An và Thanh Hóa nằm giữa Phú Xuân và Thăng Long bị ảnh hưởng nặng nề. Chúng thường xuyên nằm dưới quyền của những đạo quân hùng mạnh, dù thỉnh thoảng cũng được cấp chỉ huy ra lệnh kìm chế, chắc chắn rằng họ cũng gây nhiều thiệt hại cho dân địa phương. Một thư giáo sĩ viết vào năm 1789 cho thấy một vài ý nghĩa về ảnh hưởng của quân Tây Sơn ở Đàng Ngoài:

“Kẻ địch đi vào các nhà, xem xét và lấy đi những gì họ thích. Đó là khu vực của những ngôi làng nghèo, không có điều kiện cống nộp. Người dân Đàng Ngoài bất hạnh vẫn phải chịu đựng trước lòng tham vô độ của kẻ thù, và của những người Đàng Ngoài chạy theo lính Đàng Trong”*.

Những bức thư khác vào thời kỳ này mô tả những vụ cướp bóc đều đặn, trong đó quân lính lấy cả những thứ tầm thường nhất. Một bài viết năm 1787 kể về chuyện lực lượng Tây Sơn bỏ lại các cơ sở truyền giáo tại địa phương không còn gì hết ngoài mấy cái lọ. Một tài liệu khác của giới giáo sĩ cho biết đã nhìn thấy các ngôi làng bị đốt cháy (có thể đã bị cướp phá) bởi quân Tây Sơn, ba hoặc bốn lần trong khoảng thời gian giữa những năm 1786 và 1792.

Dù cho những vụ cướp phá diễn ra để làm thỏa mãn tính tham lam của quân lính, các tướng lãnh hoặc các nhà lãnh đạo chính trị, chúng thường được thúc đẩy bởi những mối lợi thiết thực hơn. Một hậu quả của cuộc chiến kéo dài vào thời kỳ này là nhu cầu cung cấp đủ đạn dược cho lực lượng của các bên. Để thỏa mãn nhu cầu này, quân đội thường quay sang kho tàng của cộng đồng địa phương, và thường nhất là các điện thờ, đền thờ. Lính thì tịch thu các chuông đồng, trống và các đồ tạo tác khác rồi đem nấu chảy để làm thành đạn đại bác cho các đơn vị pháo binh. Trong những cuộc tấn công đầu tiên vào trung tâm chính trị của nhà Nguyễn, quân Tây Sơn cũng đã lấy đi những đồ tế lễ của triều đình, gồm 9 cái vạc đồng, biểu tượng của tổ tiên của dòng họ Nguyễn. Những đồ vật này có thể được dùng để chế tạo vũ khí và đạn dược, nhưng chúng cũng có thể, và đã được dùng để đúc tiền của chính quyền mới hoặc thậm chí giúp vào việc xây dựng và trang hoàng các trung tâm chính trị của họ. Sự cướp phá của Tây Sơn đưa đến hậu quả là một lượng rất lớn những đồ vật có giá trị bị lấy đi và nấu chảy, cho dù trong một số trường hợp, người nông dân áp dụng các biện pháp để bảo vệ món đồ có giá trị của địa phương. Trước khi quân Tây Sơn động binh, người ta loan truyền tin tức về việc đồ tạo tác trong chùa có thể bị tước đoạt, nhiều làng xã đã áp dụng biện pháp đơn giản là đem chôn giấu các đồ tạo tác cho đến khi mối đe đọa qua đi. Thư của các giáo sĩ mô tả cái cách mà người nông dân dùng để bảo vệ các kho tàng ở địa phương, song những chứng cứ rõ ràng hơn cho thấy những dòng sản phẩm tạo tác như thế đã được khai quật bởi các nhà khảo cổ học đương đại.*

III.3.2. Đánh thuế bằng tiền và hiện vật

Các nhà lãnh đạo chính quyền Tây Sơn cũng có mưu định tiến hành việc bòn rút các khoản hoa lợi dưới hình thức thu thuế. Đây là một công việc phức tạp hơn, đòi hỏi một hạ tầng kiến trúc về thể chế mà nhà Tây Sơn đã khai triển rất chậm. Thêm vào đó, có vẻ như trong những năm đầu tiên của cuộc nổi dậy, sự cướp bóc và cưỡng đoạt được sử dụng như một biện pháp thay cho việc đánh thuế trực tiếp và có hệ thống. Phải chờ đến năm 1786, chúng ta mới có chứng cứ đầu tiên về nỗ lực thu thuế của nhà Tây Sơn, ở một khu vực và trong những hoàn cảnh mà những nỗ lực này tỏ ra vô cùng khó khăn. Biến động xã hội và chính trị ở Đàng Ngoài khiến cho vùng này dễ bị quân Tây Sơn tấn công và việc hành thu thuế hàng ngày gần như là điều bất khả. Tuy nhiên, điều này không ngăn được việc Nguyễn Huệ bắt đầu bòn rút hoa lợi trong vùng, đặc biệt ở Nghệ An. Có những bài tường thuật cho biết là vào mùa hè năm 1787, Nguyễn Huệ đã sẵn sàng “đánh thuế rất cao bằng lúa và bạc”. Những loại thuế này không hẳn là có tính hệ thống, nhưng chúng được các quan chức Tây Sơn đặt ra ở những nơi mà họ có khả năng buộc người dân phải nộp.

Mặc dù lúc khẳng định quyền lực, chính quyền Tây Sơn gặp không ít khó khăn và bị chống đối, song khi Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế Quang Trung vào cuối năm 1788 và đe dọa triều đình nhà Thanh, ông cố gắng bắt đầu việc đánh thuế và thu thuế một cách có hệ thống. Trong một chỉ dụ vào năm 1790, vị tân hoàng đế giải thích nghĩa vụ đóng thuế áp dụng cho các làng xã theo cách phân loại cư dân ở đó. Chỉ dụ cũng nhắm vào các loại thuế đánh trên mùa vụ, dựa vào chất lượng khác nhau của đất trồng và quy định cách hành thu thuế và các loại thuế được cất giữ như thế nào. Rõ ràng là từ văn kiện trên mà nhà Tây Sơn đã xếp đặt lại trật tự của cơ cấu thuế má và hệ thống hóa những gì còn hỗn độn, đặc biệt ở phía bắc vào thập niên 1780. Tuy nhiên, có điều là trước khi vua Quang Trung qua đời vào năm 1792, không rõ việc hành thu thuế đã diễn ra một cách đều đặn như thế nào. Có những tài liệu đơn lẻ viết về gánh nặng thuế khóa, trong đó có Nghệ An, từ vùng này, danh sĩ Nguyễn Thiếp* viết thư cho vua Quang Trung phiền trách ông về việc tăng cao gánh nặng thuế má và những đóng góp bằng sự cưỡng bách*. Trong bất cứ tình huống nào, hệ thống thuế khóa cũng bị phá vỡ vào cuối triều đại, khi những cuộc khủng hoảng quân sự và chính trị trở nên gay gắt.

Ngay cả khi đã khớp lại những nghĩa vụ thuế khóa được chuẩn hóa, chính quyền Tây Sơn vẫn tiếp tục đưa ra những đòi hỏi bổ sung và bất thường để tài trợ các nghi lễ tốn kém của triều đình. Khi người vợ đầu tiên qua đời vào mùa xuân năm 1791, vị hoàng đế Tây Sơn tổ chức một lễ tang rất công phu cùng với thời gian chịu tang tiếp sau, và "những chi phí to tát giáng xuống đầu những người bần cùng. Qua năm tiếp theo, sau cái chết của vua Quang Trung, những sắp đặt hoang phí lại diễn ra ở khu vực quanh kinh thành Phú Xuân để đón nhận sự công nhận chính thức của nhà Thanh cho tân vương là vua Cảnh Thịnh. Những sự chuẩn bị này được một nhà quan sát châu Âu mô tả như là "một kế hoạch được trù liệu nhằm thu thuế từ người dân dưới dạng kim loại bạc và động vật”*. Thật vậy, những sự chuẩn bị này đã không được sứ bộ Tàu đón nhận, mà đơn thuần chỉ là một cuộc diễu hành theo nghi thức để chuyển bản sắc phong đến kinh thành Phú Xuân của nhà Tây Sơn, Dù mục tiêu của những nghi lễ như thế có là gì đi nữa, dân chúng nói chung lại một lần nữa bị buộc phải chịu đựng gánh nặng tài chánh về chuyện này. Những yêu cầu như thế tạo nên một hình thức đánh thuế bất thường, áp đặt thêm một tầng nấc bất ổn lên những người nông dân vốn đang gắng sức với việc lính tráng và lao dịch, thường xuyên và tốn kém thì giờ.

Phổ biến hơn nghĩa vụ thuế má bằng tiền là sự bắt buộc đóng góp hàng hóa và sản vật. Đó là cách thức có từ lâu ở Đại Việt, nhưng đặc biệt ở Đàng Trong, nơi nhiều vùng muốn được nộp một vài loại thuế dưới dạng sản phẩm địa phương, xếp loại từ sáp ong, tổ yến, đến các loại gỗ quý. Nhà Tây Sơn tiếp tục cách làm này trong thời kỳ trị vì của họ. Chẳng hạn như năm 1789, một tài liệu của giới giáo sĩ ở phía bắc Đàng Trong đã viết rằng: “những người Cơ Đốc giáo của chúng ta bị buộc phải đóng góp 10.000 miếng đồng để đúc súng đại bác, và những người Hoa sống ở Việt Nam cũng không được miễn trừ khoản tiền bất công đó". Hai năm sau, cũng từ vùng này, một giáo sĩ khác mô tả những đòi hỏi đặt ra cho những ai sống ở địa phương của ông:

“Chỉ trong cái huyện Bố Chính đơn độc và nhỏ bé, nơi tôi đã ở 15 ngày qua, người dân được lệnh phải đóng hơn 100 thuyền nhỏ: những con người khốn khổ đó và tất cả những tín đồ Cơ Đốc giáo bất hạnh của chúng ta đã không thể thu hoạch vụ mùa liên tục vào tháng 10 và tháng 5 năm sau và có lẽ cũng mất luôn cả những gì tiếp sau tháng 10. Trước đây, họ chưa bao giờ chịu đựng một gánh nặng lấn lao đến thế: số ván mà họ phải có trong nỗ lực này là 2.500 tấm... Ngoài những tấm ván này, mọi người phải tìm ra mọi thứ để làm ra sản phẩm”.

Rõ ràng là từ tài liệu miêu tả này, khu vực đặc biệt đó bị buộc phải đóng góp những tài nguyên có giá trị của địa phương, và vì thế, huyện Bố Chính, một khu rừng núi cây cối rậm rạp ở phía bắc Phú Xuân, đã được yêu cầu cung cấp gỗ để đóng thuyền. Cũng như đã mô tả trước đây, những người bị buộc phải lao dịch tại kinh đô mới của vua Quang Trung ở Nghệ An không chỉ đóng góp công sức mà còn phải đóng góp cả vật chất và tiền bạc để hoàn thành các dự án xây dựng. Những tài liệu này cũng cho thấy mức độ của những đòi hỏi như thế đối với các nhóm người đặc biệt trong xã hội, như người Cơ Đốc giáo, một chủ đề quan trọng sẽ được trình bày chi tiết hơn ở chương sau.

III.3.3. Tham nhũng: Những hạn chế của chính quyền Tây Sơn

Hình thức bòn rút tài nguyên cuối cùng, và là một trong những hình thức rộng khắp, đó là tình trạng tham nhũng của những quan chức phục vụ cho chính quyền Tây Sơn. Tham nhũng là một phạm trù rộng rãi, được xếp từ những chuyện nhỏ nhặt như việc lợi dụng sự ủy nhiệm thu thuế của nhà nước đến những việc moi tiền triệt để hơn. Tham nhũng xuất phát từ một chính quyền trung ương yếu ớt và là một đề tài kéo dài trong lịch sử Việt Nam. Người ta tìm thấy tham nhũng ở cả những triều đại suy tàn lẫn những chính quyền tân lập đang tìm cách khẳng định quyền lực và cơ cấu lại chính quyền của họ. Cố nhiên là chính quyền Tây Sơn đã gặp phải nhiều trở lực ngăn cản họ chặn đứng nạn tham nhũng ngay từ lúc khởi đầu cuộc nổi dậy. Sự rối loạn trật tự xã hội lớn lao và những dịch chuyển ở khắp các vùng trong nước khiến cho công việc của họ đặc biệt khó khăn, nhưng sự thiếu thốn những quan chức được đào luyện, sự tiếp tục tin tưởng vào những người ủng hộ chỉ có một kỹ năng hành chánh hạn chế, chiến tranh tiếp diễn và sự thiếu vắng một cơ cấu tư pháp vận hành tốt, tất cả kết hợp thành những vấn đề mà chính quyền Tây Sơn phải đương đầu. Hậu quả là tình trạng tham nhũng không ngừng, lần hồi mang lại sự oán giận cho những người dân mà các lãnh đạo Tây Sơn vẫn tuyên bố là đang ủng hộ họ, và tiếp tục khuấy động nồi bất bình của dân chúng, làm dấy lên sự mong muốn có một sự cải tiến nào đó.

Sự thất bại của chính quyền Tây Sơn trong việc kiểm soát nạn tham nhũng có thể qui cho tính cấp bách của cuộc chiến đang tiếp diễn, cách làm việc quan liêu của các lãnh tụ cuộc nổi dậy cùng những người phụ tá thân cận của họ, cả hai đã tạo ra một cơ cấu hành chánh có tính đối phó ở nhiều nơi. Như Charles Chapman đã nhận xét về chính quyền Tây Sơn mà ông đã gặp trong chuyến viếng thăm triều đình của Nguyễn Nhạc tại Chà Bàn vào năm 1778:

“Nguyễn Nhạc tự cho mình có nhiều thẩm quyền, nhưng đó là những thẩm quyền được thi hành kém bởi những quan chức cai trị dưới quyền ông. Họ toàn là những người ít học được chọn lựa trong số những cư dân ở làng sinh quán Tây Sơn của ông, một khi nắm quyền hành thì chỉ được biết đến nhiều qua tính xảo trá, sự hung bạo và hành vi moi tiền, và nếu ở xa, họ không dễ dàng thừa nhận sự lệ thuộc vào những bàn tay đã nâng đỡ họ”.

Nói tóm lại, nhà nước Tây Sơn buổi đầu được xem như được cai trị bởi những quan chức không học vấn, hung bạo và tham nhũng, không mấy quan tâm đến các chỉ thị từ chính quyền trung ương. Ngoài ra, đây là mô hình kéo dài suốt thời kỳ Tây Sơn và về thực chất không khác với chính quyền do Nguyễn Huệ thiết lập ở Đàng Ngoài. Một giáo sĩ Pháp mô tả chính quyền này vào năm 1789 đã lặp lại phần nhiều nhận định của Chapman vào năm 1778 về chính quyền của Nguyễn Nhạc “những kẻ mọi rợ này xuất phát từ những dãy núi ở Đàng Trong và chẳng biết sắp xếp việc cai trị là gì”. Mặc dù có những nơi mà cơ cấu hành chánh phát triển đầy đủ hơn - bao gồm khu vực quanh Thăng Long dưới triều Quang Trung và người kế tục ông - nhiều nơi khác ít may mắn hơn do khí chất những quan chức phục vụ ở đó.

Hình 8: Quan lại Tây Sơn, 1793. Tranh vẽ của William Alexander, người đã tháp tùng phái bộ Huân tước McCartney trong lần viếng thăm cung điện của vua Cảnh Thịnh ở Phú Xuân năm 1793. (Sưu tập của tác giả.)

Sự tham nhũng có tính hệ thống trong chính thể nhà Tây Sơn được khuyến khích bởi sự yếu kém trong thể chế của họ và sự bất lực của các nhà lãnh đạo trong việc tạo ra một hệ thống tư pháp, không bắt được mọi người tuân thủ một cách hữu hiệu. Có những dấu hiệu cho thấy một bộ luật mới đã được soạn thảo vào thời điểm sau khi vua Quang Trung nắm lấy quyền bính, nhưng nó đã không bao giờ được phổ biến chính thức*. Sự thiếu vắng một cơ cấu luật pháp khả thi có nghĩa rằng sẽ rất khó mà kiểm soát nạn tham nhũng trong bộ máy công quyền. Sách Tây Sơn thuật lược nhận xét về chính quyền Quang Trung là: “Không lập pháp lịnh điều ước, việc thưa kiện đều do miệng ngài phân xử, tội tù thì phần nhiều dùng đòn mà đánh để trừng trị”. Năm 1789, thư của các giáo sĩ cũng viết rằng hệ thống tư pháp hoặc không còn tồn tại, hoặc ở hình thức sơ khai, được thi hành bởi những người có năng lực hạn chế, nhiều người trong số họ không biết đọc, cũng chẳng biết viết. Một thập niên sau, tình hình cũng không khá hơn, điều này được phản ánh trong một tài liệu miêu tả của giới giáo sĩ về cơ cấu luật pháp vô cùng mục nát: “Tất cả quan lại tìm cách làm giàu cho bản thân mình bằng tiền của của dân nghèo. Công lý được tính bằng cân lượng của vàng và cán cân luôn nghiêng về những ai cống nộp nhiều tiền”.

Đặc biệt ở Đàng Ngoài, có nhiều bài tường thuật về những việc làm sai trái vào thời kỳ Tây Sơn (1786-1802), và những bình luận thường xuyên của các quan sát viên cả người Việt lẫn người nước ngoài đều đưa ra nhận xét là các quan chức địa phương được huấn luyện rất kém và thường là dễ hối lộ. Một vài sáng kiến cai trị của nhà Tây Sơn chỉ làm tình hình thêm nghiêm trọng và không ở đâu tệ hại hơn ở Nghệ An. Cuối năm 1789, Nguyễn Thiếp trình bày trực tiếp với vua Quang Trung những vấn đề liên quan đến các quan chức địa phương làm việc ở trấn này: “Quan càng nhiều thì dân càng bị nhiễu. Quyền nghi, công việc bất nhất; tướng, hiệu, quan, lại không có kiềm thúc”. Những vấn đề này phát xuất một phần từ quyết định của nhà Tây Sơn chia Nghệ An ra 12 huyện. Nguyễn Thiếp thấy rõ mối quan hệ giữa một cơ cấu quan liêu rộng lớn và sự áp bức ngày càng gia tăng mà người dân nói chung đang phải gánh chịu. Những vấn đề này càng phức tạp hơn khi Nghệ An nằm trên đường đi trực tiếp của các chiến dịch quân sự lớn của nhà Tây Sơn giữa những năm 1786 và 1789. Trong thời kỳ này, quân Tây Sơn đi qua Nghệ An 8 lần, mỗi lần một gây ra nhiều khó khăn hơn cho cư dân địa phương.

Có thể để đáp lại thư của Nguyễn Thiếp, hoặc có lẽ do nghe được những thông tin này, triều Quang Trung ra lệnh điều tra sâu rộng chuyện tham nhũng của quan chức ở trấn này. Cây bút Bùi Dương Lịch miêu tả như sau về phản ứng của nhà Tây Sơn đối với những vấn đề này, bắt đầu vào những tháng 6, 7 năm 1790:

"Trước đó, những quan chức cao cấp nhất đã tự tay thảo một chỉ dụ với những nét chữ bằng mực son bí mật ra lệnh cho tất cả các quan trấn thủ phải kiềm chế nạn tham nhũng. Tất cả quan lại trong trấn ra lệnh cho quan chức ba ty trong vùng phải đi ra ngoài để thăm hỏi cư dân ở các thôn ấp để mọi người có thể chỉ ra những ty sở nào ăn hối lộ. Các quan lại bí mật điều tra, thu thập các kiến nghị, lời thỉnh cầu rồi mang trở về cho các quan ở trấn. Tất cả các quan ở trấn lại gửi về cho các quan huyện để sắp xếp các nơi cần tiến hành điều tra”.

Từ văn kiện này, hình như chính quyền Tây Sơn dưới triều Quang Trung đã tích cực tìm cách giải quyết vấn đề tham nhũng, đặc biệt tại Nghệ An. Cách đáp ứng của nhà Tây Sơn cố nhiên là phát xuất từ sự trân trọng của vua Quang Trung đối với lời khuyên của Nguyễn Thiếp, cũng như tình trạng của Nghệ An như là kinh đô trung tâm trong tương lai của ông vậy. Đây là một khu vực mà dân chúng rất cần có một đời sống ổn định.

Cho dù có những cuộc điều tra này, tình hình cũng không cải thiện. Nguyễn Thiếp gửi thêm một kiến nghị thứ hai cho vua Quang Trung vào năm 1791, trong đó lặp lại ngôn ngữ mà ông đã sử dụng trong thư viết năm 1789, ông viết rằng dân chúng vẫn còn phải chịu đựng hai gánh nặng quân vụ và sự cưỡng bách trưng dụng vào quân đội Tây Sơn. Nỗi khốn khổ của họ tiếp tục được tăng lên qua những cơn hạn hán làm hư hại mùa màng. Nguyễn Thiếp chỉ trích chính quyền Tây Sơn đã không đáp ứng thích đáng nhữngyêu cầu của người dân. Chính quyền đã không hỗ trợ những người nông dân bị thiệt hại nghiêm trọng hoặc không tiến hành các bước hạ giảm thuế má. Nguyễn Thiếp cũng thúc giục vua Quang Trung giảm nhẹ mức đóng góp bắt buộc tỷ lệ với những khó khăn mà mỗi người dân phải gánh chịu. Cuối cùng thì tình hình trong trấn khó khăn đến mức dân chúng đã đứng lên làm loạn, chống lại một viên quan đặc biệt tham nhũng của nhà Tây Sơn vào năm 1791*. Đây là một hành động hiếm hoi nói lên sự thách thức công khai của người dân đối với chính quyền nhà Tây Sơn, vì người dân chỉ biết nhiều về nhà nước quân phiệt mà họ đang sống. Cuộc nổi loạn cho thấy tình hình khó khăn đến mức nào đối với cư dân sống tại địa phương. Năm 1797, các bản tường thuật vẫn còn cho thấy rằng dân chúng tiếp tục sống trong gian khổ vì các quan chức địa phương của nhà Tây Sơn chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của họ.*

III.4. CÁC HÌNH THỨC PHẢN KHÁNG CỦA DÂN CHÚNG: XEM CÁC LỜI TIÊN TRI, CÁC ĐIỀM BÁO, VÀ CÁC CỨU TINH

Mặc dù lúc đầu các lãnh tụ nổi dậy của nhà Tây Sơn mô tả phong trào của họ như một hành động phản kháng ồ ạt chống lại các mô hình chính trị và kinh tế đang phát triển ở Đàng Trong, song việc phong trào hướng về một chính quyền chính thống, cùng với những đòi hỏi lớn lao và phiền hà gây ra cho người dân sống dưới sự kiểm soát của họ, cuối cùng lại kích động sự phản kháng chống lại chính các lãnh đạo nhà Tây Sơn. Các hình thức phản kháng thay đổi rất nhiều và có mức độ phức tạp khác nhau. Các tài liệu còn lưu hành chỉ cho phép chúng ta có một cái nhìn hạn chế về sự phản kháng bằng bạo lực. Tôi có dịp viết về sự đào ngũ trong quân đội Tây Sơn và trong các nhóm lao dịch, cũng như sự vận dụng thuế khóa và sổ bộ dân cư và mấy cuộc nổi dậy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, cùng sự chôn giấu các vật thiêng liêng. Cũng có nhiều bản tường thuật về những làng xã ở Đàng Ngoài dựng chướng ngại vật lên để chống lại các lực lượng từ bên ngoài, khẳng định tính tự trị theo truyền thống xưa, mặc cho nhà nước bòn rút lợi lộc cùng những khoản đóng góp khác*. Những trường hợp này cho thấy người nông dân mưu toan chống lại nhà Tây Sơn theo nhiều cách, cho dù hiệu quả của chúng thay đổi rất nhiều.

Ngoài việc công khai phản kháng, người nông dân (và những người ưu tú trong xã hội) Việt Nam cũng có thể làm điều được gọi là sự thách thức tâm lý. Sự thách thức này bao gồm việc nhắc đến những lời tiên tri và những điềm báo tự nhiên, nhưng cũng bao gồm những hình thức ám chỉ khác hay phản kháng bằng lời nói. Những dạng thách thức này tạo nên một địa hạt tư tưởng độc lập giúp cho người nông dân - và một số lượng đáng kể những người ưu tú trong xã hội - tự kiểm soát được phần nào trước những thế lực áp chế đời sống của họ và chia sẻ với những khó khăn của chính quyền Tây Sơn. Nỗ lực sử dụng các lời tiên tri hay điềm báo để xác định những việc sẽ xảy ra trong tương lai thường đưa đến kết quả với nhiều cách giải thích khác nhau, đặc biệt với những lời tiên tri. Song đây mới đúng là vấn đề: con người có nhận thức về những gì xảy ra quanh mình và thường thay đổi cách đọc các dấu hiệu để phản ánh đúng sự biến đổi của hoàn cảnh. Sự tồn tại của những dấu hiệu, những lời tiên tri, những điềm báo này không phải là những phương tiện giúp hiểu được diễn biến cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, mà là cách để hiểu trạng thái tâm lý của người dân trong một thời đại có quá nhiều bất ổn.

Có một vấn đề cố hữu khi coi các dấu hiệu hay lời tiên tri như là chứng cứ hiển nhiên về sự sáng suốt của những người giải thích chúng. Cuối cùng, nhiều tài liệu ghi chép lại những lời tiên tri đó để lùi ngày tháng xảy ra sự việc đã được đoán hay lường trước. Cố nhiên, những tiên đoán chính xác (hay nói đúng hơn là sự giải thích chính xác những lời tiên đoán đó) được ghi nhận trong những tài liệu biên niên của tư nhân hay nhà nước. Chúng tôi không nghe nói về những lời giải thích khác, những lời giải thích tồn tại bên cạnh những giải thích này và chưa từng xảy đến. Dù cho có sự báo trước, những bài viết về nỗ lực tìm hiểu các dấu hiệu siêu nhiên quan trọng cho thấy con người vào thời kỳ này đã hiểu về thế giới của họ như thế nào. Nhiều nguồn tư liệu miêu tả những dấu hiệu và lời tiên tri này ra đời vào cuối đời Tây Sơn và những năm đầu triều Nguyễn, có thể chúng được lưu hành vào thời Tây Sơn. Một số lời tiên tri được ghi nhận trong thư của các giáo sĩ đương thời, là chứng cứ xa hơn cho thấy rằng những ý niệm như thế là phần cốt lõi của sự hiểu biết của cả giới nông dân lẫn những người ưu tú trong xã hội về thế giới của họ.

III.4.1. Nhà tiên tri và lời tiên tri

Khi chiến tranh cuốn xoáy quanh họ vào cuối thế kỷ XVIII, người dân Đại Việt thường tìm hiểu về thời đại của họ bằng cách nhìn vào dấu hiệu những gì sẽ chứa đựng trong tương lai. Cách đó phổ biến ở tất cả vị trí trong xã hội Đại Việt vào thời kỳ này, và người dân thuộc mọi tầng lớp thường hướng về những ai có thể trả lời cho họ về những gì sẽ đến. Một nhà quan sát châu Âu thế kỷ XVIII đã viết: “những kẻ lừa đảo này hiện diện rất nhiều ở Đàng Ngoài; những ông thầy bói, thầy pháp không chỉ xuất hiện ở các thị trấn hay làng mạc, mà quyền năng của họ tác động từ những người thấp kém nhất cho đến bậc vua chúa, kiểm soát cả những việc làm mang tính nguyên tắc của nhà vua”*.

Ngoài những nhà tiên tri tự phong, những kẻ gọi là lừa đảo, còn có một số cá nhân được tôn xưng rộng rãi nhờ tài tiên tri của họ. Vào những thế kỷ trước, danh sĩ Đàng Ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) nổi tiếng là một nhà tiên tri, và những lời tiên đoán của ông lôi cuốn sự chú ý của mọi người ngay cả sau khi ông đã qua đời. Cuối thế kỷ XVIII, vị ẩn sĩ lừng danh Nguyên Thiếp đã giữ vai trò này. Cây bút Bùi Dương Lịch đã viết về ông: “Mọi người nói rằng ông biết hết mọi việc trước khi chúng xảy ra”. Chính từ sự nổi danh này đã khiến Nguyễn Huệ thỉnh ý kiến Nguyễn Thiếp vào cuối năm 1788 khi ông tìm cách xác định kết quả trận chiến sắp xảy đến với quân xâm lược nhà Thanh.

Ngoài việc hỏi ý kiến những nhân vật như Nguyễn Thiếp, người dân thời Tây Sơn ghi chép lại những lời tiên tri còn tồn tại, cố kết nối chúng với những biến động hay những nhân vật sống trong thời của họ. Thêm vào đó, những nhân vật chính trị vào thời kỳ này hành động dựa vào những lời tiên tri, sử dụng chúng để biện minh cho hành động của họ và khuyến khích người dân tin vào sự giải thích của họ về những lời tiên tri đó. Như một giáo sĩ hoạt động ở Đàng Ngoài vào thập niên 1780 đã nhận xét: “Người ngoại giáo ở vương quốc này có những lời tiên tri mà họ gọi là sấm ký, đúng và dễ hiểu như lời tiên tri của Nostradamus*. Theo giải thích của những người ngoại giáo, những lời tiên tri này loan báo rằng dòng họ của chúa Trịnh sẽ kết thúc trong thời đại này. Sự tin tưởng vào các điềm báo và những dấu hiệu về diễn biến trong tương lai đã liên kết chặt chẽ với thế giới văn hóa của người bình dân và người ưu tú trong xã hội và mở rộng đến cả các bậc vua chúa. Lời tiên tri không dễ dàng bị gạt bỏ bởi thành phần ưu tú về chính trị bởi vì họ có một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với quần chúng và vì thế, có khả năng tác động lên niềm tin và hành động của họ.

Một minh chứng đáng chú ý về tác động của lời tiên tri đối với thành phần ưu tú về chính trị xảy ra vào giữa thế kỷ XVIII và đoán trước tình trạng bất an cùng cực trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn. Một lời tiên tri được truyền tụng vào thời điểm trên nhằm tiên đoán sự chuyển qua chính thể của nhà Nguyễn: “Sau 8 đời, giờ là lúc quay về kinh đô trung tâm”. Một câu khác trau chuốt hơn viết rằng: “Khi đã có 8 chúa rồi mà không có thêm một chúa nữa; khi núi biến thành đồi; khi cảng biển đóng lại; khi những người sinh ra cùng một nhà bị phân tán; khi người mới xuất hiện, là khi vương quốc sẽ rơi vào tay những người xa lạ và bị họ cai trị”. Vào thời điểm đó, Nguyễn Phúc Khoát là chúa Nguyễn đời thứ 8, và lời tiên tri này được phổ biến rộng rãi lúc đó, có vẻ như để tiên đoán rằng thế hệ lãnh đạo của ông là thế hệ cuối cùng và việc quay về “kinh đô trung tâm” - được hiểu là kinh đô Thăng Long của triều Lê-Trịnh - sẽ diễn ra.

Để tránh hậu quả này, năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát tiến hành một số cải cách ở phủ chúa và sau đó đã tuyên bố quyền tự trị đối với vương quốc Đàng Ngoài. Bên cạnh việc thay đổi niên hiệu và vị trí của phủ chúa, ông còn ban lệnh thay đổi những qui định liên quan đến kiểu trang phục. Ông lệnh cho mọi người thay đổi quần áo theo kiểu trang phục mà người dân dưới thời nhà Minh, Trung Quốc, đã mặc. Lý do chính đằng sau việc làm này là qua sự thay đổi vẻ bề ngoài của thần dân của mình, chúa có thể chuyển Phú Xuân thành một loại “kinh đô trung tâm”. Sự kiện một bậc vua chúa có thể đánh giá nghiêm túc một lời tiên tri và hưởng ứng trực tiếp với nó cho thấy mãnh lực của những ý tưởng như thế trong xã hội Đại Việt thời kỳ này.

Học giả Pháp Léopold Cadière, người đã ghi chép câu chuyện về các hành động của chúa Nguyễn Phúc Khoát, kết luận bài nghiên cứu của ông bằng cách cho rằng lời tiên tri chẳng những báo trước sự nổi dậy của nhà Tây Sơn, mà còn cổ vũ các nhà lãnh đạo của phong trào:

"Không ai biết được liệu cuộc khởi nghĩa này - cuộc khởi nghĩa đã ghi dấu sự trỗi dậy của triều Nguyễn - có ăn sâu vào tâm trí của người dân thời đó như chúng ta đã nhìn thấy hay không; cũng không ai biết được liệu những kẻ nổi loạn này, trong phạm vi hạn hẹp nào đó, có nhìn thấy được sức mạnh của họ hay có khẳng định được sứ mạng mà họ đã tuyên bố hay không, song những tin đồn mơ hồ, nhưng mãnh liệt, trong âm thanh của những tai họa siêu nhiên và của sự đổ vỡ toàn diện, đã làm rối loạn triều đình và dân chúng từ nhiều năm qua”.

Cho dù câu hỏi do Léopold Cadière đặt ra không thể trả lời trực tiếp, hình như một vài yếu tố trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn có thể được truy nguyên từ sự rối loạn nổ ra vào thời kỳ này. Chúng ta đã thấy rằng nguồn gốc của cuộc nổi dậy được chỉ ra từ một lời tiên tri tồn tại lâu dài ở địa phương. Vả lại, chúng ta biết rằng lời tiên tri đã gây sự rúng động khiến chúa Nguyễn để cho nó được lưu hành rộng rãi vào những năm sau của phong trào Tây Sơn. Trong một tuyên cáo đưa ra trong chiến dịch ở Nghệ An vào năm 1786, tướng Tây Sơn Nguyễn Hữu Chỉnh đã công bố rằng “mọi người đều biết là ngôi chúa (chúa Nguyễn) chỉ có 7 đời”. Chỉnh nhắc đến câu nói gọi lên rằng dân chúng nhận thức được lời tiên tri này và dù cho hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua, nó vẫn còn là một phần trong ý thức của người dân. Lê Quý Đôn chép rằng nơi xuất phát của lời tiên tri là Nghệ An, và cho rằng việc nhắc đến nó trong vùng này đã tạo ra một âm vang đặc biệt.

Thậm chí sau năm 1786, những lời tiên tri tiếp tục là một yếu tố đầy ý nghĩa trong ý thức của người dân. Đặc biệt, Nguyễn Hữu Chỉnh, người từng nhắc đến lời tiên tri về sự sụp đổ của nhà Nguyễn vào năm 1786, đã triển khai các lời tiên tri theo chiến lược nhằm nâng cao quyền lợi chính trị của chính ông ta. Người ta cho rằng Chỉnh có được sự tin tưởng nhờ một câu nói xưa: "Con cọp đến từ rừng núi phía tây; con rồng đến từ biển phía đông". Theo lời giải thích của Chỉnh về câu này, con cọp đến từ rừng núi phía tây rõ ràng là nhằm nói đến quân Tây Sơn, trong khi con rồng đến từ biển đông (đông hải) là nhằm nói đến Nguyễn Hữu Chỉnh, vì quê quán của ông ta là vùng Đông hải. Một thư giáo sĩ năm 1787 đưa ra nhận xét rằng những lời tiên tri như thế “mang lại dũng cảm to lớn cho Cống Chỉnh, người đang lợi dụng những người dân mù quáng đáng thương không biết gì về cách sắp đặt của mệnh trời”. Tín ngưỡng dân gian về sự tiên tri rõ ràng là đã hình thành nên một cái nhìn bao quát về tinh thần vào cuối thế kỷ XVIII và những người khát khao về chính trị như Chỉnh sẽ hoặc vận dụng những tín ngưỡng đó, hoặc đơn giản là tìm thấy sự can đảm từ chúng.

III.4.2. Đọc những điềm báo về thay đổi chính trị

Hơn cả sự tiên tri vốn tối nghĩa và mơ hồ trong việc đính ra thời gian thực hiện, người dân hương về những điềm báo trong thế giới tự nhiên quanh mình. Những dấu hiệu này có khuynh hướng gần gũi hơn trong các mối quan hệ của chúng và có thể được hiểu như sự phê phán trực tiếp về một thế lực thống trị này hay khác. Ở mức độ rõ ràng nhất, con người giải thích những tai họa thiên nhiên xảy ra liên tục như lụt lội, đói kém, hạn hán và giông bão như là dấu hiệu cho thấy một ông vua đã không còn được trời phù hộ. Cả chính sử và ngoại sử đều có ghi chép những thảm họa về khí hậu và các loại hiện tượng bất thường của tự nhiên. Chúng cũng ghi nhận những điềm báo trên bầu trời; các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực, vị trí các vì sao, sao băng, và hàng loạt các sự kiện không dễ gì phân loại. Đó là những sự cố bất bình thường - giông bão dữ dội, sao chổi sáng, nhật thực và nguyệt thực kéo dài bất thường - lôi cuốn sự quan tâm và chú ý của hầu hết mọi người. Cũng thế, trong khi ông Trời có thể ghi thông điệp lên bầu trời thì nước và núi non cũng ghi lên chúng những thông điệp có tính cảnh báo hoặc về một số mệnh đã định sẵn. Những dấu hiệu đó bao gồm việc nước sông đổi màu, nước hồ sôi sục, bến tàu đầy những đá, và đỉnh núi bị sạt lở. Tất cả những dấu hiệu này có thể được con ngươi hiểu như là chỉ dấu của sự tốt, xấu, gọi lên những sự kiện trong tương lai hoặc phán xét về một phe phái chính trị hay quân sự này khác.

Điều không có gì đáng ngạc nhiên là với một cuộc nổi dậy thường xuyên gây ra những rối loạn chính trị, thời kỳ Tây Sơn là thời kỳ mà dấu hiệu về những chuyển biến sắp xảy đến của thế giới tự nhiên hay siêu nhiên thường được quan sát và ghi lại. Trong số những hiện tượng được quan sát có hiện tượng về sau được xem là dấu hiệu một cuộc nổi lên nắm lấy quyền lực chắc chắn sẽ xảy đến của nhà Tây Sơn. Lê Quý Đôn đã viết về một trường hợp như thế mà ông đã nhìn thấy được khi nghiên cứu về sự suy tàn của nhà Nguyễn vào đầu thập kỷ 1770: “Năm Kỷ Sửu (1769), sao Chổi xuất hiện, và Nguyễn Quang Tiền đã nói với người thời đó rằng, ‘ở trấn Quảng Nam, trong không quá 5 hay 6 năm, chắc chắn sẽ cố một cuộc nổi dậy... và rồi số phận của nhà Nguyễn sẽ đi đến hồi kết thúc'”. Nguyễn Quang Tiền là một quan lại nhà Nguyễn và hình như ông đã tiên đoán sự nổi dậy của nhà Tây Sơn vào giữa thập niên 1770.

Những điềm báo xa hơn về cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn cũng được ghi chép trong sử biên niên thời đó. Năm 1771, vào tháng 12 âm lịch, trên núi Thạch Bi ở phủ Phú Yên (khu vực duyên hải miền Trung), một tiếng sấm bỗng nổi lên vang rền và vào lúc đó, những tảng đá màu đen bỗng nhiên chuyển thành màu trắng. Từ đàng xa, ngọn núi giờ đã trắng như vôi, có dáng vẻ như một tấm bia dựng đứng. Ý nghĩa của hiện tượng này được tôn lên bởi đây chính là nơi vua Lê Thánh Tông đã đặt một bảng chỉ dấu biên giới vào năm 1470, khi thắng lợi vẻ vang trong chiến dịch chống lại vương quốc Chăm ở phía nam. Tấm bảng đánh dấu việc thiết lập ranh giới mới giữa lãnh thổ Việt và Chăm. Mặc dù người soạn bản văn không giải thích sự kiện này, song hình như nó gợi lên tình trạng bất ổn xuất hiện trở lại trên đất Chăm (nơi xuất phát của nhà Tây Sơn) và sự chuyển đổi quyền lực đánh dấu sự cáo chung của nhà Lê.*

Trong lúc có nhiều dấu hiệu liên quan đến cuộc nổi dậy và những năm đầu của nhà Tây Sơn, nhiều điềm báo hơn nữa xuất hiện trong thời gian sắp diễn ra việc nhà Tây Sơn tấn công họ Trịnh ở Đàng Ngoài vào năm 1786. Những điềm báo này xuất hiện lần đầu vào năm 1782, liền sau cái chết của chúa Trịnh Sâm và cuộc lật đổ tại phủ chúa diễn ra tiếp theo đó. Cuối năm 1782, người ta kể rằng thình lình có những âm thanh như tiếng súng nổ vang dội giữa bầu trời, một hiện tượng kéo dài trong 25 phút đồng hồ. Không lâu sau đó, vào đầu năm 1783, người ta lại kể rằng những đỉnh của rặng núi phía bắc bỗng nhiên sụp đổ*. Cũng cùng năm đó, dường như một thiên thạch rơi xuống một chiếc hồ ở kinh thành Thăng Long khi một cuộc thi đình đang diễn ra. Điều này được tâu lên vua cùng với lời bàn đáng ngại rằng sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ 30 năm trong đó “các nho sĩ phải cúi mình trong nhục nhã.*

Có lẽ sự kiện có điềm gở nhất vào thời kỳ này là vào năm 1786 khi một con vật hay một đồ vật sáng lấp lánh nổi lên trên mặt hồ Hoàn Kiếm ở Thăng Long. Cái hồ này được dân chúng tôn sùng như là nơi vào đầu thế kỷ XV, một con rùa thần đã dâng cho Lê Lợi thanh gươm giúp ông đánh bại quân nhà Minh. Cũng tại hồ này, ông trả lại thanh gươm khi sứ mạng đã hoàn thành. Câu chuyện năm 1786 kể về một vật hay một con vật kỳ bí đã bay về bờ phía nam của hồ rồi biến mất. Khi điều này xảy ra, nước trong hồ bỗng nhiên nổi sóng đục ngầu, và ngày hôm sau, mặt hồ phủ đầy tôm chết. Những chuyện khác kể rằng một hiện tượng tương tự đã diễn ra ở phủ chúa vào khoảng thời điểm đó. Dân gian đã giải thích hiện tượng đó rằng vật kỳ bí được nhìn thấy ở hồ là chiếc gươm thần của Lê Lợi. Rõ ràng là câu chuyện có ngụ ý là chiếc gươm sau khi đã được sử dụng để giúp lập nên triều Lê vào thế kỷ XV, nay đã bỏ rơi nhà Lê, cho thấy sự sụp đổ tất yếu của nó.

Những điềm báo xuất hiện ở Đàng Ngoài vào đầu thập niên 1780 có thể được sử dụng như loại tiên tri đủ ý nghĩa, vì chúng có vẻ cổ vũ cho tham vọng chính trị cá nhân của Nguyễn Hữu Chỉnh. Như chúng ta đã thấy, Chỉnh đặc biệt chú ý đến những lời tiên tri và dùng chúng một cách rất có hiệu quả để leo lên chiếc ghế quyền lực. Hai tác phẩm ngay sau đó là Hoàng Lê nhất thống chí và Lịch triều tạp kỷ có kể lại một cuộc nói chuyện được cho là đã diễn ra tại Đàng Trong vào đầu năm 1786 giữa Chỉnh và một người cháu từ phía bắc vào thăm. Sách viết rằng Chỉnh thảo luận tình hình xứ bắc với người đến thăm, hỏi xem có thiên tai hay điềm báo vừa xảy ra không, Người cháu trả lời bằng cách nhắc chi tiết một đoạn kinh cầu nguyện dài kể về một hiện tượng xảy ra vào năm 1782, năm mà chúa Trịnh Sâm qua đời và Chỉnh buộc phải trốn đi trong một biến động tiếp theo:

“Ngày 15 tháng 11 năm Nhân Dần (1782) trong khoảng không trung bỗng có một tiếng nổ lớn rung động cả trời đất, kéo dài độ hơn một khắc, không biết là tiếng gì.

Lại nữa, tháng 2 năm Quý Mão (1783), núi Hùng Sơn sụt xuống đến hơn 20 trượng. Tháng 6 năm ấy, sông Thiên Đức cạn nước đến một ngày một đêm.

Đêm mồng một tháng 10 năm Giáp Thìn (1784), trong hồ Thủy Quân ở kinh đô có tiếng kêu như sấm, nước hồ sục sôi, sáng hôm sau thấy tôm cá (trong hồ) đều chết hết.

Và trong phủ chúa thường có hàng vạn quạ đen bay lượn trên cây, ngày đêm quàng quạc kêu ở cửa Các môn trước phủ đường.

Lại nữa, móng thành kinh đô vô cớ sụt lở đến hơn mười trượng”.*

Các bài viết tiếp tục lưu ý rằng danh sách dài những điềm báo đầy tính bất an khiến Chỉnh thêm tin tưởng vào kế hoạch tấn công Đàng Ngoài vào mùa hè. Vì thế, chúng ta thấy rằng các điềm báo không chỉ đơn thuần được dùng như là dấu hiệu một sự thay đổi quyền lực không thể tránh khỏi, mà còn là sự phấn khởi cho những ai coi chúng là cơ hội để hành động chống lại những kẻ đương quyền. Sau hết, có một người nào đó là sứ giả nhà trời biến những điềm báo đó thành hiện thực. Chỉnh tự thấy mình là một người như thế, cũng như Nguyên Nhạc trước đó tự thấy ông ta là người hoàn thành lời tiên tri đã dẫn dắt phong trào của ông ta trong những năm đầu tiên.

III.4.3. Ý tại ngôn ngoại (tìm hiểu ẩn ý của các câu nói)

Một phương pháp cuối cùng mà người Việt thời kỳ này thường dùng để nhìn thấy tương lai là phân tích các câu, chữ. Giới nho sĩ, và có thể cả những dân làng có học, nhìn vào chữ Hán, phân tích ngữ pháp để tìm những ý nghĩa được ẩn giấu bên trong hoặc chỉ dấu của sự tiên tri. Chữ Hán giúp họ đi sâu vào những phân tích thú vị, theo đó, các con chữ được tách ra thành nhiều thành phần và lời tiên báo được nhìn thấy trong đó. Vì chữ Hán thường được cấu thành bởi những phần nhỏ hơn nên chúng có những ý nghĩa riêng biệt, những phần nhỏ hơn có thể được “đọc” tách riêng ra theo một cách phù hợp với mục đích của người giải thích chúng. Ngoài ra, các thông điệp có thể được ẩn giấu trong những câu viết hay câu nói xem ra có vẻ vô hại. Một ví dụ khá hay về cách làm này có từ thời kỳ đầu của nhà Tây Sơn và được ghi chép trong sách Lịch triều tạp kỷ. Trường hợp được nêu diễn tả một bài thơ ngắn được viết như một lời phẩm bình quanh co về tình hình chính trị của thời kỳ đó (năm 1780): Tổ tư vân gian nguyệt, hoàng hoa nhật diệu hương (trái đất sẽ truyền đi lời nguyền không thật chống lại đóa hoàng hoa mà mặt trời đã làm cho hương tỏa ngát)*. Những từ tổ và tư kết hợp thành từ anh (em) rể*, nhắc đến Hoàng Tố Lý, một người thân thuộc của chúa Trịnh, trong khi các chữ hoa và nhật tạo thành chữ việp, nhằm nhắc đến danh hiệu cao quý của vị tướng quan trọng của chúa Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc. Chữ diệu* nhằm nhắc đến năm sinh của cả hai. Toàn bộ câu này được giải nghĩa là muốn nói đến hai người đàn ông đang mưu chống lại chúa Trịnh.*

Những hình thức chơi chữ như thế, có tác dụng hoặc là tiên đoán hoặc là phẩm bình chính trị kín đáo, chúng tiếp tục diễn ra và tăng lên nhiều trong thời kỳ Tây Sơn. Đặc biệt có nhiều toan tính phân biệt số phận của nhà Tây Sơn và các nhà lãnh đạo chính trị khác bằng cách sử dụng những chữ tạo thành niên hiệu của họ. Trong những phản ứng của người dân đối với việc Nguyễn Nhạc tự tuyên xưng là Thái Đức hoàng đế, có sự khảo sát hai chữ này để tìm ra những điềm báo. Những phân tích sau đó kết luận rằng triều đại của Nguyễn Nhạc sẽ kết thúc trong 14 năm. “Những người có hiểu biết giải thích rằng hai chữ Thái Đức có nghĩa là “Ba ngườỉ chiến đấu trên mặt nước, và trong 14 năm, họ sẽ thất bại”. Những chữ đó gợi một lời tiên đoán phức tạp. Chữ Thái chứa đựng chữ “ba” và chữ “nước”*, chữ sau đồng âm với chữ “nước” (đất nước); chữ Đức chứa đựng trong nó chữ “mười bốn” và chữ “mất”*. Và thật vậy, như Bùi Dưong Lịch, một nho sĩ đã đưa ra phân tích này, triều đại Thái Đức kéo dài trong 14 năm, từ năm 1778 đến năm 1793.

Các phân tích tương tự được áp dụng cho những nhân vật chính trị quan trọng khác ở cuối thế kỷ XVIII. Một sự khảo sát tỉ mỉ như thế về các chữ dành cho vua Lê là Lê Chiêu Thống, được cho là đã tiên đoán sự thoái vị chắc chắn sắp xảy ra của ông:

"Việc chiết tự hai chữ Chiêu và Thống* cho ra nghĩa như sau: 'mặt trời che phủ con dao nằm trên miệng và cắt đứt sợi dây quan hệ gia đình của người anh thứ hai'. Sau đó, nhà vua trốn khỏi xứ bắc và Nguyễn Chỉnh bị giết, và tất cả diễn ra đúng như những từ ngữ đã nói lên”.*

Cho dù còn mù mờ, sự giải thích này được cho là đã tiên đoán những sự kiện diễn ra trong tương lai. Giống như ví dụ trước, cái vẻ chính xác của sự tiên đoán này chỉ được ghi nhận sau khi nó xảy ra, và vì thế, chúng ta không thể xác định có đúng là tiến trình phân tích chữ nghĩa đã diễn ra trước khi nhà vua bị phế truất hay không. Tuy nhiên, có vẻ như những nỗ lực nhằm xác định tương lai của vua Lê đã được thực hiện vào thời điểm đó. Sau này, kỹ thuật tương tự được áp dụng cho chữ tên của hai vua Tây Sơn ở phía bắc là Quang Trung và Cảnh Thịnh. Tên của hai vì vua này được phân tích rồi mổ xẻ thành những câu thơ trong dân gian, với kết quả như sau:

Đầu cha ta lấy làm chân con,

Trong 14 năm tròn, sẽ đạt đến con số cuối cùng.

Người cha có một cái đầu nhỏ, và người con một cái chân nhỏ,

Đến năm Nhâm Tuất, họ sẽ không còn nữa.

Bài thơ này mô tả sự kiện mỗi chữ Quang và Cảnh đều có chữ "thiểu” trong đó. Chữ Quang ở trên, chữ Cảnh ở dưới. Như câu cách ngôn ngắn này đã tiên đoán, sau 14 năm trị vì kể từ năm 1788, năm cuối cùng của nhà Tây Sơn là năm Nhâm Tuất -1802.

Cuối cùng, trong lúc kết quả sự phân tích chữ nghĩa có thể chuyển thành thơ, những câu tục ngữ khác có thể dùng chữ Hán để ám chỉ một cách kín đáo số phận của nhiều nhân vật khác nhau. Một bài hát ngắn được cho biết là đồng thời với phong trào Tây Sơn cũng có các vần điệu về những nhân vật quan trọng trong chính quyền Tây Sơn ở phía bắc nhằm phẩm bình về số phận được đoán trước (hay hi vọng như thế) của họ:

Mời người mang nước lên thuyền.

Quang đổ vỡ, Chỉnh bị tiêu diệt,

còn Gánh rơi ngay xuống nước.*

Chữ quang là đôi gióng dùng để kề vai gánh bình nước, nhằm ám chỉ Quang Trung, và cái chết của ông, chữ chỉnh hay chĩnh, là vại nước, nhằm ám chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh, người đã bị nhà Tây Sơn đánh bại. Và chữ gánh, nghe gần đồng âm với chữ cảnh, nhằm nhắc đến vua cuối cùng của Tây Sơn là Cảnh Thịnh.

III.4.4. Đợi cứu thoát: Trông chờ một sự thay thế về chính trị

Ngoài cố gắng nhìn thấy diễn biến của những sự kiện trong tương lai, người thường dân và giới trí thức Đại Việt cũng biểu lộ sự phản kháng trước những nhà cai trị của họ bằng cách nói lên sự ưa thích những người thay thế về chính trị. Chẳng hạn những người dưới chính quyền họ Trịnh thường bày tỏ niềm hi vọng nhà Nguyễn đến để giải thoát họ. Tương tự như thế, một số người sống dưới chế độ Tây Sơn ở Đàng Ngoài mong đợi sự cứu thoát trước hết của quân Thanh sang để hỗ trợ vua Lê bị phế truất vào năm 1788, và sau đó của nhà Nguyễn, khi cuộc xâm lăng của quân Thanh bị thất bại. Cuối cùng, những người dưới chế độ nhà Nguyễn vào những thập niên 1780, 1790 và đầu thế kỷ XIX thường biểu lộ nỗi ước muốn được cứu thoát bởi quân Tây Sơn. Vào những thời điểm khó khăn, thông thường người dân hi vọng vào những nhà cai trị mới, có lẽ đó tin rằng người thay thế sẽ khá hơn kẻ áp bức hiện tại. Nét đặc biệt của việc tìm kiếm một người thay thế về mặt chính trị trong thời kỳ Tây Sơn thể hiện ở điểm người dân Đại Việt có thể chờ đợi ở nhiều người thay thế chân thật.

Trong ba thập niên cuối cùng của thế kỷ XVIII, giới nông dân (và những thành phần khác) đã lựa chọn nhiều thế lực chính trị để bày tỏ lòng trung thành, đổi lại việc họ được giúp thoát khỏi nỗi khổ đau của họ. Nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn (và trong một mức độ nào đó là nhà Lê-Trịnh), đã tranh đấu với nhau chẳng những trên chiến trường, mà còn trên đấu trường tranh thủ lòng dân. Trong lúc những đề xuất về chính trị của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn có thể không hoàn toàn khác biệt nhau theo một nghĩa tuyệt đối, thì theo cái nhìn của người nông dân, thế lực nào không áp bức họ lúc đó có thể được họ mong chờ đến cứu họ, cho dù đó có thể là một hi vọng hão huyền. Thật vậy, rất có thể tiếng tốt của nhà Tây Sơn phát triển trong ký ức dân gian đến tận thế kỷ XIX một phần xuất phát từ việc họ “không phải là nhà Nguyễn”. Ở một mức độ nào đó, chính quyền nhà Tây Sơn đại diện cho một thời đại lý tưởng hóa (tuy nhiên nhớ nhầm) đến trước thời kỳ của những đòi hỏi lao động nặng nhọc và những khó khăn khác đã kích động sự nổi dậy ồ ạt của giới nông dân vào nửa đầu thế kỷ XIX.

Ý niệm người dân chờ đợi sự giải thoát được khai triển sớm vào thời kỳ Tây Sơn, khởi đầu vào năm 1774, khi quân Trịnh xâm chiếm lãnh thổ của nhà Nguyễn. Chúa Trịnh và các võ tướng của ông miêu tả hành động của họ phần nào như một sứ mạng giải cứu nhân dân hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam. Người dân ở những vùng này được cho là đã chịu đựng các quan chức tham nhũng, sưu cao thuế nặng, cùng những cuộc đột kích thường xuyên của dân vùng cao. Tóm lại, cuộc xâm lăng của quân Trịnh nhằm giải thoát những người dân từng phải chịu đựng đau khổ “từ hơn một trăm năm qua”. Lê Quý Đôn cũng viết về những bức thư được nhiều nho sĩ ở Đàng Trong gửi cho ông, trong đó, họ bày tỏ nỗi vui mừng lớn lao khi thấy quân triều đình đến và trước khả năng thống nhất lãnh thổ Đại Việt mà họ đã chờ đợi rất lâu. Cho dù tình cảm đó có thể chưa có tính tiêu biểu rộng rãi, song những gì chúng thể hiện trong những lá thư này phản ánh cảm nhận là sự đến nơi của quân Trịnh có thể giải tỏa những nỗi khó khăn mà họ đã trải qua.

Song tất cả nhiệt tình trước sự hiện diện của quân Trịnh cũng sớm nhường chỗ cho sự vỡ mộng, và người dân ở Thuận Hóa cảm thấy bực mình dưới quyền lực của những người mà họ coi như là cứu tinh và hi vọng được cứu vớt. Sách Đại Nam thực lục viết rằng vào năm 1776, các quan lại của chúa Trịnh đã quấy rối dân chúng ở Thuận Hóa khiến họ đâm ra oán giận, giận về điều này cũng như về những nỗi khổ khác đè lên vai họ. Mấy năm sau, vào năm 1779, một giáo sĩ sống trong vùng do chúa Trịnh kiểm soát đã viết rằng “Đàng Trong (ở đây muốn nói đến phần phía bắc của Đàng Trong đang do quân Trịnh chiếm giữ) luôn hi vọng nhìn thấy đức vua của họ (chúa Nguyễn) dẫn đầu đoàn quân đến nơi giải thoát họ khỏi cảnh sống nô lệ nhục nhằn gây ra bởi những người ở Đàng Ngoài”. Tình hình tiếp tục xấu hơn, đặc biệt khó khăn dưới sự cai trị của viên trấn thủ cuối cùng của chúa Trịnh ở Thuận Hóa. Phạm Ngô Cầu hành động “tàn ác, thô lỗ và tham lam, quấy nhiễu dân chúng và đẩy khu vực ấy vào cảnh đói nghèo, khốn khổ”. Như một giáo sĩ đã viết vào giữa năm 1786, một thời gian ngắn trước khi nhà Tây Sơn đánh chiếm Đàng Ngoài: “Tất cả nông dân ở những vùng này biểu lộ nỗi căm ghét không nguôi đối với mọi người ở Đàng Ngoài, không trừ một ai”. Thật vậy, sự kiện quan chức Trịnh thăm viếng trại Tây Sơn vào đầu năm 1786 khiến Nguyễn Hữu Chỉnh mở một cuộc tấn công đã phản ánh mức độ không hài lòng của những người dân ở đây.

Khi sự thù nghịch đối với dòng họ Trịnh ở những người dân mà họ đã “giải thoát” tại vùng thượng Đàng Trong, danh tiếng của họ ở Đàng Ngoài cũng nhanh chóng sụt giảm. Trong nhiều tình huống khác nhau, điều này biểu lộ qua việc người dân bày tỏ sự ủng hộ những người thay thế về chính trị. Cuối cùng, tình hình trên dẫn đến sự kiện vào năm 1779, một giáo sĩ châu Âu đã viết về thái độ của người dân đối với một cuộc nổi dậy gần Thăng Long: “Mọi người ủng hộ những kẻ nổi dậy, và rất ít người theo nhà vua. Người ta thích thấy họ chiến thắng với hi vọng tìm thấy dưới một chính quyền mới, sự kết thúc của vô số điều tệ hại mà họ phải khuất phục trong nhiều năm”.

Trong lúc ấy, sự bất ổn đã khuấy động ngay bên trong trại Tây Sơn. Mặc dù anh em Tây Sơn đã đứng lên một phần để giải thoát dân chúng Đàng Trong khỏi sự hà khắc về chính trị, khi cuộc nổi dậy của họ chuyển thành một chế độ chính thức, họ nhanh chóng đặt gánh nặng lên vai những người này. Viết trong tác phẩm Phủ biên tạp lục vào năm 1776, chỉ ba năm sau khi lực lượng Tây Sơn đã chuyển cuộc nổi dậy của họ xuống vùng đồng bằng đông dân, Lê Quý Đôn nhận định rằng: “dân chúng vùng Quảng Nam vào thời đó đã trải qua nhiều gian khổ. Tất cả đều trông chờ quân đội của triều đình (triều Lê-Trịnh) đến để giải thoát và cứu vãn họ”. Hai năm sau, Charles Chapman cũng ghi nhận sự bất mãn của người dân tương tự như thế đối với sự cai trị ngày càng phiền hà của Nguyễn Nhạc. Dựa vào những cuộc nói chuyện với người Việt trong thời gian một tháng lưu lại lãnh thổ của nhà Tây Sơn, trong đó có việc đi thăm kinh đô Chà Bàn của Nhạc, Chapman viết về tình hình lúc đó như sau:

“Chính quyền của Nhạc được điều hành trong sự ghê tởm cùng cực... Nhiều người trong quân lính của ông và hầu hết những người dân tôi gặp đều công khai nói với tôi và những người đi với tôi là họ đã phải cam chịu như thế nào và bày tỏ mong ước là người Anh hãy bảo vệ họ, đảm bảo với chúng tôi rằng chỉ cần sự xuất hiện của một lực lượng tối thiểu là cả nước sẽ chạy đi gặp họ”*.

Điều này cho thấy rằng nhiều người dân sống dưới chính quyền Tây Sơn đã bắt đầu nghĩ tới người thay thế chính trị. Trong khi có ít cơ hội để người Anh có thể dính líu vào điều mà Chapman coi là công việc nội bộ, cảm nghĩ do ông diễn tả phản ánh niềm hi vọng chung là sẽ xuất hiện những người thay thế về chính trị.

Cuối cùng vào tháng 6.1786, khi nhà Tây Sơn chiếm lấy những phần đất cũ của các chúa Nguyễn đang nằm trong tay quân Trịnh, người dân đã sẵn sàng trả thù những người cai trị hà khắc và đón chào quân Tây Sơn như những nhà giải phóng. Khi quân Trịnh chạy khỏi Phú Xuân trước sức tấn công của quân nổi dậy, một số người dân địa phương đã bắt giữ những người từng hành hạ họ và mang đến trước lực lượng Tây Sơn, và có trường hợp, quân Tây Sơn ném 200 quân Trịnh xuống biển. Trong những trường hợp khác, người ta kể rằng dân địa phương đã tự tay tàn sát quân Trịnh. Sự đáp trả đầy nhiệt tình mà quân đội Tây Sơn nhận được từ dân chúng trong cuộc xâm chiếm vùng thượng Đàng Trong có lẽ đã phản ánh tình cảm của người dân cảm thấy họ bị chiếm đóng trong hơn một thập kỷ bởi những người mà họ coi như là quân đội "nước ngoài”, và họ đã phải trải qua những gian khổ to tát vào thời kỳ này. Với họ, quân Tây Sơn là biểu hiệu của sự cứu vớt. Điều đó không chứng tỏ rằng người dân ở Phú Xuân và ở vùng phía bắc nhất thiết cảm thấy một mối quan hệ thân thiết về chính trị và văn hóa với những đội quân xuất phát từ ngọn núi Tây Sơn, mà đúng hơn là họ chào đón những người này như là “những người khác” so với những lãnh chúa họ Trịnh vừa qua.

Sự đồng thuận ban đầu đối với chính quyền Tây Sơn ở Đàng Ngoài phần lớn là phản ứng trước những khó khăn trong đời sống trước đây dưới sự kiểm soát của quân Trịnh, kết hợp với sự gian khổ do nhiều năm đói kém gây ra. Như một giáo sĩ đã viết: “Người dân rất mệt mỏi dưới sự thống trị bạo tàn của dòng họ Trịnh, và thậm chí họ còn bị kiệt quệ vì những điều phiền toái do quân lính gây ra mà họ phải chịu đựng từ lúc chúa khởi sự nắm quyền”. Cũng vì thế, dù cho lúc ban đầu người dân không dám tin chắc vào ảnh hưởng của quân Tây Sơn, đạo quân xâm lấn này được lệnh của cấp chỉ huy không được quấy nhiễu người dân ở kinh thành Thăng Long. Đạo quân phía nam rất tuân thủ lệnh này, một sự kiềm chế chắc chắn đã mang lại sự khuây khỏa cho dân chúng ở Thăng Long. Cuối cùng, có lẽ người dân phía bắc đã đáp ứng lại lời tuyên bố của nhà Tây Sơn rằng họ đang phục hồi quyền lực cho triều Lê. Trong trí tưởng của người dân, sự phục hồi này thể hiện một hình thức cứu vãn về chính trị, cho dù hoàng tộc triều Lê chỉ còn là một cái bóng của chính họ. Người ta có thể nói rằng người dân Đàng Ngoài tập hợp lại không phải vì nhà Tây Sơn hoặc thậm chí vì vua Lê đã được phục hồi ngôi vị, mà đúng hơn vì triều đại nhà Lê đã được lý tưởng hóa từ thế kỷ XV, và sự phục hồi này đã được ngầm hứa hẹn bởi nhà Tây Sơn.

Sự kiên nhẫn ban đầu của nhà Tây Sơn vào mùa hè năm 1786 thay đổi về cơ bản khi họ quay lại Thăng Long, như chúng ta đã thấy. Sự cướp phá lan rộng và sự ngược đãi người dân địa phương đã cho thấy sự kết thúc thời kỳ ngắn ngủi mà nhà Tây Sơn đã được người dân phía bắc yêu mến*. Theo thư của các giáo sĩ, năm 1788, dân miền Bắc bắt đầu biểu lộ công khai lòng căm hờn đối với những lãnh chúa mới của nhà Tây Sơn và một ước muốn được giải thoát khỏi tay họ*. Mấy năm sau, một nhân chứng khác kể rằng “không có gì ngoài thuế má và lao dịch, chúng đẩy người dân vào cuộc khủng hoảng và điều này khiến họ mơ ước được giải thoát".*

Kết quả của sự bất mãn gia tăng đối với nhà Tây Sơn là người Việt sống ở vùng thượng Đàng Trong và Đàng Ngoài bắt đầu ngóng về phương Nam và sức mạnh đang đâm chồi nẩy lộc của quân Nguyễn, để giải thoát họ. Do việc áp đặt sự kiểm soát chặt chẽ trên biên giới giữa lãnh thổ do Tây Sơn kiểm soát và khu vực nằm trong tay chúa Nguyễn, người dân ở phía bắc khó nhận được thông tin chi tiết về những biến động ở phía nam. Họ dựa vào sự suy đoán vài mẩu tin đi theo tàu thuyền vòng qua ngả Macao. Thông tin nhận được đủ để người dân phía bắc biết được sự tồn tại của nhà Nguyễn và sức mạnh đang lên của họ. Họ không có thông tin về tình hình chính xác của chúa Nguyễn ở vùng Gia Định, song họ nuôi hi vọng rằng chúa Nguyễn có thể thể hiện một hình thức cứu vãn, như trước đây họ đã đặt hi vọng vào nhà Tây Sơn chưa được biết đến bao nhiêu. Thật vậy, có vẻ như một sự lý tưởng hóa cuộc sống dưới chế độ nhà Nguyễn đã bắt đầu diễn ra ở những nơi mà các chúa Nguyễn từng thống trị và chính sự lý tưởng hóa này kết hợp với những khó khăn trong đời sống dưới chính quyền Tây Sơn đã kích thích trí tưởng của người dân quay nhìn về phía sau.

Sử biên niên của nhà Nguyễn vào năm 1791 (cho dù không phải là không có thiên kiến) đã chép rằng “dân Thuận (Hóa) và Quảng (Nam) đã căm ghét chính sách tàn bạo của nhà Tây Sơn trong một thời gian dài, và chờ đợi quân của triều đình từng ngày một. Vì vậy, cứ mỗi lần nghe gió nồm thổi là họ cùng nói ‘chúa cũ của chúng ta đã đến'”. Sử năm sau cũng miêu tả việc người dân sống trong những huyện dưới quyền Tây Sơn ở Phú Yên và Khánh Thuận mang cả vợ con chạy về những vùng do chúa Nguyễn* kiểm soát ở xa về phía nam*. Sách Tây Sơn thuật lược chép tương tự: “Ở Bắc kỳ thì dân trí thức đều chán ghét triều Tây Sơn, mong được vị chân chúa. Từ sau khi Gia Định đã dẹp yên rồi, mỗi lần gió nồm thổi, thì người người đều nói rằng đó là gió của ông Chủng (Gia Long) vậy”*. Vào thập niên 1790, người dân tiếp tục mong chờ chúa Nguyễn đến, ngay cả khi niềm hi vọng của những người sống dưới sự kiểm soát của nhà Tây Sơn liên tục dâng lên rồi tiêu tán. Một thư giáo sĩ viết vào tháng 5.1792 nhắc đến “vị chúa vùng Hạ Đàng Trong, người mà tất cả dân Đàng Ngoài đều trông đợi với sự nôn nóng tột bực”. Những lời đồn đại có vẻ hợp lý cho biết là lực lượng của chúa Nguyễn sắp đến nơi, như trong năm 1794, khi có tin đồn loan truyền còn không lâu nữa quân Nguyễn sẽ đến, sau khi đã phá hủy thủy quân Tây Sơn neo đậu ở Qui Nhơn vào năm trước. Nhưng bằng cách này hay cách khác việc quân chúa Nguyễn đến luôn được đoán trước, hoặc bởi thời tiết, hoặc do chiến thuật quân sự cẩn trọng của chúa Nguyễn Ánh.

Giữa thập niên 1790, người dân phía bắc bắt đầu suy đoán khi nào, hay trừ khi nào, quân Nguyễn cập bờ biển của họ. Một thư giáo sĩ viết vào tháng 8.1794 với ý đoán trước là việc đó đã lan truyền ở Đàng Ngoài. “Người ta tiếp tục chờ đợi vị chúa hợp pháp ở Đàng Trong sẽ đến, nhưng khi nào thì ông đến?" Pierre Eyot đặt ra câu hỏi như trên trong một bức thư đề ngày 6.8.1794. Vài tuần sau, một giáo sĩ ở vùng Hạ Đàng Ngoài là Charles La Mothe đã viết rằng sự phục hồi vương quốc bởi vị chúa Đàng Trong đã bị truất ngôi là “điều mà mọi người nhiệt tình hi vọng và mơ ước”. Hơn nữa, dân chúng ở Đàng Ngoài chẳng những suy đoán là chắc chắn chúa Nguyễn sẽ đến nơi, mà còn bắt đầu vạch kế hoạch đứng lên ủng hộ sự tiến công của quân Nguyễn. Năm 1794, một người đàn ông ở Thanh Hóa tiếp xúc với Nguyễn Ánh và được bảo đi tuyển mộ lính để nổi dậy chống nhà Tây Sơn. Năm 1797, một giáo sĩ viết rằng “ [nhà Tây Sơn] phải biết sợ người dân Đàng Ngoài, những người không ủng hộ ách áp bức của họ, không giúp đỡ họ và quay lưng lại với họ. Nhiều lần họ đã đứng lên, nhưng không thành công... Họ chờ đợi vị chúa ở Đồng Nai như là người giải thoát cho họ”.*

Khi người dân phía bắc bắt đầu nghe nhiều tin đồn hơn về việc chúa Nguyễn sắp đến nơi vào những năm 1800 và 1801, họ tăng cường kế hoạch thách thức nhà Tây Sơn, khi mà quyền lực của phong trào này ngày càng không thể chịu đựng nổi, và chế độ này đang đối mặt với một cuộc chiến đấu vô vọng với chúa Nguyễn. Một thư giáo sĩ năm 1801 đã tóm lược tình hình dân chúng ở Đàng Ngoài:

"Về phần thường dân, tinh thần của họ bị khích động mãnh liệt. Khắp nơi trên cả nước, người Cơ Đốc giáo và người lương đang bị nghiền nát dưới ách nô lệ tàn bạo của những kẻ nổi loạn Tây Sơn, rất nhiệt tình mong ước sự đến nơi của vị chúa Đàng Trong; nhiều tin đồn các loại, đến nỗi người ta không biết tin vào đâu, vài người nói rằng một số nhóm khởi nghĩa được thành lập khắp nơi, sẵn sàng đứng lên chống lại những người nổi loạn Tây Sơn ngay khi vị chúa hợp pháp vừa xuất hiện".

Trong một trường hợp, vị lãnh đạo một nhóm có kế hoạch nổi dậy chống Tây Sơn bí mật đi về phía nam, tại đây ông ta nhận các tài liệu từ chúa Nguyễn Ánh cho phép ông ta tổ chức cuộc nổi dậy và sắp đặt việc giúp ông ta tuyển mộ người đi theo. Cuộc nổi dậy đã bị nhà Tây Sơn nghiền nát. Sự thất bại của những cuộc nổi dậy như thế có thể do sự kết hợp của tổ chức kém, số người ít (hiếm khi quá một trăm người), và điều kiện quân sự hóa của nhà Tây Sơn cho phép họ huy động quân nhanh chóng để đàn áp những cuộc khởi nghĩa của người dân như thế. Tuy nhiên, các cuộc nổi dậy và những cảm nghĩ phổ biến của người dân được các giáo sĩ châu Âu đề cập đến cũng cho thấy một vài dấu hiệu về sự thù nghịch dai dẳng và lớn mạnh đối với chính quyền nhà Tây Sơn.

Điều trớ trêu là ngay vào lúc dân chúng ở Đàng Ngoài ngày càng biểu lộ niềm hi vọng rằng chúa Nguyễn sẽ sớm giải thoát họ khỏi tay nhà Tây Sơn, thì những người đã sống dưới sự kiểm soát chính trị của lực lượng nhà Nguyễn ở vùng cực nam lại hi vọng được cứu khỏi tay họ. Không có nhân vật nào hơn Giám mục Bá Đa Lộc, người châu Âu ủng hộ Nguyễn Ánh nhiệt tình nhất, người đã mô tả những cảm nghĩ rõ rệt của người dân khi ông viết vào năm 1791 về một tình hình đang ngày càng khó chịu đối với những người Việt Nam sống dưới sự kiểm soát của chúa Nguyễn: "(Nguyễn Ánh) chất lên vai người dân của ông gánh nặng thuế má và những dự án lao động, và vào lúc này, người dân khốn khổ bị giày vò bởi nạn đói, đến nỗi họ mong nhà Tây Sơn đến”. Hai năm sau, vào năm 1793, tình trạng những người sống dưới quyền của chúa Nguyễn cũng không có vẻ cải thiện. Trong khoảng thời gian từ khi có sự chỉ trích của vị Giám mục, một giáo sĩ Pháp khác viết rằng "hai năm cuối cùng đó, mọi người phải đi làm việc công, và họ không bận tâm đến điều gì khác ngoài việc tìm những phương cách để sống sót, sự nghèo khổ đã đến độ cùng cực”. Cố nhiên, những đòi hỏi của chúa Nguyễn, cũng như của nhà Tây Sơn, đã khiến cho người dân căm phẫn và làm phát sinh nỗi ước muốn của họ được một tổ chức khác cứu vớt.

Vào giữa thập niên 1790, tình hình ở phía nam vẫn không thể chịu đựng nổi đối với nhiều người và ngay cả khi sử nhà Nguyễn viết rằng vào năm 1795, nhiều người dân trốn khỏi các trại đồn điền được thiết lập trên lãnh thổ do chúa Nguyễn kiểm soát. Lời tường thuật trong một thư giáo sĩ cùng năm trên nói rõ hơn nỗi gian khổ mà những người sống dưới sự cai trị của Nguyễn Ánh phải đối mặt và chỉ rõ rằng một số người vẫn tiếp tục coi nhà Tây Sơn là sự thay thế nhà Nguyễn tốt hơn:

“Điều bất hạnh lớn nhất của chúa Nguyễn Ánh là ông đã làm cho lòng dân giận ghét ông, có lúc vì cách hành xử đầy kiêu hãnh của ông, có lúc là một số hành vi điên rồ, như mong muốn xây dựng một ngôi đền lộng lẫy thờ Khổng tử, và tái thiết thành phố Sài Gòn* v.v... Những dự án đó được ban ra vào thời điểm người dân đã bị tràn ngập bởi [những đòi hỏi] lao dịch và đóng góp cho cuộc chiến tranh mà người dân ghê tởm, họ mong ước được những người nổi dậy mang đi, hi vọng rồi cuối cùng họ cũng được làm dịu bớt những nỗi bực mình”.

Sự kiện vào năm 1795, nhà Tây Sơn tiếp tục xuất hiện như một người thay thế chính trị đáng ao ước, cho thấy cả hai phía phải đương đầu với những khó khăn nghiêm trọng như thế nào trong việc củng cố sự ủng hộ của người dân. Để kề nhau chứng cứ từ những vùng đất do chúa Nguyễn kiểm soát với niềm hi vọng mà người phương Bắc ấp ủ để được cứu vãn bởi bàn tay nhà Nguyễn một lần nữa cho thấy rằng niềm hi vọng đó không nằm trong sự hiểu biết cụ thể về chính sách của một nhà cai trị đặc biệt. Đúng hơn, nó xuất phát từ niềm tin rằng bất cứ nhà cai trị nào cũng có thể đạt được tiến bộ hơn một người đương quyền.

Năm 1802, đạo quân được chờ đợi từ lâu của chúa Nguyễn tiến ra Đàng Ngoài, cuối cùng đã “giải thoát” những cư dân đó khỏi tay nhà Tây Sơn. Rồi người dân ở phía bắc cũng sớm phát hiện ra rằng hi vọng của họ chỉ là ảo vọng. Trước khi chiếm lấy Thăng Long vào tháng 7.1802, quân của chúa Nguyễn đã bắt đầu gây khó cho dân Đàng Ngoài. Người ta kể rằng trong các chiến dịch ở phía bắc, quân chúa Nguyễn đã buộc người dân phải nộp ngựa, yên ngựa, và các vũ khí được trang trí. Trong một vài trường hợp, khi các làng mạc không thể cung ứng những vật phẩm mà họ đòi hỏi, họ đòi phải đóng góp bằng tiền. Giáo sĩ Pierre-Jacques de la Bissachère đã ghi: “Điều đó là sự khởi đầu nỗi bất mãn đối với chính quyền mới”.

Ác cảm đối với nhà Nguyễn gia tăng đều đặn trong những năm đầu của triều đại mới. Chỉ vài năm sau bản tường thuật ban đầu, de la Bissachère viết rằng: “vương (Ánh) bị người dân căm ghét rất nhiều, đặc biệt khi ông tự xưng hoàng đế, do những lao dịch quá đáng mà ông áp đặt cho người dân để xây dựng các pháo đài và thành phố. Ông ta kết luận “Người Đàng Ngoài kêu gọi ông vua đang tại vị giúp họ tiêu diệt nhà Tây Sơn, nhưng nay ông cai trị họ chưa đầy sáu năm, họ nguyền rủa ông mỗi ngày vì ông bắt họ lao dịch tệ hại gấp hai lần so với thời Tây Sơn; họ nuôi ý định nổi dậy, nhưng họ không có đủ sức lực (để làm thế) và thiếu một nhà lãnh đạo có thể kích thích họ hành động”. Sự giận dữ của người dân phía bắc đã kết hợp với sự kiện nhà Nguyễn không giữ lời hứa khôi phục nhà Lê. Như de la Bissachère đã nhận định vào đầu thế kỷ XIX:

“Người dân phía bắc... nôn nóng chờ đợi ông (Nguyễn Ánh) giải thoát họ khỏi sự tàn bạo của những kẻ nổi loạn Tây Sơn và tái lập ngai vàng của dòng vua cũ, nhưng trong sự mong chờ của họ, những người Bắc hà này thất vọng ê chề, bởi vì vị chúa này mới vừa chiếm lấy Bắc hà, nơi người ta trông ông như trông một người giải thoát, thì ông đã tự xưng vương và đón nhận sự tuyên phong chính trị của hoàng đế Trung Quốc”.

Hoặc như tác giả Đặng Phương Nghi nhận định trong nghiên cứu của bà về Việt Nam thế kỷ XVIII:

“Bị kiệt quệ bởi họ Trịnh, dân chúng hoan nghênh cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn; tuy nhiên, điều đó không kéo dài trước khi họ thấy rằng quyền lực của Tây Sơn là một sự áp bức ghê tởm, và cầu mong chúa Nguyễn Ánh đến nơi; khi vua Gia Long ngồi lên ngai vàng, họ lại kêu rên và coi nhà cai trị mới như một bạo chúa man rợ”.

Xét chung, chứng cứ khả tín cho thấy rằng cuộc sống không nhất thiết tốt hơn hay xấu hơn dưới bất cứ một lực lượng chính trị-quân sự đặc biệt nào trong những năm dưới chính quyền Tây Sơn. Mỗi bên đều đặt ra những đòi hỏi lớn lao cho những người sống dưới quyền lực của họ để tái thiết, xây dựng phòng tuyến, bòn rút tài nguyên và các mưu đồ quân sự. Với người dân, bên khác, dù là gì đi nữa, đều có thể là bên cứu vớt họ. Chẳng hạn như cùng lúc với việc dân chúng phía nam mong được nhà Tây Sơn cứu giúp thì những người sống ở phía bắc lại mong được cứu thoát khỏi tay nhà Tây Sơn. Thật vậy, họ luôn mang niềm hi vọng chung rằng người cai trị sắp tới hoặc một người thay thế nào đó, sẽ tốt hơn và ít có những đòi hỏi hơn. Như những sự kiện thời Tây Sơn đã chỉ rõ, sự cứu giúp hằng mong đợi đã không bao giờ đến. Những người sống dưới sự thống trị của họ Trịnh và được nhà Tây Sơn giải thoát lại nuôi hi vọng sớm được chúa Nguyễn giải thoát cho họ. Những người ở vùng cực nam được chúa Nguyễn giải thoát khỏi bàn tay nhà Tây Sơn lại sớm mong mỏi sự trở lại của người lãnh đạo chính trị cũ của họ. Và những người sống dưới chính quyền họ Trịnh, những người lúc đầu được nhà Tây Sơn giải thoát rồi lại được chúa Nguyễn giải thoát, cũng sớm mong mỏi lật đổ được ách thống trị của nhà Nguyễn.

III.5. KẾT LUẬN

Trong chương này, tôi chỉ chạm vào bề mặt mối quan hệ phức tạp tồn tại giữa giới nông dân Việt Nam và những người lãnh đạo của phong trào Tây Sơn. Dân cư quá đông đúc, đất đai rất khác nhau và thời gian quá dài để có thể có được một sự miêu tả dứt khoát đời sống của người nông dân trong những năm tháng dưới thời Tây Sơn. Tuy nhiên, điều mà tôi hi vọng có thể làm được là chứng tỏ rằng sự miêu tả có tính thuyết phục về nhà Tây Sơn thường không quá dễ dàng. Sự miêu tả dễ dãi về cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn như một “phong trào nông dân" đã che giấu mối quan hệ phức tạp hơn tồn tại giữa những người lãnh đạo của phong trào này (bản thân họ không phải là nông dân theo nghĩa thông thường của từ ngữ này) và những người họ tìm kiếm để đưa vào trong quân đội của họ và đặt dưới quyền lực chính trị của họ. Chúng ta không thể giả sử rằng những người lãnh đạo phong trào có cùng mối quan tâm với khối đông đảo quần chúng nông dân, và lối giải thích nhằm đồng nhất hóa giữa anh em Tây Sơn với phong trào là vô cùng sai lạc.

Có những giai đoạn đáng ghi nhớ về sự hợp tác nhiệt tình giữa người dân với phong trào Tây Sơn và một vài mục tiêu của họ, nhưng lại có nhiều trường hợp về sự đấu tranh của người dân địa phương chống lại những đòi hỏi của chính quyền mới. Điều quan trọng là được xem như sự biểu lộ mối ác cảm đặc biệt đối với nhà Tây Sơn. Thay vào đó, những hành vi này cần được xem là sự đối kháng chống lại bất cứ sự gia tăng ép buộc nào bởi quyền lực của nhà nước, bất kể nguồn gốc xuất phát hay những luận điệu của quyền lực đó. Nói cách khác, không có gì quan trọng lắm khi cho rằng nhà Tây Sơn đã khẳng định những điều này với người dân, hay đúng hơn là bất cứ một nhóm chính trị cùng thời nào cũng sẽ làm như thế. Trường hợp này được chứng minh bởi sự kiện là người dân nói chung trong giai đoạn này thưởng lớn tiếng kêu ca lúc thì về họ Nguyễn, lúc thì về họ Trịnh và nhà Tây Sơn. Thêm vào đó, người dân vừa được “giải thoát" khỏi sự tàn ác của một chế độ thì đã bắt đầu công khai chỉ trích việc làm quá đáng của những nhà lãnh đạo mới và hi vọng vào sự giải thoát của một thế lực chính trị-quân sự khác trong thời đại của họ.

Chính trong bối cảnh này mà sự tuyên dương nhà Tây Sơn nổi lên trong trí tưởng người dân thế kỷ XIX cần được hiểu hết ý nghĩa của nó*. Sự thay đổi quan điểm của người dân về phong trào và chính quyền Tây Sơn xuất phát từ ác cảm của họ đối với nhà Nguyễn cũng như từ sự hoài niệm về nhà Tây Sơn. Tất nhiên, nỗi luyến tiếc về một thời kỳ tốt đẹp là một kiểu mẫu phổ biến, vấn đề ở đây là chúng ta cần nhận thức về nỗi luyến tiếc như thế và tìm hiểu chúng đã hình thành như thế nào. Tôi tin rằng các nhà sử học thế kỷ XX dựa rất nhiều vào những chuyện truyền khẩu và các truyền thống dân gian khác về nhà Tây Sơn đã nhận thức được nhiều về kiểu luyến tiếc quá khứ đó. Trên nhiều phương diện, các tài liệu lịch sử cho thấy nhà Tây Sơn đã không tốt hơn hay xấu hơn những người đi trước hay đi sau họ.

Báo cáo nội dung xấu