Cuộc Nổi Dậy Của Nhà Tây Sơn - Chương 4

CHƯƠNG IV

NHỮNG KẺ SỐNG BÊN LỀ CUỘC NỘI CHIẾN NGƯỜI CƠ ĐỐC GIÁO, HẢI TẶC VÀ CÁC THÀNH PHẦN KHÁC

* * *

Đó là năm 1787 và tôi vẫn còn sống.

Nhưng tôi vẫn sống là nhờ đức của Đấng Hoàng Thiên

Bởi vì tôi đã sống giữa gươm giáo và vây phủ bởi cái chết.

-Visente Liêm Ký, 1787-

Người nông dân Việt sống ở đồng bằng không phải là giai tầng duy nhất bị tác động sâu xa bởi những biến động thời kỳ Tây Sơn. Cuộc nổi dậy và những chế độ mà nó tạo ra cũng có những tác động quan trọng lên những nhóm người sống bên lề của xã hội Đại Việt thế kỷ XVIII. Trong số những nhóm đó, có người Việt theo Cơ Đốc giáo, nhiều nhóm sắc tộc và di cư, nổi tiếng nhất là nhóm di cư từ Trung Hoa, nhưng cũng có những nhóm sống ở cao nguyên, và đôi khi ở xuyên qua biên giới, đến Xiêm, Chân Lạp, và vương quốc Lào; nhiều băng cướp sử dụng các chiêu bài khác nhau, thoắt ẩn, thoắt hiện tùy theo sự biến đổi của hoàn cảnh; và cuối cùng là bọn hải tặc, được phân biệt với các băng cướp không đơn thuần chỉ vì chúng hoạt động ở biển và sông ngòi, mà trong trường hợp này, còn do chúng xuất phát từ Trung Quốc. Mặc dù đôi lúc số hải tặc này không nhiều, nhưng chúng tạo được hiệu ứng quan trọng trong diễn biến của cuộc nổi dậy, căn cứ vào những thành công và thất bại của chúng.

Có nhiều cách để phân loại cái mà tôi gọi là “bên lề xã hội”, và tôi chọn những nhóm được nêu rõ trong các tài liệu và đáng chú ý do vai trò của họ trong thời kỳ Tây Sơn. Tất nhiên có những nhóm khác mà dấu vết của họ đã bị thời gian xóa nhòa. Trong một vài trường hợp, có sự chồng chéo đáng kể giữa những thành viên của các nhóm này với thành phần “nông dân” rộng lớn hơn đã được đề cập trong chương trước. Chẳng hạn như nhiều người theo Cơ Đốc giáo lại là những nông dân sống ở vùng đồng bằng và nhiều nông dân trở thành kẻ cướp do nhu cầu sống hoặc chọn lấy đó làm nghiệp dĩ. Vấn đề bên lề khá phức tạp, bởi vì từ ngữ này chỉ có nghĩa khi được quan sát trong một phạm vi đặc biệt nào đó. Tính bên lề của một vài nhóm - những nhóm sắc tộc ở cao nguyên, các băng cướp, hải tặc và những người Cơ Đốc giáo - hiển nhiên là sống xuyên suốt lãnh thổ Đại Việt. Những nhóm khác, như người Hoa, người Chăm và người Khmer chẳng hạn, hiện diện rất nhiều ở phần phía nam của Đàng Trong, ở đó, ít nhất về mặt cộng đồng, họ chiếm đa số. Vì thế, xác định những nhóm này cái tên “bên lề” là điều còn phải bàn lại, trong một phạm vi hạn hẹp hơn của khư vực trung và nam Đàng Trong, trong lúc sẽ có lợi hơn đôi chút nếu nhìn vấn đề trong khuôn khổ rộng lớn của toàn bộ lãnh thổ Đại Việt. Cố nhiên, việc đặt những nhóm ở phía nam qua một bên lề phần nào là sản phẩm của những nhân tố chính trị, dân số, và cuối cùng là thuật chép sử phát triển vào cuối thế kỷ XIX, khi sự Việt hóa về mặt sắc tộc ngày càng tăng lên.

Tuy nhiên, với những ý nghĩ có sẵn như thế trong đầu, chúng ta có đầy đủ lý do để khảo sát những nhóm này với tính cách riêng của họ. Trước tiên, đó là những nhóm được các nhà hoạt động chính trị vào thế kỷ XVIII, các quan sát viên, và các nhà chép sử biên niên xác định như là những nhân tố tách biệt rõ ràng trong xã hội Đại Việt. Thứ đến, mỗi một thành phần trong những nhóm này bị tác động sâu sắc bởi những biến động của thời kỳ Tây Sơn và lần lượt để lại dấu ấn của họ trong cuộc nổi dậy và trong các chính thể về sau, cùng kẻ thù của các chính thể này. Cuối cùng, mỗi một nhóm trên có thể được phân loại như “ở bên lề” bằng một cách nào đó, cho dù tinh chất bên lề này thay đổi tùy từng lãnh thổ và đôi khi nặng về tính ý thức hệ và văn hóa hơn là về số liệu và tính chất địa lý. Chẳng hạn người Cơ Đốc giáo đôi khi có thể ở vào các trung tâm quyền lực và tính bên lề của họ xuất phát từ qui chế thiểu số dành cho họ, cũng như sự tách biệt giáo lý của họ trong những bài giảng về sự hành lễ, sự tôn kính và cách hành xử trong xã hội.

Các băng cướp và hải tặc bị gạt ra ngoài lề về mặt luật pháp và cả về mặt địa lý. Những nhóm người Hoa bị gạt ra ngoài lề ở một mức độ nào đó về mặt chính trị, và đôi khi về mặt văn hóa, mặc dù có những khu vực (như vùng quanh Sài Gòn, Hội An và Hà Tiên), họ hiện diện đông đảo và có một ảnh hưởng chính trị đáng kể.

Sự tương tác gia tăng giữa những người ở bên lề xã hội Việt Nam và những người ở trung tâm xã hội không phải là điều đáng ngạc nhiên trong thời gian xảy ra cuộc xung đột, vì trong những thời điểm như thế, giới ưu tú về chính trị quay sang những nhóm sống bên lề để tìm sự ủng hộ của họ. Lịch sử Việt Nam đầy rẫy những cuộc xung đột và liên minh với nhau giữa người ở đồng bằng và đối tác của họ ở vùng cao. Xung đột thường phát sinh từ sự tranh giành tài nguyên và đất đai, khi các thế lực chính trị ở đồng bằng nỗ lực cướp lấy tài nguyên của các vùng cao. Liên minh thường là sản phẩm phụ của một thực tại, trong đó nhiều phong trào quần chúng và phần lớn nỗ lực kháng chiến chống phương Bắc vào các thời kỳ tiền cận đại và sơ kỳ cận đại bắt đầu bằng việc rút quân về các vùng ngoại vi (thường là vùng cao), nơi những người trung thành có thể khôi phục sức mạnh, thu thập tài nguyên, kết nạp người ủng hộ trước khi tung ra những cuộc tấn công chống lại các trung tâm chính trị ở đồng bằng.

Mô hình có sự xen kẽ giữa xung đột và hợp tác xuất hiện từ những thế kỷ đầu tiên của thời kỳ Bắc thuộc, một thời kỳ mà sự khác biệt về mặt chủng tộc giữa những cộng đồng dân tộc sống ở đồng bằng và cao nguyên vẫn còn chưa được giải quyết. Mô hình này tiếp tục vào hậu thời kỳ tự chủ bắt đầu từ nửa sau thế kỷ X, thỉnh thoảng có sự nối kết giữa người Việt ở đồng bằng với các tộc người ở cao nguyên. Từ những cuộc chống Nguyên Mông vào nửa sau thế kỷ XIII đến cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Lê Lợi vào thế kỷ XV, các nhà lãnh đạo quân sự Đại Việt thường được sự ủng hộ về thực chất của các nhóm sắc tộc miền núi và thủ lĩnh của họ sống trong những khu vực mà các lãnh tụ quân sự Việt vẫn thường lui về. Về sau, khi nhà Mạc bị đánh đuổi khỏi Thăng Long vào cuối thế kỷ XVI, họ tìm chỗ ẩn lánh trên vùng cao nguyên phía bắc Cao Bằng và thiết lập mối quan hệ với các nhóm sắc tộc ở địa phương. Nhiều cuộc nổi dậy ở Đàng Ngoài vào thế kỷ XVIII cũng có liên quan đến những sắc tộc không phải là người Việt thuần túy*. Việc nhà Tây Sơn liên minh với những nhóm người vùng cao là sự thể hiện tiếp nối một truyền thống lâu đời, cho dù việc thiết lập những liên minh như thế đôi khi hoàn toàn mới mẻ trong bối cảnh đặc biệt của Đàng Trong, nơi mà cuộc chung sống không dễ dàng giữa người vùng cao với người đồng bằng đã được đưa vào qui chuẩn dưới chính quyền nhà Nguyễn từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII.*

Khi đặt vấn đề những nhóm người sống bên lề xã hội, mục đích của tôi nhằm đưa tất cả các nhóm này vào trong những câu chuyện kể về thời kỳ Tây Sơn, vì những tài liệu hiện có hoặc không đề cập đến, hoặc giải thích sai lạc bản chất sự tham gia của họ. Một vài nhóm, như hải tặc hay các băng cướp chẳng hạn, hầu như hoàn toàn không được nói đến trong những câu chuyện kể về thời kỳ này. Việc không đề cập đến những nhóm này không có gì đáng ngạc nhiên khi tác phẩm của những người theo chủ nghĩa quốc gia đương đại vốn miêu tả quân Tây Sơn là sự liên kết của những thành phần đạo đức trong xã hội, cho dù bị áp bức, đã đứng lên đấu tranh vì lợi ích quốc gia. Sự miêu tả này đã vô tình hay cố ý phản ứng lại sử nhà Nguyễn đã mệnh danh nhà Tây Sơn một cách rõ ràng là “giặc”. Mặc dù hầu như ba anh em Tây Sơn không phải là “giặc cướp”, nhiều người tham gia vào phong trào hay ít nhất hoạt động song hành với nó đã bị gọi mơ hồ như thế. Họ cướp bóc trong chính cái xã hội mà các nhà lãnh đạo Tây Sơn cần được sự hỗ trợ của họ. Không đề cập tới sự hiện diện và đóng góp của những thành phần này trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn sẽ làm sai lạc rất nhiều những động lực phức tạp của thời kỳ này.

Mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn với những nhóm khác như người Cơ Đốc giáo và người không thuộc dân tộc Kinh, nếu không bị quên lãng thì cũng bị đơn giản hóa rất nhiều trong các tác phẩm lịch sử hiện đại. Sự đơn giản hóa này xuất phát từ việc sử dụng cớ chọn lọc những nguồn tư liệu củng cố cho lối chép sử coi các lãnh tụ Tây Sơn như những mẫu mực của một chính sách xã hội tiến bộ*. Tác phẩm của các nhà nghiên cứu Việt Nam đã miêu tả thời kỳ Tây Sơn như dấu mốc cao nhất trong việc hành xử đối với người bản địa theo Cơ Đốc giáo, ủng hộ luận điệu này, các nhà sử học đó thường chọn ra một ít thư từ của các giáo sĩ châu Âu ca ngợi chế độ của nhà Tây Sơn thông qua sự khoan dung về mặt tôn giáo của họ và so sánh cách hành xử này của họ với những người đi trước họ*. Trong lúc có những thời điểm nhà Tây Sơn tỏ ra có thiện cảm với những người Cơ Đốc giáo sống dưới sự kiểm soát của họ, cũng có nhiều trường hợp họ đàn áp thẳng tay một thiểu số người theo tôn giáo này. Tương tự như thế, sự giải thích hiện nay về động lực chi phối mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo Tây Sơn với những nhóm không phải người Kinh cũng được đơn giản hóa rất nhiều. Phong trào Tây Sơn tính đến việc lôi cuốn thành viên của các nhóm không phải là người Kinh, bao gồm các nhóm trên cao nguyên, người Hoa và người Chăm. Tuy nhiên, những nhóm người trên không ủng hộ nhà Tây Sơn một cách đồng nhất. Thỉnh thoảng một vài nhóm hỗ trợ nhà Tây Sơn. Tuy nhiên, các thành viên của họ ủng hộ những người đối địch với nhà Tây Sơn nhiều hơn.

IV.1. ĐẠO CƠ ĐỐC VÀ CÁC TÍN ĐỒ CƠ ĐỐC GIÁO TRONG THỜI ĐẠI TÂY SƠN

Người Việt theo Cơ Đốc giáo hợp thành một nhân tố phức tạp trong xã hội Đại Việt thế kỷ XVIII, và là nhóm người mà vai trò rất hay thay đổi. Khi tôi nói về người Việt theo Cơ Đốc giáo, tôi đang miêu tả một nhóm người được hư cấu theo một cách nào đó, vì họ bao gồm nhiều người mà tư cách tín đồ Cơ Đốc giáo chỉ có trên danh nghĩa. Đó là những người mà sự gia nhập vào một tín ngưỡng mới được du nhập không phải là chuyện đặc biệt, cho đù sự mong muốn hay ước định của các giáo sĩ châu Âu có là gì đi nữa, người Việt có khuynh hướng thực hiện một chọn lựa cởi mở và thường nhìn tôn giáo một cách rất cụ thể. Tuy nhiên, thành phần “Cơ Đốc giáo” cũng có một lợi ích nào đó, vì nó được vận dụng bởi các nhân tố trong xã hội Đại Việt, ở cả mức độ của nhà nước lẫn của người dân*. Cũng có một điều rõ ràng là từ những nguồn cội đó, một số người Việt tự gắn bó chân thành với đức tin và đáp ứng sự cổ vũ của các giáo sĩ châu Âu. Những người này tự nguyện chịu sự nguy hiểm hoặc trả một cái giá nhất định (thường bằng tiền) để được phép tiếp tục hành đạo. Hơn nữa, các thành viên trong ban lãnh đạo nhà Tây Sơn có chủ tâm đàn áp người theo Cơ Đốc giáo (tuy có sự nhận diện) từ thời này qua thời khác, không như một thành phần xã hội có thật, có rất ít tính thần học, mà như một nhóm người được liên kết với những giáo sĩ ngoại quốc vốn được coi như những mối đe dọa tiềm tàng hay có thật đối với chế độ. Cuối cùng, trên bình diện địa phương, những cuộc xung đột trong phạm vi làng mạc và giữa các cá nhân với nhau đôi khi được khoác cho danh nghĩa “Cơ Đốc giáo”, khi việc làm như thế có thể phục vụ những lợi ích đặc biệt.

IV.1.1. Cơ Đốc giáo tại Đại Việt trước thời đại Tây Sơn

Giáo sĩ châu Âu đầu tiên đến Đại Việt vào năm 1533*, nhưng phải chờ đến năm 1596, giáo đoàn chính thức đầu tiên mới được thành lập tại đây. Hơn nữa, chỉ sau năm 1615, với sự trục xuất các giáo sĩ dòng Tên (dòng Jesuit) ra khỏi đất Nhật và lệnh này gây được sự chú ý trên những phần đất khác ở Đông Á, Cơ Đốc giáo mới bắt đầu có một chỗ đứng thực sự trên lãnh thổ Đại Việt. Việc đến Đàng Ngoài của giáo sĩ dòng Tên nổi tiếng người Pháp vào năm 1627 đánh dấu một bước ngoặt trong sự bành trướng của Cơ Đốc giáo trên lãnh thổ Đại Việt. De Rhodes dành thời gian cho cả Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong 18 năm trước khi bị trục xuất vào năm 1645*. Sự trục xuất ông không làm chậm đi sự phát triển của Cơ Đốc giáo, và nhiều giáo sĩ khác sớm tiếp bước de Rhodes trong việc thành lập các giáo đoàn, trường học, và nhà thờ, đặc biệt ở Đàng Ngoài, song cũng có một số cơ sở nhỏ hơn ở phần đất phía nam.

Sự du nhập của Cơ Đốc giáo vào Đại Việt là một việc làm tương đối dễ, ít nhất về mặt thần học, do cơ cấu tôn giáo của Đại Việt lúc đó - bao gồm sự pha trộn không rõ ràng của Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo và tín ngưỡng dân gian - hoàn toàn cởi mở và không thù nghịch đối với việc du nhập một hệ thống tín ngưỡng hay các hình thức mới. Tôn giáo mới xâm nhập vào nhiều giai tầng khác nhau của xã hội, cho dù có thể nó thành công nhất trong số người sống bên lề xã hội Đàng Ngoài về mặt kinh tế. Mặc dù là tôn giáo mới chứa đựng một không khí văn hóa dễ chịu, Cơ Đốc giáo cũng phải đương đầu với nhiều trở lực, cả về mặt thần học lẫn chính trị. Như các giáo sĩ châu Âu đã thuyết giáo, Cơ Đốc giáo có sự bất đồng với các cách hành đạo hiện hành, đặc biệt những cách hành đạo không chấp nhận khả năng có một thần linh duy nhất và sự tôn sùng đó có thể phát sinh từ những thực thể khác hơn một đấng thần linh cao cả. Sự căng thẳng này biểu hiện trong những từ ngữ cụ thể vào thế kỷ XVIII, khi một số giáo sĩ, và sau này là các tu sĩ người bản xứ, cấm đoán người Việt mộ đạo Cơ Đốc giáo tham gia vào những cuộc hành lễ được coi là đa thần hay sùng bái thần tượng- Vì thế khi các làng mạc tổ chức lễ hội và kêu gọi sự đóng góp hay tham gia của người dân, những người Cơ Đốc giáo mộ đạo thường từ chối. Ngay trong cộng đồng các nhà truyền giáo vào cuối thế kỷ XVIII, đã có những cuộc tranh luận sôi nổi (mặc dù vấn đề đã được bàn luận trước đó) về việc nên xem nhiều cách hành lễ theo truyền thống của người Việt là thuộc về đời hay đạo*. Biểu hiện đáng chú ý nhất trong cuộc tranh luận này tập trung vào vấn đề thái độ của người Cơ Đốc giáo Đại Việt đối với tổ tiên của họ. Do nhiều giáo sĩ coi đồ cúng và sự quỳ lạy trước bàn thờ tổ tiên là sự thờ cúng sai trái, họ can ngăn hoặc công khai cấm đoán người Việt theo Cơ Đốc giáo thực hiện những nghi thức này. Vì thế, người Việt theo Cơ Đốc giáo và các giáo sĩ châu Âu phục vụ họ đã tham gia vào một cuộc tranh cãi về nghi thức từng gây ra những vấn đề to lớn cho giáo đoàn Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc vào thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII.

Trong khi quan hệ mật thiết về mặt xã hội và triết lý của Cơ Đốc giáo tạo nên một nhân tố thách thức các vua chúa Đại Việt, những người chịu trách nhiệm du nhập tôn giáo này vào Đại Việt tạo ra một mối quan hệ khác. Đôi khi sự nghi ngờ đối với các giáo sĩ châu Âu thể hiện bằng những nỗ lực dứt khoát cầm tù và trục xuất họ, trong khi vào những giai đoạn khác, triều đình Đại Việt vẫn dành cho họ sự khoan thứ. Trong cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh vào giữa thế kỷ XVII, các giáo sĩ có thể tự xem mình như những người dẫn dắt đến công nghệ vũ khí tiên tiến bằng cách phóng đại vai trò của họ, tác động lên việc mua bán vũ khí, và đe dọa rằng việc trục xuất họ sẽ kết thúc dòng vũ khí đổ vào Đại Việt. Đã bận tâm về tác động xã hội và tâm linh của một tôn giáo ngoại lai, vào lúc này, các vua chúa còn bận tâm hơn nữa với việc duy trì lợi thế về công nghệ mà họ tin rằng các ông giáo sĩ này có thể mang lại cho họ. Vì thế, các giáo sĩ, đặc biệt là giáo sĩ Pháp, có thể sử dụng các mối quan hệ thương mại như một lợi thế để lưu lại Đại Việt ngay cả khi họ đang ở vào một tình thế tế nhị.

Khi cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh rơi vào tình trạng bế tắc vào đầu thập niên 1670, tình cảnh của các giáo sĩ châu Âu trở nên nguy hiểm hơn, đặc biệt ở Đàng Ngoài. Mặc dù Cơ Đốc giáo đã bị cấm đoán trên cả hai lãnh thổ của họ Trịnh và họ Nguyễn và các chúa ở cả hai miền cấm các giáo sĩ châu Âu vào trong lãnh thổ của họ, song chính vua Lê-chúa Trịnh ở Đàng Ngoài mới theo đuổi cách cư xử hùng hổ hơn. Ban đầu, chúa Trịnh cấm Cơ Đốc giáo bằng chỉ dụ năm 1664, rồi lặp lại lệnh cấm vào năm 1669. Một thời gian sau, sự dính líu rõ ràng của người Pháp trong một âm mưu chống lại vua Xiêm vào năm 1685 - cuối cùng tin tức đến tai các vua chúa ở Đại Việt - khiến họ tiếp tục nghi ngờ giới giáo sĩ và gia tăng nỗ lực đàn áp "đạo của người Bồ Đào Nha”*. Những nỗ lực này tiếp tục trong thế kỷ XVIII, khi các chúa Trịnh ban hành đều đặn các chỉ dụ cấm đạo*.

Dù cho những cấm đoán này được lặp đi lặp lại, chúng cũng là chứng cớ cho thấy sự vô hiệu của những nỗ lực của chúa Trịnh nhằm ngăn chặn sự lan truyền của Cơ Đốc giáo, có vẻ như trên thực tế đã có sự mở rộng tự do tôn giáo ở Đàng Ngoài từ giữa thập niên 1720 đến đầu thập niên 1770. Với cái chết của chúa Trịnh Doanh* vào năm 1767, tình hình bất ổn trở lại, nhưng người kế nghiệp ông là Trịnh Sâm lúc đầu vẫn tiếp tục chính sách khoan thứ với Cơ Đốc giáo. Năm 1771, chúa Trịnh thả hai giáo sĩ châu Âu đã bị giam cầm nhiều năm trước đó. Đó là cao điểm của sự khoan thứ trong thời gian ở ngôi chúa của Trịnh Sâm, vì hai năm sau, một cuộc đàn áp khác diễn ra đưa đến sự bắt giữ và hành hình một giáo sĩ Tây Ban Nha dòng Dominican và một tu sĩ Việt.

Phản ứng của cộng đồng Cơ Đốc giáo trước sự hành hình, trong đó có sự tôn vinh hai nạn nhân, khiến cho Trịnh Sâm lại ban một chỉ dụ buộc Cơ Đốc giáo phải bị trừ tiệt trong vòng hai tháng.

Ngay cả loạt biến động đó cũng không khiến cho sự hành đạo Cơ Đốc giáo phải diễn ra trong vòng bí mật, và trong một số trường hợp, việc thực hiện tín ngưỡng đã từ bên lề được chuyền vào trung tâm xã hội. Một số thành viên của dòng họ đang thống trị Đàng Ngoài cũng trở thành tín đồ Cơ Đốc giáo, trong đó có một người chị (hay em gái) của chúa Trịnh Sâm và một trong những anh (em) rể của ông. Người cầm đầu quân Trịnh xâm chiếm Đàng Trong vào năm 1774 là hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc cũng nổi tiếng là một người Cơ Đốc giáo và cư xử dễ chịu với tín ngưỡng này. Thật vậy, năm 1775, một giáo sĩ viết rằng một số nhân vật quan trọng của chúa Trịnh có liên quan đến cuộc đánh chiếm Đàng Trong là người Cơ Đốc giáo, một trường hợp mà chúa hi vọng sẽ là điềm lành đối với các tín đồ Cơ Đốc giáo trong vùng. Mặc dù có những dấu hiệu đầy hứa hẹn này, song ngay năm sau, một thư giáo sĩ viết từ châu thổ sông Hồng cho rằng tình hình tôn giáo ở đó đã trở nên rất tồi tệ và sẽ là một trở lực lớn cho Cơ Đốc giáo ở Đại Việt nếu như quân Trịnh chiến thắng quân nhà Nguyễn. Chủ nghĩa hoài nghi này được xác minh mấy năm sau đó, vào năm 1779, khi chúa Trịnh ban hành một chỉ dụ khác kêu gọi bắt giữ và hành hình ngay tất cả những giáo sĩ châu Âu.

Trong lúc đó, Cơ Đốc giáo tại Đàng Trong được phép tồn tại với sự can thiệp tương đối nhẹ nhàng của chính quyền từ cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII, cho dù đôi lúc cũng có sự cấm đoán. Các giáo sĩ châu Âu, phần lớn thuộc dòng lesuit hiện diện tại phủ chúa Nguyễn trong một phần thế kỷ XVII và XVIII. Các chúa Nguyễn muốn giám sát sự hành đạo của các tu sĩ dòng Jesuit vì họ muốn sử dụng tài năng về khoa học của những người này. Những người này phục vụ tại Phú Xuân với tư cách y sĩ, nhà toán học, thông ngôn, và nhà thiên văn học, cùng khả năng với những người đồng đạo của họ từng đảm trách trước đấy ở triều đình Trung Quốc*. Tu sĩ dòng lesuit người Bồ Đào Nha Joao Loureiro chẳng hạn, đã từng cư trú trong phủ chúa từ thập niên 1740 đến lức ông ra đi vào năm 1777 (với khoảng thời gian trống hai năm từ 1750 đến 1752), và hai tu sĩ dòng Jesuit khác là Johann Koffler và Xavier de Monteiro, cũng ở tại phủ chúa một thời gian vào thập niên 1750.

Năm 1750, sự đàn áp Cơ Đốc giáo được tái tục, người thực hiện là chúa Nguyễn Phúc Khoát đầy quyền uy, tiếp nối những nỗ lực của ông nhằm ngăn chặn những lời tiên tri báo trước sự kết thúc của nhà Nguyễn. Trong khoảng thời gian này, sự khủng bố lại tiếp tục, chúa Nguyễn cho phép Koffler và Monteiro ở lại phủ chúa (mặc dù đến năm 1755 thì Koffler ra đi), và Loureiro quay lại sau đúng hai năm vắng mặt. Cố nhiên là chúa duy trì sự mâu thuẫn liên quan đến Cơ Đốc giáo khi ông tìm cách tách các giáo sĩ là nhà khoa học châu Âu ra khỏi sứ mạng của họ. Cái chết của vị chúa cai trị lâu dài vào năm 1765* khiến cho thái độ ứng xử chính thức đối với Cơ Đốc giáo được dịu đi, nhẹ nhàng nhất vào năm 1774, khi một chỉ dụ cho phép tự do hành đạo và giảm nhẹ tội cho những ai đã bị trừng phạt trước đây vì đức tin của họ. Tuy nhiên, khi ở vào đỉnh điểm cuộc tấn công quan trọng đầu tiên của nhà Tây Sơn chống lại chúa Nguyễn, không rõ là các quan lại có thời gian hành động theo những lời lẽ của chỉ dụ đã ban hành trước khi chúa Nguyễn bị đánh bật khỏi Phú Xuân không.

Cho dù thường có những chỉ dụ chống Cơ Đốc giáo và những cuộc đàn áp định kỳ, số người Việt được rửa tội vào các thế kỷ XVII và XVIII tiếp tục gia tăng. Ước tính vào thập niên 1660, số tín đồ Cơ Đốc giáo ở phía bắc là 350.000 người*, và có lẽ con số đầy tính lạc quan này cho thấy tính năng động trong công việc của giáo đoàn châu Âu. Một tài liệu dè dặt hơn công bố năm 1754 cho biết chỉ có từ 30.000 đến 40.000 tín đồ Cơ Đốc giáo trong cùng một khu vực trên, có lẽ phản ánh một thế kỷ có sự can thiệp tích cực của chính quyền chống lại Cơ Đốc giáo, và cũng có thể đó là cách hiểu hạn hẹp hơn của một tín đồ*. Ba mươi năm sau, một tài liệu năm 1784 lại đưa số tín đồ Cơ Đốc giáo lên giữa hai con số 350.000 và 400.000. Ở Đàng Trong dân số ít hơn, con số ước đoán lượng tín đồ Cơ Đốc giáo trong cùng thời điểm thấp hơn rất nhiều, chỉ khoảng giữa hai con số 10.000 và 15.000 người. Ở cả hai nơi, đặc biệt ở Đàng Ngoài, người Cơ Đốc giáo hình thành một thiểu số rõ rệt trong một dân số chung vào thời điểm đó nằm giữa khoảng từ 5,5 triệu đến 10 triệu người*.

IV.1.2. Người Việt theo Cơ Đốc giáo và nhà Tây Sơn: từ năm 1771 đến năm 1786

Đầu thập niên 1770, khi anh em nhà Tây Sơn bắt đầu từ làng mạc tăm tối vươn đến danh vị hoàng gia, tình trạng của Cơ Đốc giáo ở cả hai lãnh thổ của chúa Trịnh và chúa Nguyễn vẫn còn mơ hồ, khi sự chính thức phản đối của nhà nước xung đột với tiếng gọi của tôn giáo cả trong các nhóm dân làng đông đúc lẫn thiểu số những gương mặt ưu tú ở cung đình. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi Cơ Đốc giáo tiếp tục có một ảnh hưởng đáng kể trong xã hội Đại Việt, một thứ ảnh hưởng dâng cao lên trong thời kỳ Tây Sơn khi sự căng thẳng giữa bộ máy nhà nước và nhóm người này tăng cao.

Mặc dù tín đồ Cơ Đốc giáo là một nhóm người nằm bên lề xã hội, họ sớm bị lôi cuốn vào những biến động trong thời kỳ Tây Sơn và có một số chỉ dấu cho thấy rằng họ hiện diện ngay trung tâm cuộc nổi dậy. Có nhiều giai thoại kể rằng anh em Tây Sơn xuất thân từ một gia đình có quan hệ với Cơ Đốc giáo và thậm chí họ cũng có thể là tín đồ của tôn giáo này. Một tu sĩ châu Âu viết rằng cha của họ là một người Cơ Đốc giáo bỏ đạo và khi còn bé thơ, Nguyễn Nhạc đã được làm lễ rửa tội. Một người khác cho biết Nhạc có tên thánh là Paul và người lãnh đạo Tây Sơn tự xưng là “Paul Nhạc”. Truyện kể về anh em Tây Sơn cho rằng nền tảng Cơ Đốc giáo của họ cứ mở rộng dần và khi các lãnh tụ Tây Sơn đến Thăng Long năm 1786, một giáo sĩ đã viết “thỉnh thoảng có tin tức loan truyền rằng hai Đức ông là người Cơ Đốc giáo, và rằng có một số người Cơ Đốc giáo trong các quan lại cũng như binh lính của họ”. Một năm sau, một bức thư khác viết rằng người anh cả của nhà Tây Sơn được nhiều người nhắc đến là “cái ông Nhạc bỏ đạo đó”. Cuối cùng, một tu sĩ Việt thuộc dòng Jesuit là Philiphê Bỉnh đã viết là chẳng những anh em Tây Sơn xuất thân từ một gia đình Cơ Đốc giáo, mà chính sự sùng đạo của cha mẹ họ đã đưa họ đến sự nổi dậy:

“Hai anh em Thái Đức và Quang Trung [sử dụng niên hiệu của họ sau này] được nuôi nấng cùng nhau, và cha của họ là một người Cơ Đốc giáo. Tuy nhiên, ông không thể giáo dục các con ông về đức tin bởi vì vào mỗi đầu hôm, khi người cha và người mẹ đọc thánh kinh, hát thánh ca và kêu họ thì họ chạy trốn và không thể nào đọc thánh kinh và hát cùng cha mẹ họ. Khi cha mẹ họ trừng phạt họ thì họ lập tức chạy vào rừng và trở thành kẻ cướp”.

Không thể xác định cái nào trong những tác phẩm trên, chúng có thể kể lại những tin đồn đương thời hoặc phản ánh suy nghĩ đầy mong ước của các thành viên trong cộng đồng giáo sĩ lúc bấy giờ. Song cũng có chứng cứ cho thấy trong gia đình của anh em nhà Tây Sơn có vài người theo Cơ Đốc giáo. Một giáo sĩ đi đến gần Qui Nhơn vào năm 1778 đã gặp một phụ nữ mà ông miêu tả như là dì của lãnh tụ cuộc nổi dậy và kể rằng bà này là một người Cơ Đốc giáo sùng đạo. Bà rất hiếu khách khi tiếp các giáo sĩ đến thăm bà và từng đóng góp tiền cho giáo đoàn. Chúng tôi cũng biết rằng vào thập niên 1650, trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, tổ tiên của anh em nhà Tây Sơn đã từ vùng phía bắc của Nghệ An chuyển đến Qui Nhơn và có thể hiểu được rằng gia đình họ đã gặp các giáo sĩ dòng Jesuit đang hoạt động ở Đàng Ngoài vào các thập niên 1630 và 1640.

Nếu như anh em Tây Sơn có một quan hệ cá nhân nào với Cơ Đốc giáo, điều đó không có một tác động rõ rệt nào lên thái độ của họ đối với tôn giáo hay những người hành đạo. Hành động của các lãnh tụ Tây Sơn đối với đức tin thay đổi rất nhiều, và không thể nêu lên mối tương quan giữa một nền tảng Cơ Đốc giáo về phía họ với một cách cư xử đặc biệt nào đối với tôn giáo. Tính cách không đoán trước được trong thái độ của nhà Tây Sơn đã biểu hiện ngay vào những ngày đầu tiên của cuộc nổi dậy. Ở một số nơi, nhà thờ bị quân Tây Sơn cùng những đạo quân liên minh với họ cướp phá. Tài liệu của một giáo sĩ Tây Ban Nha viết vào năm 1774 cho rằng một nhóm 17 kẻ nổi loạn xuất hiện tại ngôi nhà thờ nông thôn nhỏ bé của ông vào giữa tháng ba và lấy đi tất cả những thứ gì có giá trị mà họ tìm thấy, gồm cả nến và vải phủ bàn thờ. Năm sau, giáo sĩ Pháp Pierre-Jacques Halbout, sống chỉ cách Đà Nẵng 6 dặm đường, viết rằng có 60 ngôi nhà của những người Cơ Đốc giáo trong cái huyện nhỏ bé của ông đã bị các kẻ nổi loạn đốt cháy*.

Ngay khi một số người trong đạo quân của họ cướp phá đồ nhà thờ và dùng đuốc đốt cháy nhà người Cơ Đốc giáo, những phần tử khác của quân Tây Sơn lại thể hiện thiện chí đối với tín ngưỡng và các giáo sĩ châu Âu. Một tác phẩm vào thế kỷ XIX bình luận về cách xử sự tích cực của nhà Tây Sơn đối với người Cơ Đốc giáo trong thời kỳ đầu như sau:

“Với vấn đề đức tin, tình hình yên ắng do quân Tây Sơn không quan tâm đến vấn đề tôn giáo. Người dì của vua Thái Đức là một người Cơ Đốc giáo và đã giúp cho tín ngưỡng được phát triển bằng nhiều cách khác nhau. Có lẽ ông nhớ là mẹ ông cũng là một tín đồ Cơ Đốc giáo. Vì những lý do đó, tất cả các giáo sĩ, bất luận ở phương Tây hay phương Đông, đều có thể đi khắp nơi và làm mọi việc mà không gặp một sự can thiệp nào”.

Hơn nữa, giáo sĩ Tây Ban Nha, người từng kể rằng tất cả những gì ông có đều bị quân nổi loạn cướp phá, đã viết thêm là không lâu sau sự kiện này, một vài quan lại Tây Sơn đến thăm ông và hứa cho 30 quân bảo vệ ông, cũng như cho ông được tự do công khai giảng đạo và xây dựng nhà thờ. Họ cũng tặng ông “rất nhiều bạc” song ông từ khước. Đổi lại với những lời hứa hẹn và tặng vật này, các quan chức Tây Sơn xin thuốc men và thậm chí cố nài họ làm công việc của một bác sĩ, một đề nghị mà các giáo sĩ thường từ chối. Những nỗ lực nài ép các giáo sĩ cho thấy các lãnh tụ Tây Sơn quan tâm đến kỹ năng của người châu Âu, và điều này giúp giải thích việc họ đôi khi cư xử tốt với giới giáo sĩ.

Việc cư xử không đoán trước được của quân đội Tây Sơn đối với nhà người Cơ Đốc giáo trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy là dựa vào các điều kiện của địa phương và không xuất phát từ mệnh lệnh của trung ương. Tuy nhiên, khi các lãnh tụ Tây Sơn củng cố và thể chế hóa việc họ nắm lấy quyền hành, họ bắt đầu công bố các chỉ dụ chính thức về tôn giáo. Chỉ dụ đầu tiên mà chúng ta biết là do Nguyễn Nhạc ban hành năm 1779 công nhận quyền tự do tôn giáo cho những người sống trên lãnh thổ của ông. Đó là một chỉ dụ đặc biệt nhắm vào người Cơ Đốc giáo. Động lực dẫn đến chỉ dụ này không rõ ràng, cho dù nó có vẻ như là một toan tính của các lãnh tụ Tây Sơn nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của các giáo sĩ châu Âu. Cũng có những chỉ dấu cho thấy rằng Nhạc cấp cho một số giáo sĩ những giấy viết tay cho phép họ tự do đi lại và hoạt động tôn giáo, ít nhất trong khu vực gần nhất quanh trung tâm chính trị của nhà Tây Sơn. Có lẽ do những động thái như thế mà Nguyễn Nhạc tuyển được hai giáo sĩ dòng Dominican người Tây Ban Nha phục vụ lâu dài tại cung đình của ông ta ở Qui Nhơn vào những năm đầu thập niên 1780.

Mặc dù có chỉ dụ đầy tính rộng lượng trên và sử dụng các giáo sĩ tại cung đình của mình, các thành viên trong ban lãnh đạo nhà Tây Sơn, đặc biệt là Nguyễn Nhạc, tiếp tục gây ra nỗi hoài nghi liên quan đến cộng đồng Cơ Đốc giáo và những người châu Âu bảo trợ cho họ. Những nỗi hoài nghi này gia tăng suốt những năm đầu thập niên 1780, trong lúc có chứng cứ là phía chúa Nguyễn nhận được sự ủng hộ của một số giáo sĩ châu Âu, nổi bật nhất là Giám mục Bá Đa Lộc. Vị Giám mục người Pháp là người tâm phúc và từ năm 1777, ông là người tranh đấu không mỏi mệt cho một Nguyễn Ánh còn trẻ tuổi, vai trò ngày càng rõ nét của ông đã gây ra mối hoài nghi của các lãnh tụ Tây Sơn về tất cả những người châu Âu đang sống ở Đại Việt. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các lãnh tụ Tây Sơn cho rằng người châu Âu, đặc biệt là các giáo sĩ, có những mối liên kết chặt chẽ với vị giám mục.

Tiềm ẩn trong sự căng thẳng này là khuynh hướng của các giáo sĩ coi nhà Tây Sơn như những người cai trị bất hợp pháp, một quan điểm xuất hiện trong những ngày đầu tiên của cuộc nổi dậy. Một giáo sĩ Tây Ban Nha viết rằng ông ta và ông giáo sĩ bạn tỏ ra do dự trong việc ủng hộ nhà Tây Sơn, bởi vì họ giải thích phong trào này nhắm vào việc chống lại một vị vua hợp pháp:

“Tất cả giáo sĩ tỏ ra hàm ơn về thiện ý của các quan lại Tây Sơn, nhưng khi phong trào nhắm đến việc chống lại chúa Nguyễn... chúng tôi biểu lộ công khai một sự lãnh đạm hoàn toàn, tuyên bố rằng chúng tôi không dính dáng gì đến những vấn đề này, và khuyên nhủ các tín đồ Cơ Đốc giáo hãy tuân phục vì vua của họ. Bằng một ý thức trong sáng, chúng tôi nói với họ rằng họ không nên liên kết với cuộc nổi dậy, mặc dù cuộc nổi dậy này được thúc đẩy bởi một số mục tiêu chính trị. Vì thế, chúng tôi nghĩ đến việc truyền dẫn cho người Cơ Đốc giáo sự tuân phục đối với vị chúa của họ và tránh việc có thành kiến đối với giáo đoàn”.

Nỗ lực của giáo đoàn nhằm truyền rao cho các nhà cai trị dân sự ý niệm về lòng trung thành được định trong kinh thánh đang là nguồn gốc căng thẳng giữa các lãnh tụ Tây Sơn và người châu Âu*. Trong bất cứ trường hợp nào, những toan tính nhầm tránh “thành kiến đối với giáo đoàn” thường bị tổn thương bởi những hành động của Bá Đa Lộc nhân danh chúa Nguyễn Ánh; những hành động đó về sau gây ra rất nhiều khó khăn cho những người Âu sống dưới quyền hành của nhà Tây Sơn.

Khoảng thời gian mà nhà Tây Sơn có thái độ nương nhẹ đối với Cơ Đốc giáo thông qua chỉ dụ năm 1779 không kéo dài được lâu, thì một loạt những biến động xảy ra dẫn đến sự đàn áp thẳng tay những người Cơ Đốc giáo sống trên các lãnh thổ dưới quyền nhà Tây Sơn. Năm 1780, Nguyên Nhạc bắt giữ Jean-Pierre-Joseph D’Arcet, giáo sĩ Pháp duy nhất đang hoạt động trên lãnh thổ Tây Sơn, cùng với nhiều môn đồ Cơ Đốc giáo của ông ta. Cho dù có thể D'Arcet bị bắt giữ do đã hành đạo ở sát cạnh Qui Nhơn (một khu dân cư được nương nhẹ rất nhiều), lúc đó có tin đồn rằng ông ta bị bắt giữ do nhà Tây Sơn hi vọng giữ ông ta như một phái viên được phái tới châu Âu. Nhìn các lãnh tụ Tây Sơn với một cái nhìn mang nặng tính giáo điều, cách giải thích sau có vẻ hợp lý nhiều, một lần nữa cho thấy rằng hành động của họ đối với người Cơ Đốc giáo được dẫn dắt bởi những mục tiêu chính trị trước mắt hơn là những suy xét mang tính ý thức hệ bao quát hơn.

Nếu các lãnh tụ Tây Sơn biết được những hoạt động của giới giáo sĩ gần Qui Nhơn, họ cũng có thể nghĩ xa hơn về những hoạt động đó. Khi quân đội Tây Sơn hành quân qua Chân Lạp vào năm 1782, họ bắt một số giáo sĩ Tây Ban Nha và đóng gông đưa những người này về Sài Gòn. Trong số những người bị bắt có Ferdinand de Olmedilla. Người ta kể rằng khi Nguyễn Nhạc thấy viên giáo sĩ, ông ta đã la to: “Cha Felon đây mà, ông ta đã hứa chở cho chúng ta một tàu kim loại đồng, vậy mà trở về nước ông ta chở đồng cho ông Chủng [Nguyễn Ánh] để ông ta chạy cỗ máy chiến tranh... Gông cổ ông ta ngay lập tức”*. Điều đó cho thấy rằng nhà Tây Sơn tiếp tục những nỗ lực (có vẻ như không thành công) nhằm sử dụng các giáo sĩ đang tranh đấu bên chúa Nguyễn. Khi Oimedilla tìm cách làm dịu sự giận dữ của Nguyễn Nhạc bằng cách trưng ra giấy phép Nhạc đã cấp cho ông ta đi thu nạp tín đồ ở Qui Nhơn, vua Tây Sơn tuyên bố rằng giấy phép đó không có hiệu lực bên ngoài khu vực sát cạnh Qui Nhơn. Sau khi lôi giáo sĩ Tây Ban Nha vào Sài Gòn, vua Tây Sơn ra lệnh là Olmedilla phải được đưa trở về kinh đô của phe nổi dậy. Khi ông ta được chuyển ra Qui Nhơn bằng đường biển, một cơn bão thổi đến, nhiều tàu đi theo bị lật úp. Vị lãnh đạo nhà Tây Sơn tố cáo Oimedilla đã làm phép thuật gọi giông bão và ngay lập tức ra lệnh hành quyết ông ta*.

Ngay vào lúc Nhạc phát triển địa vị vững vàng của ông ta, thì người em trai là Nguyễn Huệ giữ một thái độ ôn hòa và thực dụng hơn đối với người Cơ Đốc giáo. Sự bất đồng quan điểm giữa hai anh em được minh họa trong một giai thoại liên quan đến một tình tiết có lẽ xảy ra vào năm 1783 hoặc đầu năm 1784. Một giáo sĩ Pháp đã kể lại câu chuyện:

"Vị vương trẻ tên là Đức Em [Nguyễn Huệ] qua nơi đó sau khi đi thăm vị vua là anh của ông; ông ngạc nhiên trước một đám đông như thế... những kẻ giàu nghèo, mạnh yếu thông báo cho ông những gì đang xảy ra, Nhờ một viên quan, ông biết rằng chính lệnh của nhà vua [Nhạc] bắt giữ tất cả những người giảng đạo và những người theo Cơ Đốc giáo. Không bằng lòng điều đó, vị vương trẻ yêu cầu thả tất cả ra và chuyển cha Emmanuel cho ông. Viên quan phụ trách về tư pháp trả lời rằng ông ta không thể làm thế, vì đã nhận lệnh của nhà vua phải bắt giữ họ. Vị vương đưa ra yêu cầu lần thứ hai là cha Emmanưel phải được chuyển cho ông, và ông sẽ tự chịu trách nhiệm trông coi giáo sĩ này, song viên quan vẫn khước từ.

Vị vương trở nên giận dữ, đi xuyên qua đám đông và đến nhà viên quan tư pháp, ra lệnh cho quân lính của ông kêu gọi sự rộng lượng của các quan lại và lấy đi tất cả tài sản của họ, đồng thời tháo gông cho các giáo sĩ. Rồi ông đến ra mắt nhà vua, nói với sự giận dữ: ‘Vương huynh đang làm gì thế? Chúng ta đang có chiến tranh với nhiều phía, chúng ta đang kết hợp mọi người lại để làm điều đó, vậy mà huynh bắt giữ tất cả những người Cơ Đốc giáo. Nếu họ quay lại chống ta, chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta chống lại họ như thế nào?'. Đức vương không biết trả lời ra sao với những câu hỏi đó... và khi chiều đến, ông nói: ‘Ta không biết gì về chuyện đó; hãy làm như đệ muốn'. Nghe thế, Đức Em trả lời một cách dũng cảm: ‘nếu đệ có thể làm hoàn toàn theo ý muốn, đệ sẽ ra lệnh thả hết họ ra’. ‘Hãy làm thế đi', Đức vương trả lời... và vị vương ra lệnh thả hết những người Cơ Đốc giáo”*.

Tài liệu này cho thấy có sự phân hóa trong nội bộ các nhà lãnh đạo Tây Sơn trong việc hành xử đối với người theo Cơ Đốc giáo, cho dù quan điểm của họ vẫn còn mềm dẻo.

Trong lúc rõ ràng là Nguyễn Nhạc đã đàn áp những người Cơ Đốc giáo vào năm 1783 hay 1784, thì vào mùa hè năm 1785, có những báo cáo cho rằng ông nới lỏng những hạn chế gắt gao này và dành cho các giáo sĩ châu Âu sự tự do hoàn toàn trong việc chăm sóc những người mộ đạo của họ trong khu vực quanh phủ lỵ Qui Nhơn. Điều này cũng cho thấy sự nương nhẹ chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, vì đến tháng 11.1785, Nhạc lại đàn áp Cơ Đốc giáo bằng cách ban hành một chỉ dụ chống lại tôn giáo:

"Ta mong muốn triệt tiêu khỏi đất nước của ta một tôn giáo của người Tây dương đang lan rộng. Đó là một giáo phái không công nhận cả cha lẫn vua; ta không rõ chúng mang tới cho con người loại độc dược nào khiến họ đi theo; giáo phái đó không tôn trọng luật pháp của chúng ta, không tôn kính thần hộ mệnh của chúng ta; đêm đêm chúng đọc kinh sách, và tập hợp chung đụng nam nữ mà không một chút xấu hổ; chúng là những kẻ ăn không ngồi rồi, chỉ thích rong chơi, không hề làm việc gì để tạo lập của cải hay tài sản thừa kế; cuối cùng, chúng không biết đỏ mặt vì xấu hổ khi bị trừng phạt... Vì những lẽ đó và những điều ta biết, ta ra lệnh phá hủy tất cả nhà chung của chúng, [và] sẽ lập một bảng liệt kê danh sách chính xác tất cả những ai tham gia vào tôn giáo này. Những ai đang trong tình trạng chuyên chở vũ khí sẽ bị ghi tên sung vào quân ngũ”.*

Chỉ dụ này tóm lược những lý lẽ của nhà nước Đại Việt chống lại Cơ Đốc giáo, miêu tả quyết định cấm tôn giáo xuất phát từ tác động phá hoại xã hội mà nó gây ra. Cơ Đốc giáo được coi là sự thách thức đối với các nghĩa vụ gia đình và chính trị của Khổng giáo, vì nó "không công nhận cả cha lẫn vua”. Trong sự phục tùng những người bề trên theo giáo điều của Khổng giáo, sự tôn kính người cha và ông vua (một gương mặt khác của người cha) là căn bản của trật tự xã hội, và do có tính nổi loạn cố hữu, tôn giáo được xem là sự thách thức (dù cho trên thực tế, chưa biết được những người tham gia có phá bỏ trật tự. xã hội hiện hành hay không, và nhiều người thì không). Nhạc không nói lên quan điểm trên với tư cách một người theo Khổng giáo, những điều cơ bản trong chỉ dụ trên có thể phản ánh ảnh hưởng của các cố vấn của Nhạc lên ông ta.

Người Cơ Đốc giáo được chọn nói đến trong chỉ dụ này do họ “không tôn kính các vị thần hộ mạng của chúng ta”. Có lẽ đó là nguồn gốc phổ biến và rõ ràng nhất của sự căng thẳng xã hội tồn tại ở những khu vực nơi người Cơ Đốc giáo sinh sống. Sự kiện họ thiếu thiện chí trong việc đóng góp vào những nghi thức của làng xã có liên quan đến thần hộ mạng cho thấy họ là những kẻ ngoài cuộc và bất đồng quan điểm, nếu không về mặt chính trị thì cũng về mặt xã hội. Cho dù một số giáo sĩ, đặc biệt là giáo sĩ dòng Jesuit, đã nhấn mạnh đến việc họ thích ứng với phong tục địa phương, những người khác (chủ yếu từ các tổ chức thế tục như Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris, MEP) nhấn mạnh rằng người Việt theo Cơ Đốc giáo không phải đóng góp tiền cho những buổi lễ nhằm kỷ niệm hay tôn vinh các vị thần hộ mạng tại địa phương. Vì thế, nhiều làng xã lâm vào tình trạng chia rẽ sâu sắc. Trong một số trường hợp, những dân làng không phải là người Cơ Đốc giáo đưa vấn đề ra cơ quan tư pháp, nhằm mục đích buộc người theo Cơ Đốc giáo trong làng phải thanh toán phần đóng góp của họ vào chi phí cộng đồng của những buổi lễ này. Trong những trường hợp khác, làng xã bị chia tách ra, với một nhóm người kéo nhau sang một khu vực khác để hình thành một nơi ở mới.

Với tất cả những lý do được miêu tả tỉ mỉ về việc cấm tôn giáo hoạt động, các giáo sĩ châu Âu cho rằng chỉ dụ trên được thúc đẩy chủ yếu bởi ý muốn trả thù. Hình như Nhạc khó chịu vì thất bại trong việc thuyết phục các giáo sĩ phương Tây cung cấp cho kim loại đồng chở từ châu Âu sang, đã bị Olmedilla lừa gạt trong chuyện này, vì thế ông ta đã sử dụng chỉ dụ như một phương tiện để trừng phạt tập thể những tín đồ Cơ Đốc giáo, vì những việc làm được cho là tệ hại của các giáo sĩ. Tuy nhiên, cùng lúc đó, chỉ dụ mang lại cho Nhạc nhiều lợi ích thực tế. D’Arcet, giáo sĩ Pháp hoạt động trong lãnh thổ do Tây Sơn kiểm soát vào các thập niên 1770 và 1780, viết rằng chỉ dụ ra lệnh cho tất cả những người Cơ Đốc giáo phải đăng ký và sổ đăng ký này được chuyển đến triều đình, để cho tất cả những người có tên trong danh sách có thể được “sử dụng như là những nô lệ phục vụ cho đức vua cùng các quan lại của ông”*. Nhạc cũng dành cho người Cơ Đốc giáo một sự chọn lựa thứ hai, cho phép họ thanh toán một khoản “tiền phạt” tính ra 10 “đồng livre” bằng đồng thay vì phải từ bỏ tín ngưỡng của họ*.

Việc thu các khoản tiền phạt (hay thuế) như thế - một cách hành thu từng được quan lại của chúa Trịnh ở các trấn và cả các chúa Nguyễn ở phía nam thực hiện - có ích cho các lãnh tụ Tây Sơn vì nhiều lý do. Trước hết, nó cho phép họ dễ dàng nhận diện người Cơ Đốc giáo hơn, vì khi tiền bạc được thu thập một cách có hệ thống thì sổ bộ về người Cơ Đốc giáo tại địa phương cũng được soạn thảo. Thứ đến, việc thu tiền của người theo Cơ Đốc giáo là cách hóa giải sự căm phẫn tiềm tàng của người dân địa phương đối với Cơ Đốc giáo, và vì thế là làm giảm căng thẳng xã hội. Bằng cách áp đặt tiền phạt cho những người Cơ Đốc giáo, chính quyền Tây Sơn muốn chứng tỏ rằng trở thành người Cơ Đốc giáo là điều không thể chấp nhận được, và họ làm như thế để ngăn chặn điều này cùng những hình thức đi ngược lại trào lưu chính thống khác. Cuối cùng, tất nhiên đây là cách hữu hiệu để thu lợi tức bổ sung từ một nhóm người tương đối ít được bảo vệ. Trong lúc các quan lại Tây Sơn hài lòng nhìn thấy dân chúng từ bỏ Cơ Đốc giáo, họ cũng không khăng khăng với việc này đến nỗi từ bỏ niềm vui được đút lót. Điều đó rất rõ ràng đối với những giáo sĩ châu Âu đã quan sát việc thi hành các chính sách đó. Như có người đã viết: “chính vì chống lại kẻ thù của tôn giáo không bằng chống lại những kẻ yêu tiền mà chúng ta phải tự bảo vệ mình”*. Một người khác viết riêng về cuộc đàn áp năm 1785 của Nhạc rằng: "có vẻ như tên bạo chúa hành động vì sự hám lợi hơn là vì sự căm ghét tôn giáo thần thánh của chúng ta”*.

Người theo Cơ Đốc giáo đặc biệt bị tổn thương bởi hình thức "đánh thuế” như thế, bởi vì khi đã là một đối tượng tôn giáo thiểu số bị ngược đãi, họ không thể nhờ đến sự bảo vệ của nhà nước như những người Việt khác. Thật vậy, mục tiêu chủ yếu của họ là tránh sự chú ý của bộ máy quan liêu vẫn thường xuyên cấm đạo Cơ Đốc. Vì thế, người Cơ Đốc giáo luôn ở dưới quyền sinh sát của bộ máy cai trị, không nhất thiết là bộ máy trung ương, mà còn cả những quan chức địa phương tham lam và binh lính nữa. Do việc thu những khoản tiền phạt theo lệnh nhà nước thường được sắp đặt trước, và còn có thể được bổ sung bởi những đòi hỏi thêm của quan chức địa phương, nên việc thanh toán các khoản đóng góp theo yêu cầu cũng chỉ tạm thời giải quyết vấn đề và không có gì đảm bảo là họ sẽ không chịu sưu cao thuế nặng trong tương lai. Thêm vào đó, đã đóng phạt cho quan chức ở cấp chánh quyền này không có nghĩa là sẽ không bị những quan chức cấp cao hơn đưa ra các đòi hỏi tương tự. Cuối cùng, do những sự dàn xếp này thường không có tính cách chính thức, nên nếu một quan chức rời khỏi nhiệm sở, người kế nhiệm ông ta không cần thiết phải tôn trọng những điều khoản của thỏa thuận hiện hành và có thể đòi hỏi những khoản nộp thêm.

Mặc dù người Cơ Đốc giáo được chọn cách nộp phạt, song nhiều người vẫn bị cưỡng bách gia nhập quân đội Tây Sơn chỉ một thời gian ngắn sau khi chỉ dụ của Nguyễn Nhạc được ban bố. Vì thế, hình như đạo quân Tây Sơn đi ra bắc năm 1786 bao gồm một tỷ lệ không cân xứng những người theo Cơ Đốc giáo. Năm đó, một giáo sĩ châu Âu ở Đàng Ngoài đã viết rằng: “một số khá lớn những người nổi dậy là người theo Cơ Đốc giáo, hoặc ít nhất cũng là những người đã được rửa tội; nhiều người trong số họ đi xưng tội với Cha Khiêm, cha xứ tại kinh đô”. Một người khác viết rằng trong đạo quân Đàng Trong trú đóng tạm thời cạnh ngôi làng nhỏ của họ, nhiều binh lính là người Cơ Đốc giáo. Sự hiện diện của người Cơ Đốc giáo trong quân đội Tây Sơn, có lẽ với số lượng không tương xứng với sự có mặt của họ trong cư dân Đàng Trong, là một chỉ dấu cho thấy sự nổi bật của họ trong nhóm này. Nhiều người có lẽ đã bị bắt lính cùng với bất cứ những ai mà nhà Tây Sơn có thể nắm bắt lấy. Những người khác, như chúng ta đã thấy, được chọn vào quân đội Tây Sơn bởi vì họ là người Cơ Đốc giáo, và dễ bị đòi hỏi bởi chính quyền. Dù với lý do nào, rõ ràng người Cơ Đốc giáo, tuy chỉ là một số nhỏ trong toàn bộ dân số, cũng là một thành phần quan trọng và rõ rệt trong xã hội Đại Việt vào thời Tây Sơn và không thể lãng quên.

IV. 1.3. Mối quan hệ Tây Sơn và người Cơ Đốc giáo tại Đàng Trong sau năm 1785

Mặc dù Nguyễn Nhạc đã luân phiên giữa việc cư xử nhẹ tay với việc tấn công Cơ Đốc giáo trong nửa đầu thập niên 1780, thời kỳ sau 1785 được đánh dấu bởi thái độ chống Cơ Đốc giáo ngày càng tăng và không thể đảo ngược được của người anh cả trong ba anh em Tây Sơn. Ác cảm của Nguyễn Nhạc càng tăng cao chủ yếu do sự gia tăng ủng hộ của người châu Âu đối với Nguyễn Ánh, đặc biệt là sự ủng hộ của Giám mục Bá Đa Lộc. Vào thời điểm đó, vị giám mục này hộ vệ người con trai của Nguyễn Ánh đến châu Âu để tranh thủ sự ủng hộ của nước Pháp cho mục tiêu của chúa Nguyễn. Mặc dù thỏa ước đã ký kết không mang lại chút hi vọng hỗ trợ nào, sự thật về phái bộ này cho thấy rõ mức độ dính líu của các giáo sĩ châu Âu nhân danh lý tưởng của nhà Nguyễn, một sự dính líu mà các lãnh tụ Tây Sơn cũng nhận thấy. Một thư giáo sĩ viết vào năm 1786 trên lãnh thổ của Tây Sơn ghi rằng: “Chúng tôi chỉ lo sợ một điều. Đó là sợ cái đầu bị lìa khỏi cổ, không phải vì sự căm ghét đối với tôn giáo thiêng liêng của chúng ta, mà vì những người châu Âu mong muốn đưa vị chúa Đàng Trong trở lại ngai vàng”*. Thư của một giáo sĩ Pháp viết từ Đàng Ngoài vào tháng 8.1786 cho rằng mọi người ở đây biết sứ mạng mà ông giám mục thực hiện vì chúa Nguyễn*, Những báo cáo trên cho thấy Nhạc ra lệnh đưa tất cả những người đàn ông Cơ Đốc giáo trên lãnh thổ của ông ta vào quân đội và phá hủy nhà thờ của họ. Theo tài liệu này, một lần nữa Nguyễn Huệ bước vào, dung hòa những yêu cầu của người anh, cho được miễn nghĩa vụ quân sự đổi lấy một khoản tiền nhỏ*. Nỗi lo lắng của Nhạc trước việc phái bộ từ Pháp quay về càng gia tăng, khi chính Nguyễn Ánh quay về Đàng Trong năm 1787 sau nhiều năm sống lưu vong trên đất Xiêm.

Việc Nguyễn Nhạc chống lại những người Cơ Đốc giáo sống trên lãnh thổ của ông ta tiếp tục gia tăng vào năm 1789, người ta kể rằng ông đã ra lệnh cho các xã trưởng trong lãnh thổ của ông ta tiến hành một cuộc điều tra dân số trong khu vực trách nhiệm của họ. Lệnh này được tiếp nối bằng một yêu cầu khác, buộc những ngươi theo Cơ Đốc giáo phải nộp một khoản phạt bằng 10 miếng đồng vì vẫn tiếp tục gắn bó với tôn giáo. Khi đội thuyền của chúa Nguyễn tiến đến cảng Thị Nại của vua Thái Đức vào mùa hè năm 1792 và bắt giữ hay phá hủy toàn bộ thủy quân của Tây Sơn, sự giận dữ của Nguyễn Nhạc còn mãnh liệt hơn nữa. Theo một số tài liệu, ông ta quyết trả thù hành động trên, thề rằng nếu đạt đến thắng lợi cuối cùng trước quân Nguyên, ông ta sẽ chứng kiến sự hủy hoại toàn diện của Cơ Đốc giáo trên lãnh thổ của ông ta. Nhạc đã không hoàn thành được mục tiêu này, vì ông ta đã qua đời vào ngày 13.12 năm sau, được cho là do bị dằn vặt bởi nỗi giận dữ của chính ông ta. Các giáo sĩ phương Tây khi viết về cái chết của Nguyễn Nhạc đã giải thích đó là sự trừng phạt của thần thánh và so sánh sự cư xử của Nhạc và của người em ông ta đối với người Cơ Đốc giáo: “Cái chết của ông ta (Nhạc) và của người em trai ông ta thật khác nhau! Người này (Huệ) không làm gì chống lại người Cơ Đốc giáo thì chết như một ông vua trong vinh quang của mình; còn người kia (Nhạc) dành cả đời để ngược đãi họ, tìm cách làm cho họ bị hủy hoại hoàn toàn, thì chết trong sự ô nhục, mất cả quyền trượng và vương quốc của mình”*.

Sau cái chết của Nhạc vào năm 1793, tình hình của Cơ Đốc giáo trên vùng đất do Tây Sơn kiểm soát ở phía nam có vẻ được cải thiện, ít nhất là tạm thời. Năm 1795, một giáo sĩ viết rằng nhà Tây Sơn “hoặc vì lý do chính trị, hoặc được thuyết phục rằng việc ngược đãi tôn giáo thiêng liêng của chúng ta thường dẫn đến một kết cục tệ hại, nên đã có thiện chí hơn đối với tôn giáo”. Trong một thư khác, cũng tác giả trên kể về việc một quan chức cao cấp của nhà Tây Sơn đã ca ngại Cơ Đốc giáo và chỉ trích cách cư xử của nhà Nguyễn trước đó đối với tôn giáo này. Có thể những cảm nghĩ đó phản ánh việc nghĩ lại về thái độ thù nghịch của Nhạc đối với người Cơ Đốc giáo, với ý định vuốt ve họ vì quyền lợi của nhà Tây Sơn. Điều không may là không còn có thêm chứng cứ nào sau năm 1795 về tình trạng của những người Cơ Đốc giáo ở phần phía nam lãnh thổ do nhà Tây Sơn kiểm soát.

IV. 1.4. Mối quan hệ Tây Sơn và người Cơ Đốc giáo tại Đàng Ngoài sau năm 1785

Tình trạng của người Cơ Đốc giáo ở vùng thượng Đàng Trong và Đàng Ngoài trong thời kỳ bắt đầu vào năm 1786 cũng giống ở các khu vực xa về phía nam, là vấn đề về những thăng trầm của tính bè phái chính trị và sự thay đổi chiều hướng quân sự trong cuộc chiến với nhà Nguyễn, mỗi vấn đề tác động sâu sắc lên thái độ và hành động của chính quyền đối với cả người Việt theo Cơ Đốc giáo lẫn các giáo sĩ châu Âu. Chính hành động của nhà Tây Sơn đối với người theo Cơ Đốc giáo ở phía bắc sau năm 1786, và đặc biệt sau năm 1788, đã giải thích rằng chính sách tôn giáo của họ thuận lợi cho Cơ Đốc giáo. Cách nhìn nhận này đúng với thực tế, tình cảnh của người Việt Cơ Đốc giáo ở khu vực phía bắc Phú Xuân sau năm 1788 thường có tính tích cực, và điều này được các giáo sĩ châu Âu công nhận.

Tuy nhiên, một cuộc khảo sát kỹ hơn cho thấy rằng cũng có những thời điểm diễn ra các cuộc tấn công người Cơ Đốc giáo, khi thì do chính quyền trung ương, khi thì do địa phương thực hiện, đặc biệt trong khoảng thời gian những năm 1794-1795 và từ năm 1798 đến 1800, tình hình luôn trở nên bấp bênh do vận may về chính trị hay thay đổi.

Sau cái chết của Trịnh Sâm vào năm 1782, thái độ của chính quyền đối với Cơ Đốc giáo ở phía bắc bớt thù nghịch hơn, điều này được ghi trong nhiều thư từ của các giáo sĩ. Năm 1784, một giáo sĩ thậm chí còn viết rằng một thời gian ngắn sau lễ Phục sinh, ông ta có thể tự mình đi vào kinh đô Thăng Long. Sự nương nhẹ ngày càng gia tăng có thể là kết quả của tình trạng rối loạn về chính trị lan rộng trên đất bắc, khiến chính quyền có ít thì giờ để theo đuổi các chính sách chống lại người Cơ Đốc giáo. Hình như việc quân đội Tây Sơn ra Đàng Ngoài năm 1786 cũng không làm thay đổi sự lạc quan chung của người Cơ Đốc giáo ở đây. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh trở thành người nổi bật về chính trị vào cuối năm 1786, ông ta tỏ rõ một thái độ có thiện chí đối với tôn giáo và những người được kết nạp. Hình như Chỉnh quen biết với một vài ngươi Cơ Đốc giáo trong thời gian ở phía nam với nhà Tây Sơn và cả người thư ký thân tín lẫn người y sĩ riêng của ông ta đều là người Cơ Đốc giáo. Thậm chí một vài người còn tuyên bố rằng bản thân Chỉnh cũng lả người Cơ Đốc giáo, dựa vào việc ông ta công khai chỉ trích phía Phật giáo và các đồ thờ cúng của tôn giáo này*. Dù cho hành động của ông ta phát xuất từ đâu, những người Cơ Đốc giáo cũng được sống yên bình trong gần 12 tháng Chỉnh có vai trò nổi bật ở Đàng Ngoài.

Sau việc Chỉnh bị hất cẳng vào cuối năm 1787 là thời kỳ bất ổn chính trị gia tăng ở Đàng Ngoài, lên đến cực điểm bằng cuộc xâm lược của quân Thanh và thất bại tiếp sau đó của đạo quân này vào đầu năm 1789. Cộng đồng người Cơ Đốc giáo và các nhà thờ bị thiệt hại khá nhiều trong thời kỳ này, mặc dù có những chỉ dấu cho thấy rằng điều này không phải là không tương xứng với sự chịu đựng của người dân nói chung, và sự nương tay với tôn giáo hình như cũng tiếp tục sau đó. Sau khi yên vị trên ngai vàng, hoàng đế Quang Trung nêu rõ rằng ông sẵn sàng đối xử tốt với người Cơ Đốc giáo dưới quyền kiểm soát trực tiếp của ông. Việc có tin một quan lại cao cấp của ông là người Cơ Đốc giáo có thể ảnh hưởng đến thái độ của vị hoàng đế đối với thần dân của ông. Các giáo sĩ viết rằng mặc dù có những cuộc thảo luận trong các quân sư của vua Quang Trung về vấn đề đàn áp người Cơ Đốc giáo, phần lớn những người tín cẩn của nhà vua đều có những lý lẽ chống lại việc làm này. Họ vạch ra rằng người Cơ Đốc giáo khá đông, họ đóng thuế một cách đầy đủ và họ không gây ra một vấn đề gì. Vì thế, các quân sư đã kết luận rằng không có lý do gì để xua đuổi người Cơ Đốc giáo, và trên thực tế, làm như vậy là lợi bất cập hại. Vua Quang Trung nghe theo ý kiến đó, vì nó có vẻ phù hợp với quan điểm của riêng ông, và sự yên bình về tôn giáo vẫn tiếp tục như đã được xác định bởi những bức thư khác viết từ Đàng Ngoài vào thời đó.

Cũng như những người đi trước và những người đồng thời (trong đó có anh ông là Nguyễn Nhạc), vua Quang Trung chuẩn bị sử dụng kiến thức khoa học của các giáo sĩ châu Âu phù hợp với ông. Khi bà hoàng hậu của ông ngọa bệnh vào năm 1791, ông quay sang các giáo sĩ Pháp thuộc Hội Truyền giáo Hải ngoại (MEP) sống trên lãnh thổ của ông, hi vọng thuốc phương Tây cứu được bà. Bất đắc dĩ phải cử người trong số họ đi vào một nơi mà cách ngôn gọi là hang hùm, các giáo sĩ Pháp quyết định đề cử một giáo sĩ trẻ tên Francois-Joseph Girard. Sự chậm trễ của các quan lại của Quang Trung ngăn trở việc Girard cho thuốc và bà hoàng hậu qua đời. Dù thế, vị hoàng đế Tây Sơn tiếp đón người châu Âu tại cung điện của ông ở Phú Xuân và có vẻ như đã làm dịu hơn lập trường của ông đối với Cơ Đốc giáo*. Mặc dù vua Quang Trung không phải là không biết sự ủng hộ của giới giáo sĩ cho chúa Nguyễn Ánh, song có vẻ như ông không quan tâm đến thông tin này, cũng như người anh của ông từng làm thế. Thái độ này phần nào có liên quan đến sự kiện ông tiếp tục bảo vệ vùng đệm giữa ông và quân Nguyễn. Trong bất kỳ trường hợp nào, miễn là vua Quang Trung có được hi vọng thu phục các giáo sĩ, người Cơ Đốc giáo, hay cả hai về phía mình, ông vẫn tiếp tục chính sách khoan nhượng đối với họ.

Khi Quang Trung duy trì sự khoan nhượng người Cơ Đốc giáo trong lãnh thổ của ông, ông không cần lý đến nguồn gốc của họ như người anh của ông đã làm trước đó vào thập niên 1780. Đặc biệt hơn cả là cũng như Nhạc, Quang Trung quyết định đánh một thứ thuế đặc biệt lên người Cơ Đốc giáo trong quản hạt của mình. Năm 1790, ông ban hành một chỉ dụ thu tiền người Cơ Đốc giáo đổi lại việc họ được phép tiếp tục thực hành tín ngưỡng. Ông ấn định khoản nộp của cộng đồng người Việt theo Cơ Đốc giáo sống ở phía bắc Phú Xuân là 10.000 tiền đồng. Những người sống ở phía nam, nơi ít người Cơ Đốc giáo hơn, sẽ phải đóng 5.000 tiền đồng. Số tiền được đóng tập thể, phản ánh nhận thức của vua Quang Trung cho rằng cộng đồng (ít nhất tại chỗ) tương đối có tính gắn kết nên có thể cống nộp tài nguyên theo cách đó. Điều này không khác với những sự kiện trước đây, khi quan lại địa phương bắt cóc các giáo sĩ châu Âu hay tu sĩ bản xứ và buộc cộng đồng có liên quan đến họ phải nộp tiền chuộc. Những hành động đó được thúc đẩy bởi việc họ tin rằng các giáo sĩ châu Âu giàu có và vì thế là một mục tiêu có lợi cho họ. Chính sách nương nhẹ đối với người Cơ Đốc giáo đôi lúc tiếp tục được thực hiện ở phía bắc của vương quốc Tây Sơn, ngay cả sau cái chết sớm sủa của vua Quang Trung vào năm 1792. Người kế vị ông được sự hỗ trợ của một vị phụ chánh, duy trì chính sách của người cha trong nhiều năm sau đó. Trong thư gửi về Paris vào tháng 6.1793, Charles La Mothe viết rằng có một chính sách khoan nhượng đối với những chính sách đã tồn tại dưới thời Lê-Trịnh. Cùng lúc đó, Pierre Eyot viết rằng "Do Đàng Ngoài nằm dưới sự thống trị của Đàng Trong, không có chuyện kể về sự ngược đãi tôn giáo". Một giáo sĩ khác viết vào năm 1794, so sánh tình trạng tôn giáo ở Đàng Ngoài thuận lợi hơn so với nước Pháp của ông ta lúc phải trải qua nỗi thống khổ trong cuộc Cách mạng Pháp. Ông ta viết rằng tình trạng nội chiến ở hai nơi tương tự nhau, nhưng do sự kiện "những người nổi dậy của chúng tôi không đụng chạm đến tôn giáo, và trái lại, họ cho tôn giáo nhiều tự do hơn bao giờ”. Những người khác viết thư vào năm đó cũng có những nhận xét tương tự.

Tuy nhiên, sự yên bình về tôn giáo được mô tả trong những thư này không kéo dài lâu. Năm 1793, đã có những chỉ dấu cho thấy các thành phần trong ban lãnh đạo nhà Tây Sơn e sợ những người châu Âu ở trong hàng ngũ của họ, nghi ngờ những người này tiếp xúc với lực lượng của chúa Nguyễn và với người của chúa Nguyễn đang hoạt động ở Đàng Ngoài. Cũng có tin đồn là chúa Nguyễn đang chỉ đạo các giáo sĩ trong các vùng do Tây Sơn kiểm soát đội lốt tôn giáo để hoạt động cho chúa. Mặc dù những lời tố cáo này bị chính một quan lại cao cấp của Tây Sơn bác bỏ, sự hoài nghi vẫn là một phần đáng kể trong không khí chính trị chung vào thời đó. Một cuộc tấn công quan trọng của quân Nguyễn vào năm 1794 đã kích động một vài nhà lãnh đạo Tây Sơn, vì “viên thái sư ở vùng thượng Đàng Trong [Bùi Đắc Tuyên, phụ chánh của vì vua trẻ Tây Sơn]* đã nhìn thấy mấy sĩ quan Pháp đi đầu hàng quân đối địch của ông ta và đã đánh bại quân của ông ta nên đã nổi con cuồng nộ đối với chúng ta [các giáo sĩ châu Âu] và các giáo dân Cơ Đốc giáo, và lên tiếng đưa ra những lời đe dọa nặng nề”. Việc nhìn thấy những người Pháp này trong hàng ngũ quân Nguyễn đối với một vài quan chức Tây Sơn là một dấu hiệu rõ ràng và xa hơn về việc các giáo sĩ châu Âu đã tích cực hỗ trợ đại kình địch của họ.

Sự yên ắng nhất thời về tôn giáo được điểm xuyết bằng hai chỉ dụ được ban hành vào tháng 2 năm 1795*. Một giáo sĩ viết về bối cảnh xoay quanh những chỉ dụ này và động lực ẩn đáng sau chúng rất rõ ràng:

“Cách đây 4 ngày nhà vua ban một chỉ dụ tập hợp các sư sãi hàng đầu ở Đàng Ngoài lại để giúp ông, bằng uy tín và những lời cầu nguyện của họ, chống lạl những tiến bộ mà chúng ta [các giáo sĩ] đã đạt được, và có hại cho tinh thần của người dân trong việc tranh thủ lòng trung thành của họ đối với vị vua ở Đồng Nai”.

Bình luận này cho thấy rõ rằng quan điểm chống Cơ Đốc giáo phát triển vào thời điểm này có quan hệ trực tiếp với nỗi lo sự là người Cơ Đốc giáo, dù là các giáo sĩ hay người bản xứ, đang trở thành những người ủng hộ chúa Nguyễn. Philiphê Bỉnh, một người Việt thuộc dòng Tesuit, mô tả động lực của những chỉ dụ trên là nỗi lo sợ mất nước về tay người châu Âu, hơn là sự thù nghịch đối với Cơ Đốc giáo. Trong lúc cả hai chỉ dụ đều dưới danh nghĩa vì vua trẻ của nhà Tây Sơn là Cảnh Thịnh thì các giáo sĩ lại đồng thanh gán ghép chúng cho ông quan phụ chánh* và cơn thịnh nộ của ông này đối với sự ủng hộ của người châu Âu dành cho chúa Nguyễn Ánh ở phía nam, kết hợp với lòng căm thù khôn nguôi đối với tín ngưỡng.

Theo một giáo sĩ khác, Bùi Đắc Tuyên từng có một cuộc nói chuyện vào năm 1795, trong đó, ông ta công khai bày tỏ quan điểm của triều đình Tây Sơn đối với giới giáo sĩ và sự dính líu của người châu Âu nhân danh lý tưởng của chúa Nguyễn. Tuyên ghi nhận sự ủng hộ của những người châu Âu đặc biệt cho mục tiêu của chúa Nguyễn, và thúc giục các giáo sĩ sử dụng ảnh hưởng của họ để thuyết phục người nông dân chuyển sự trung thành của họ về phía Tây Sơn:

“Ta đã... nói với các thầy trong đạo là nếu họ trả cho ta ông Olivier và những người đi chung với ông ta ở vùng hạ Đàng Trong, ta sẽ để họ sống trong an bình, nhưng nếu không đạt được điều này, ta sẽ bắt giữ họ và phá hủy toàn bộ nhà thờ của họ theo đúng tinh thần của chỉ dụ... Các ông vua trước luôn luôn cấm đạo, nhưng những ông vua bây giờ thì trái lại, cho phép mọi người tôn trọng đạo mà không nói một lời nào, và ở đây chúng ta sẽ để cho ông Olivier cai quản mọi công việc ở vùng hạ Đàng Trong, chế tạo vũ khí và các thầy trong đạo hãy kêu gọi người châu Âu tiến hành cuộc chiến giúp một vị vua rất nhân từ và rất rộng lượng đối với họ: những người Cơ Đốc giáo vô ơn bạc nghĩa”.

“Ông Olivier” được nhắc đến trong buổi nói chuyện này chính là Olivier de Puymanel (1768-1799). Được sử biên niên Việt Nam gọi là "Ông Tín”, de Puymanel khá nổi tiếng về kiến thức trong lãnh vực chiến thuật quân sự và vũ khí*. Tài liệu của một giáo sĩ Pháp tên Charles-Prancois Langlois viết vào năm 1795 rằng “những bạo chúa muốn có được ít nhất một hay hai người châu Âu để cử họ đến Đàng Trong thuyết phục ông Olivier không ủng hộ chúa Nguyễn nữa hoặc đi đến Manila yêu cầu vị Tổng trấn cử người bắt giữ Olivier nếu điều này thuộc thẩm quyền của ông ta". Vào mùa hè năm 1795, một giáo sĩ châu Âu khác cũng viết tương tự, rằng Tuyên muốn sử dụng một số giáo sĩ châu Âu đi đến Đồng Nai thuyết phục Olivier ngưng ủng hộ chúa Nguyễn và đưa ra những lời kêu gọi tương tự với những người châu Âu khác trong trại quân Nguyễn.

Các chỉ dụ năm 1795 cũng bao gồm lời kêu gọi phục hồi hay làm sống lại các truyền thống của địa phương, cả Phật giáo lẫn Khổng giáo, trong một nỗ lực trừ tiệt sự tiêm nhiễm Cơ Đốc giáo trong xã hội Đại Việt. Do đó, các chỉ dụ kêu gọi khôi phục sự trung thành với những lời giáo huấn của đạo Khổng và mang lại sức sống mới cho sự cam kết của chính quyền nhằm duy trì cơ chế xã hội theo Khổng giáo. Như chỉ dụ đã nêu: “[Các giáo sĩ] đã bí mật đến đất nước chúng ta để đầu độc và làm mê muội trái tim của mọi người trong nước. Họ trực tiếp truyền đi những lời nói dối để làm lạc hướng các hàng ngũ dân chúng đi vào con đường phi chính thống"*. Vì thế, có vẻ như các chỉ dụ là một phần của một mưu toan rộng lớn hơn nhằm (coi việc) phục hồi tính chính thống như một cách tăng cường sức mạnh của triều Tây Sơn chống lại kẻ thù. Các nguyên lý phi chính thống do các giáo sĩ châu Âu chủ trương và được những người Việt Cơ Đốc giáo chấp nhận là một thách thức quan trọng đối với sự thống nhất quốc gia và xã hội, và vì thế, theo quan điểm này, nó cần phải bị triệt tiêu.

Thời điểm của chỉ dụ chống Cơ Đốc giáo năm 1795 để lộ những chia rẽ quan trọng trong hàng ngũ lãnh đạo nhà Tây Sơn. Hiển nhiên phụ chánh Bùi Đắc Tuyên đã lôi kéo người mà ông ta có trách nhiệm đỡ đầu là vua Cảnh Thịnh trẻ tuổi để ông này ban bố các chỉ dụ chống Cơ Đốc giáo, và làm điều này như cái vỏ bọc cho một cuộc phế truất đã được dự liệu để thay thế con của hoàng đế Quang Trung bằng con cháu của viên phụ chánh. Âm mưu này bị phát hiện và một cuộc chống phế truất đưa đến kết quả bắt giữ Tuyên và hành hình ngay ông ta. Sau cái chết của Tuyên, các chỉ dụ bị hủy bỏ, cho dù không rõ là do trong đó chứa đựng yếu tố chống Cơ Đốc giáo hay chúng đã được soạn thảo bởi một người đã bị thất sủng như Tuyên. Một bức thư viết: "Một chỉ dụ được ban bố hủy bỏ tất cả những gì mà viên phụ chánh đã làm trong ba tháng tại nhiệm". Bức thư tiếp tục ghi nhận rằng các giáo sĩ được cho biết là nếu chỉ dụ chống Cơ Đốc giáo do vua Cảnh Thịnh và các quân sư làm ra thì vẫn còn hiệu lực, còn nếu là của Bùi Đắc Tuyên như nhiều người nghi ngờ, thì sẽ bị hủy bỏ.

Sự phân hóa trong nội bộ lãnh đạo Tây Sơn về thái độ ứng xử với người Cơ Đốc giáo kéo dài cho đến khi triều đại này sụp đổ. Một vài quan lại tiếp tục cư xử khắc nghiệt với họ, trong khi những người khác thể hiện sự khoan nhượng nhiều hơn. Trong một vài trường hợp, người chủ trương khoan nhượng là những người theo chủ nghĩa thực dụng, sợ rằng việc đàn áp người Cơ Đốc giáo sẽ gây thêm sự căm ghét của một bộ phận dân chúng vốn đang mất thiện cảm với chính quyền. Một số quan lại khác là người Cơ Đốc giáo và đi tìm những người đồng đạo với họ. Những lá thư của các giáo sĩ viết vào thời kỳ này có kể về một số quan lại cao cấp của nhà Tây Sơn là người Cơ Đốc giáo và họ tỏ ra cảm thông với hoàn cảnh của các giáo sĩ. Chẳng hạn như trong cuộc đàn áp người Cơ Đốc giáo diễn ra vào giữa năm 1795, một giáo sĩ viết rằng vào tháng 8 năm đó, tức chỉ 6 tháng sau khi chỉ dụ được ban bố, ông ta được triệu tập đến khu đất kiên cố của viên trấn thủ “kinh đô" để làm lễ kỷ niệm, ông ta kể rằng các quan lại bất đầu trả lại nhà thờ và những đồng tiền họ đã tịch thu trong thời gian ngược đãi tôn giáo ngắn ngủi đã qua. Một số giáo sĩ khác cũng đã kể lại những trải nghiệm lạc quan tương tự và sự tự do tôn giáo tiếp tục vào năm 1797.

Ngay cả khi có sự tiếp tục yên ắng về tôn giáo, các vấn đề trước đây góp phần gây ra những hành động chống Cơ Đốc giáo vẫn tồn tại. Chúa Nguyễn tiếp tục củng cố sức mạnh ở phía nam, không ngừng đe dọa mở cuộc tấn công quyết định vào triều đình Tây Sơn ở Phú Xuân, và sự nghi ngờ của những người Âu sống trên lãnh thổ Tây Sơn chắc chắn là đang gia tăng. Sự nghi ngờ này đặc biệt dâng cao khi chúa Nguyễn mở rộng khả năng gửi những toán hoạt động bí mật ra bắc. Đầu năm 1797, một giáo sĩ Pháp kể rằng: “những gián điệp của vị chúa ở Đàng Trong lần lượt bị bắt, làm sống lại sự nghi ngờ mà người ta đã đành để chống lại chúng ta". Trong những tình huống như vậy, một cuộc đàn áp trở lại là điều không thể tránh được, và nó đã xảy ra vào mùa hè năm sau. Một chỉ dụ mới chống Cơ Đốc giáo được ban hành, phản ánh sự ngờ vực của nhà Tây Sơn, không chỉ đơn thuần đối với các giáo sĩ, mà còn với những người Việt theo Cơ Đốc giáo nữa. Hình như vào năm 1798 có một số người Cơ Đốc giáo tham gia một cuộc nổi dậy chống nhà Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của một “thuật sĩ” tự xưng vương. Trong lúc giới giáo sĩ kể lại biến động này thì Pierre Eyot viết rằng chứng cứ đó cho thấy người Cơ Đốc giáo không lãnh đạo cuộc nổi dậy, và sự ngờ vực vẫn còn đó.

Đỉnh điểm của sự ngược đãi diễn ra vào tháng 9.1798, khi một giáo dân Cơ Đốc giáo người Việt tên Immanuel Triệu bị hành quyết cùng với 6 tên trộm cắp vào ngày 17 tháng này. Sự kiện này đánh dấu cuộc hành quyết công khai đầu tiên một người Cơ Đốc giáo kể từ cái chết vào năm 1782 của Perdinand de Olmedilla, một giáo sĩ Tây Ban Nha dòng Dominican. Hơn nửa, sự đàn áp Cơ Đốc giáo được kèm theo bằng một mệnh lệnh lập bảng kiểm kê tất cả các nhà thờ đang tồn tại và các “nhà của Chúa”. Lệnh này nhắm vào từng xứ đạo một và tiếp theo bằng sự thanh sát của những quan lại đi kiểm tra các danh mục đã lập. Hình như đó là bước khởi đầu của một chiến dịch nhằm phá hủy tất cả các nhà thờ đang có; song như trường hợp vẫn thường xảy ra, hành động quyết liệt này có thể được giải quyết sớm bằng cách hối lộ một khoản tiền được ấn định ít nhất 5.000 xâu tiền cho mỗi khu vực.

Tuy nhiên sau vài năm, áp lực đối với người Việt Cơ Đốc giáo có vẻ như đã được làm dịu bớt cho dù các vấn đề vẫn còn tồn tạị. Tháng 4 năm 1800, Pierre Eyot kể lại rằng: “sự thực là người Cơ Đốc giáo ít bị quấy rối hơn lúc bắt đầu sự ngược đãi tôn giáo". Nhưng mà ngay vào cùng năm đó, những gián điệp bị bắt gần Phú Xuân khai rằng họ được chúa Nguyễn cử đi thuyết phục những người châu Âu sống dưới sự kiểm soát của nhà Tây Sơn hãy dời đến lãnh thổ của chúa Nguyễn. Cuối cùng thì lời khai của họ được cho là không thật và sự ngờ vực đối với người châu Âu được khơi lại. Ấy thế mà tình hình vẫn ổn định khi các giáo sĩ và giáo dân Cơ Đốc giáo cảm thấy ít bị áp lực hơn, có lẽ do sự căng thẳng về mối đe dọa của quân nhà Nguyễn đang gia tăng. Chính quyền nhà Tây Sơn lúc bấy giờ đang phấn đấu để tồn tại và không còn lo lắng đến việc sử dụng các phương kế để lùng bắt các giáo sĩ phương Tây hay những môn đồ của họ.

Mùa hè năm 1802, Nguyễn Ánh và lực lượng của ông tiến vào Thăng Long, đạt chiến thắng cuối cùng trước nhà Tây Sơn. Một thời kỳ xáo trộn đã kết thúc trong xã hội Việt Nam, song đối với người Cơ Đốc giáo Việt Nam, năm 1802 không đánh dấu một bước ngoặt. Cuộc sống của họ vẫn còn bất định. Mặc dù tân vương nhà Nguyễn mắc nợ các giáo sĩ Pháp trong quá trình diễn ra các chiến dịch của ông, việc ông lên ngôi không đánh dấu sự chiến thắng của tự do tôn giáo, mà đúng hơn là một chương khác trong sự căng thẳng giữa một quốc gia hầu như đang theo Khổng giáo với một tín ngưỡng phi chính thống.

IV.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ TÂY SƠN VÀ NHỮNG BỘ TỘC KHÔNG PHẢI NGƯỜI KINH

Ở Chương II, tôi đã khảo sát một vài phương cách mà các lãnh tụ Tây Sơn đã sử dụng để thiết lập mối quan hệ với nhiều bộ tộc như một phương tiện để hợp pháp hóa các yêu sách chính trị của họ. Những mối quan hệ này tiếp tục quan trọng xuyên suốt những năm tháng của phong trào Tây Sơn, không những vì tính biểu tượng của chúng, mà còn vì những giá trị riêng biệt của chúng nữa. Trong lúc quân đội Tây Sơn từ vùng cao đi xuống vào năm 1773 để chiếm lấy Qui Nhơn, vùng cao còn là trung tâm điểm của cuộc xung đột giữa họ với quân Nguyễn trong 30 năm sau đó. Quân đội của hai bên đi xuyên qua vùng cao trong chiến dịch của họ và khu vực cao nguyên được sử dụng như một đường dẫn quan trọng cần cho sự di chuyển các lực lượng đi dọc theo hay đi xuyên biên giới với các nước láng giềng. Kết quả là cả hai bên đều tìm cách phát triển mối liên kết với thành viên những bộ tộc ở các vùng này, trong lúc họ vẫn tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc khác như người Chăm, người Hoa, và người Khmer ở các khu vực đồng bằng duyên hải.

Thành phần “sắc tộc không phải người Kinh” là điều cần được bàn lại, phần vì nó xác định những nhóm người bị phủ nhận, phần vì nó gợi lên một sự gắn kết không tồn tại trong những nhóm người này. Tuy nhiên, theo những nguồn tài liệu đương thời, thành phần đó có một giá trị nhất định, xét về ý nghĩa của sự chia cách giữa những nhóm sắc tộc tự xác định hay được xác định trong thời kỳ Tây Sơn. Tôi sẽ sử dụng những từ theo tập quán dành cho những nhóm sắc tộc này, những từ thường gợi lên đặc tính phổ biến kết hợp với những ranh giới quốc gia rõ rệt, vốn là sản phẩm của sự can thiệp thuộc địa do người châu Âu thực hiện vào thế kỷ XIX*. Vì thế, khi tôi nói đến người “Khmer” và khi tôi sử dụng từ “Trung Hoa”, tôi không gợi ra những đặc tính quốc gia đương thời, mà là muốn đề cập đến sự phân loại (dù có dịch ra như thế nào) phản ánh cách xếp đặt vào các thế kỷ XVIII và XIX. Điểm cơ bản mà tôi muốn nêu ra trong cuộc thảo luận là những người tham gia vào các biến động ở thời kỳ này và những người ghi nhận chúng về sau có sự nhận thức khác nhau về ý nghĩa của chúng về mặt văn hóa hay ngôn ngữ học. Trong khi nét đặc trưng của những sự khác biệt này có thể thay đổi, và cái cách phân loại của chúng ta có thể chồng chéo với nhau, theo tôi, có một nhận thức về sự khác biệt được công nhận phù hợp với những động lục về chính trị và quân sự vào thời kỳ này. Tuy nhiên, cũng thật có ích khi chúng ta ghi nhớ những nhận định của Li Tana, rằng “một quan niệm được xác định rõ về sắc tộc trong khuôn khổ tác phẩm Water Prontier... là mọi sự phân loại nên được xem là sự ướm thử, hay thay đổi, thậm chí chỉ có tính cách tạm thời”.

Có ba nhóm sắc tộc quan trọng không phải là nguôi Kinh ở đồng bằng, chúng cũng được xác định rõ trong các nguồn tài liệu đương thời. Nhóm đầu tiên là những người Hoa, được triều đình Đại Việt và các sử gia công nhận như một thành phần riêng biệt, cho dù trong nhóm này có những nhóm nhỏ phản ánh các cộng đồng riêng, các nhóm ngôn ngữ khác nhau hoặc những vùng miền ở Trung Quốc, nơi xuất thân của họ*. Điều hiển nhiên nhất là người Hoa đã được chọn để liệt kê như một thành phần riêng biệt trong dân số (Đại Việt và Việt Nam) các thế kỷ XVIII và XIX. Nhóm thứ hai gồm những người Chăm cư trú ở đồng bằng, khác với những người Việt định cư ở vùng phía nam; họ được phân biệt bởi các hoạt động văn hóa và cách hành đạo cũng như mối quan hệ về chính trị với vương quốc Chăm còn tồn tại lúc bấy giờ. Cuối cùng, và ít đáng chú ý hơn một chút trong cuộc xung đột của nhà Tây Sơn là người Khmer, hình thành một nhóm người quan trọng ở cực nam, vùng châu thổ sông Cửu Long, và sâu vào bên trong, đến biên giới Chân Lạp.

Nhóm thứ tư không phải người Kinh mà tôi muốn nói đến, dù ngắn ngủi, là thành phần đông đúc sống trên vùng cao nguyên, ngày nay là nam trung phần Việt Nam, đôi khi được xếp vào thành phần “dân cao nguyên” hay “dân vùng cao”. Đây là một nhóm mà tính đặc trưng xuất phát từ vị trí địa lý cũng như từ những khác biệt cụ thể về văn hóa và xã hội. Cả những người quan sát Việt và châu Âu vào thời kỳ này gọi họ là man hay mọi, một từ phản ánh cảm nghĩ tự mãn, sẻ chia về tính ưu việt về văn hóa. Mặc dù thành phần sắc tộc này tương đối khó phân biệt, bao gồm nhiều tộc người, nhiều ngôn ngữ, tập quán văn hóa, song có một cảm thức rõ ràng rằng họ là một tộc người đặc biệt, tách biệt với người Việt ở đồng bằng, phân biệt bởi đời sống kinh tế, ngôn ngữ và y phục của họ. Những tài liệu còn lưu giữ ít khi mở ra các cuộc thảo luận về những nhóm người ở bên ngoài thành phần “người vùng cao” khoáng đạt và vì thế, tài liệu của tôi về những người này sẽ tương đối khó phân biệt, ngay khi cần phải nói rõ rằng thành viên của những nhóm này tự thấy họ khác biệt với nhau, cũng như với những cư dân sống ở đồng bằng.

IV.2.1 Người Hoa ở Đàng Trong

Nhóm sắc tộc nổi trội nhất bị lối cuốn vào cuộc chiến của nhà Tây Sơn là người Trung Hoa ở Đàng Trong, với nhân số vào cuối thế kỷ XVIII khoảng 30.000 người*. Trong sử biên niên Việt Nam hiện nay, người Hoa ở Đại Việt được phân biệt bởi khoảng thời gian họ đi đến vương quốc này. Người minh hương là những người đến vào cuối thế kỷ XVII hay đầu thế kỷ XVIII, nhiều người trong số họ trung thành với nhà Minh đã bị truất ngôi, trong khi thanh nhân là thần dân của nhà Thanh, phần lớn đến Đại Việt vào giữa hoặc nửa sau thế kỷ XVIII*.

Những người trung thành với nhà Minh, nhiều người là binh lính, bỏ những đồn lũy cuối cùng của triều đại này ở phía nam Trung Quốc và đi theo đường bể dọc theo duyên hải Đại Việt, đến Đà Nẵng năm 1679. Các chúa Nguyễn chính thức cho phép họ cư ngụ ở vùng duyên hải Đàng Trong và sau đó, nhiều khu vực cư trú của họ hình thành ở nhiều nơi khác nhau trong vương quốc*. Quyết định của các chúa Nguyễn cho phép đạo quân đông đảo đó cư trú trên lãnh thổ của họ xuất phát chủ yếu từ sự kiện những người Hoa tị nạn này cần ích cho việc định cư ở những nơi vẫn còn thưa dân và trong nhiều trường hợp, những nơi này được triều đình Phú Xuân kiểm soát khá lỏng lẻo. Nhiều người tị nạn trong số này cư trú bên trong hoặc chung quanh trung tâm thương mại Hội An, trong khi những người khác đi xa hơn về phía nam, cư trú ở vùng Biên Hòa thưa thớt dân cư, hoặc ở Mỹ Tho, trong vùng châu thổ sông Cửu Long; một số ít thành lập một cộng đồng ở cảng cá Hà Tiên xa xôi, nằm trong một vùng có sự tranh chấp ở biên giới Đại Việt-Chân Lạp.

Một nhóm người Hoa thứ hai gọi là thanh nhân di cư vào lãnh thổ Đại Việt chậm hơn một chút, và vì nhiều lý do khác nhau. Nhóm này đến Đại Việt tham gia vào việc buôn bán dọc theo vùng duyên hải giữa miền Nam Trung Hoa và Đàng Trong, một nền thương mại phát triển nhanh chóng vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, phần do nhà Thanh giảm nhẹ những hạn chế trong việc cho thần dân của họ tham gia vào việc buôn bán trên biển. Nhiều người đến sau định cư ở Hội An, nhưng họ cũng tản ra đến những cộng đồng khác sống dọc theo vùng duyên hải miền Trung. Không như những nhóm người Hoa định cư trước đã bắt đầu quen với chỗ cư trú mới và hợp nhất với nhau trong xã hội Việt, những người đến sau nay vẫn còn kết nối chặt chẽ với gốc gác của họ ở Hoa Nam thông qua hoạt động thương mại thường xuyên và sự tiếp xúc với các phe phái và hội kín.

Trong lúc thời điểm tái định cư là đặc điểm nổi bật của người Hoa ở Đại Việt, thì có một nét độc đáo và nhiều ý nghĩa hơn, đó là nơi xuất phát của họ bên trong đế quốc Trung Hoa rộng lớn. Nét độc đáo này có lẽ hơn cả thời điểm tái định cư, sẽ là những gì phân biệt các tộc người Hoa với nhau trên lãnh thổ Đại Việt. Người Hoa tị nạn trên lãnh thổ Đại Việt đến chủ yếu từ vùng duyên hải Trung Hoa, song ở bên trong khu vực này có nhiều tỉnh, người dân nói nhiều ngôn ngữ khác nhau và mang theo các nền tảng xã hội và lịch sử đặc biệt của họ. Bên trong Đại Việt, những người này có khuynh hướng quần tụ với nhau theo nguồn gốc xuất phát có liên hệ trực tiếp với một ngôn ngữ mà họ chia sẻ cùng nhau*. Vì thế, người Hoa sống ở Đại Việt được nhận biết sự khác biệt rõ rệt bên trong các cộng đồng và giữa các cộng đồng với nhau, những khác biệt phản ánh các nguồn gốc xuất phát khác nhau và những trải nghiệm về di trú trong lịch sử.

Do có nhiều hình thức khác biệt nhau trong cộng đồng người Hoa ở Đại Việt, cố nhiên là sẽ có một sự đon giản hóa đáng kể khi nói đến "tộc Trung Hoa" dưới hình thức tập thể như tôi đang làm ở đây. Việc tôi quyết định sử dụng hình thức tập thể này là một vấn đề có tính thiết thực, mặc dù nó được biện minh ở một mức độ nào đó bởi sự ràng buộc của thành viên người Hoa trong thế giới thương mại cùng những mối quan hệ với một khu vực buôn bán dọc ven biển rộng lớn hơn. Điều này cũng xuất phát từ sự kiện là các nguồn tư liệu hiếm khi phân biệt một cách đầy đủ những thành viên khác nhau trong một thành phần rộng lớn hơn. Tuy nhiên, tôi nhận thấy rằng bên dưới bề mặt của ký hiệu ngôn ngữ chưa hoàn chỉnh “tộc người Hoa” là những khác biệt rộng lớn và rõ ràng. Nó cần được ghi nhớ suốt cuộc thảo luận dưới đây, cho dù tôi tiếp tục tin rằng từ chung ấy có một sự hữu dụng nhất định phản ánh ý thức về sự khác biệt của điều mà người Đàng Trong vào thế kỷ XVIII nhận thấy hoàn toàn.

IV.2.2. Nhà Tây Sơn và cộng đồng người Hoa

Cho dù không thể tìm ra động cơ chính xác của việc thương nhân người Hoa ủng hộ cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, chúng ta biết rằng những thành viên của nhóm này cung ứng cả tiền bạc lẫn nhân lực cho phong trào Tây Sơn trong những năm đầu tiên. Động cơ chính có thể là kinh tế - hi vọng có được những cơ hội buôn bán tốt hơn và thuế má nhẹ hơn đánh trên hàng nhập khẩu - song cũng có thể có cả những cân nhắc về chính trị. Thư của một giáo sĩ đã viết rằng “ở xứ Chăm (Quảng Nam), những kẻ nổi loạn đạt đến thỏa thuận với người Hoa, hứa hẹn rằng nếu họ ủng hộ việc làm của nhà Tây Sơn để giải thoát người dân khỏi chế độ bạo ngược mà họ đang phải chịu đựng vào lúc đó, thì Tây Sơn sẽ cử một trong những quan lại của họ làm vua xứ Đàng Trong"*. Hoàn toàn không chắc rằng nhà Tây Sơn dự tính nhân nhượng như thế lúc bấy giờ, nhưng họ có thể sử dụng lời hứa như một chiến thuật tuyển mộ. Dù với động cơ nào, các thương nhân người Hoa cũng đã thiết lập mối quan hệ trọng yếu với các lãnh tụ Tây Sơn và các chiến binh người Hoa giữ vai trò công cụ, và có thể nổi trội trong bốn năm đầu tiên của phong trào.

Sự đóng góp chủ yếu của người Hoa là dưới dạng nhân lực, với những đạo quân người Hoa làm gia tăng mạnh mẽ tầm cỡ lực lượng quân sự do nhà Tây Sơn tuyển chọn. Số lính người Hoa chiến đấu trong hàng ngũ Tây Sơn nhiều đến nỗi vào năm 1775, một quan sát viên người châu Âu đã viết rằng đa số lính của quân nổi dậy là người Hoa. Các đạo quân người Hoa được lãnh đạo bởi hai người nổi tiếng nhất đã ủng hộ nhà Tây Sơn từ sớm là Tập Đình và Lý Tài, vốn là hai thương nhân ở Hội An. Khi họ tham gia vào phong trào Tây Sơn vào năm 1773, mỗi người mang theo họ một đạo quân gồm toàn người Hoa*. Đạo quân của Tập Đình tự đặt tên là Trung Nghĩa quân, còn đạo quân của Lý Tài là Hòa Nghĩa quân. Có thể rằng những đạo quân này được hai thương nhân trên huy động bằng cách sử dụng các mối quan hệ với hội kín hoặc với các phường hội mua bán. Vào cuối thế kỷ XVII, các hội kín nổi lên ở miền Nam Trung Hoa như những thế lực thương mại và chính trị quan trọng. Engelbert cho rằng những nhóm này được tổ chức theo ngôn ngữ và đã có mặt ở Hội An vào cùng thời điểm đó. Vào giữa thế kỷ XVIII, các tổ chức theo kiểu này đã hình thành tại nhiều nơi ở Đông Nam Á và vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi tìm thấy những “người anh em” người Hoa xuất hiện ở Đại Việt vài thập niên sau*. Ngoài ra, chúng ta còn biết rằng người Hoa định cư ở Đại Việt và nhiều nơi khác ở Đông Nam Á thường sống theo gia đình hay bang nhóm, các cơ cấu trung tâm của các tổ chức hội kín. Đáng tiếc là có ít chứng cứ về tính cách của những đạo quân này, hay thành phần của chúng, vì thế chỉ có thể ước đoán khả năng liên kết của chúng với các hội kín hay các tổ chức tiền thân khác. Mặc dù chúng ta không biết nhiều về cấu trúc hay thành phần của chúng, song rõ ràng rằng những đạo quân này có thể được xác minh là thành phần mạnh mẽ nhất của quân Tây Sơn trong hai năm đầu của cuộc nổi dậy.

Ngay khi một số người Hoa tiến lên phía trước để hỗ trợ nhà Tây Sơn trong những ngày đầu tiên của phong trào, những người khác ủng hộ lực lượng đối nghịch của nhà Tây Sơn. Chẳng hạn như đến cuối năm 1775, một thương nhân người Hoa họ Tất đã tài trợ cho một cuộc nổi dậy do hai thành viên của dòng họ chúa Nguyễn là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân lãnh đạo. Hai người này đã xây dựng lực lượng ở Quảng Nam và nhanh chóng chiếm lấy hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn. Tình trạng các phe phái quân sự tranh chấp với nhau sớm gây được sự chú ý của anh em nhà Tây Sơn và Nguyễn Nhạc đã dành hai tháng chiến đấu với những đạo quân này và cuối cùng thắng thế khi quân của Quyền và Xuân cạn hết đồ tiếp tế. Gần như cùng lúc đó, một người Hoa khác là Đỗ Thanh Nhân, đi theo chúa Nguyễn đang lẩn tránh và tiến về Gia Định, tại đây, ông nhanh chóng tuyển mộ một đạo quân hơn 3.000 người để chiến đấu cho chúa. Nhân gọi đạo quân của ông là Đông Sơn như một thách thức trực tiếp với những kẻ nổi dậy ở ấp Tây Sơn*. Quân Đông Sơn còn là một đạo quân độc lập đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Đỗ Thanh Nhân, nhưng nó tỏ ra quan trọng đối với sự tồn tại của quân Nguyễn vào những năm cuối thập niên 1770. Những trường hợp như thế cho thấy rõ rằng việc thừa nhận sự ủng hộ bất biến mà các thương nhân người Hoa ở dọc theo vùng duyên hải đã dành cho chúa Nguyễn là không đúng chỗ. Sự phân hóa như thế trong một cộng đồng với thành phần không ổn định hầu như là một điều khá bất ngờ. Thật vậy, đặc biệt vào những năm đầu tiên của phong trào, ngay cả những thương nhân đang tìm kiếm sự đổi thay về chính trị và kinh tế cũng không nhất thiết nhìn thấy nhà Tây Sơn như là tác nhân duy nhất của sự thay đổi này.

Trong khi đó, cũng vào năm 1775, liên minh vừa được thiết lập giữa Nguyễn Nhạc với Tập Đình và Lý Tài cũng bắt đầu rạn nứt. Lý do chính của điều này hình như là sự đặc biệt tàn bạo của các đạo quân người Hoa đã khiến cho những người dân mà nhà Tây Sơn đang tìm cách tuyển mộ trở nên xa lánh họ. Theo một số tài liệu, các đạo quân của Tập Đình và Lý Tài quấy rối người dân và gạ gẫm đàn bà, con gái. Trong một bức thư viết vào năm 1775, giáo sĩ Pierre-Jacques Halbout viết rằng “những kẻ nổi loạn... phần lớn là người Hoa và đã phạm vào hàng ngàn chuyện kinh tởm, chẳng hạn như ăn thịt người, cho rằng món đó ngon hơn các thứ thịt khác”*. Thư của một giáo sĩ Tây Ban Nha cùng thời kỳ này miêu tả các đạo quân người Hoa đã có những hành động tàn bạo tệ hại hơn cả quân Tây Sơn và quân của đối phương gộp lại*. Trên thực tế, trong những ngày đầu tiên của liên minh giữa Tây Sơn với quân Trịnh, vị chỉ huy phía bắc đã gửi một thư cho Nguyễn Nhạc đặc biệt yêu cầu Nhạc tìm cách bắt giữ hay sát hại hai tên Tập Đình và Lý Tài “gian ác”, nhắc nhở rằng tiếng đồn về những việc làm quá đáng của họ đã đến tai chúa Trịnh. Không rõ liệu những việc làm xấu xa hoặc tham vọng chính trị và quân sự có khiến cho những viên chỉ huy người Hoa xa lánh Nhạc hay không, nhưng vào một thời điểm của năm 1775, Nhạc và Lý Tài cùng âm mưu giết Tập Đình. Khi tin tức đến tai Tập Đình, ông ta chạy về Hoa Nam, tại đây, về sau, ông ta bị sát hại trong một cuộc nổi dậy khác. Một thời gian ngắn sau, đến phiên Lý Tài, có lẽ nhìn thấy cơ hội tốt hơn với chúa Nguyễn, hoặc không yên tâm về mối quan hệ giữa ông ta với Nguyễn Nhạc, đã chạy về phía nam, kết hợp với kẻ thù trước đây của ông ta. Với đạo quân hùng mạnh của mình, trong nhiều năm liền, ông ta chi phối việc bổ nhiệm các chức vụ quan trọng ở Đồng Nai trước khi bị sát hại vào năm 1777 trong một trận đánh có tính phe phái với một đạo quân khác cũng theo chúa Nguyễn*.

Ngay khi mối quan hệ của các lãnh tụ Tây Sơn với các thương nhân người Hoa như Tập Đình và Lý Tài suy sụp, những căng thẳng khác với cộng đồng người Hoa cũng bắt đầu phát triển. Có vẻ như những căng thẳng đó phần nào là sự căng thẳng giữa nông thôn và thành thị biểu lộ trong thời kỳ đầu của phong trào Tây Sơn. Quân nổi dậy tấn công các đô thị, nơi phần lớn người Hoa sinh sống, bởi vì họ cho rằng đó là những trung tâm của quyền lực chính trị và kinh tế góp phần tạo nên các vấn đề xảy ra ở nông thôn. Thành thị cũng được nhắm đến do những của cải cất giữ ở đó, những của cải được dùng để xoa dịu quân nổi dậy và những người ủng hộ họ ở nông thôn, cho dù sự cướp phá các đô thị khiến người dân thành thị xa lánh những đạo quân này.

Ngoài ra, quân Tây Sơn không chỉ đơn thuần cướp phá các trung tâm đô thị, mà hình như họ còn tấn công trực tiếp các người Hoa sống ở đó. Người ta kể rằng quân Tây Sơn đã tàn sát những người Hoa sống ở các thành phố cảng duyên hải Đà Nẵng và Hội An vào giữa thập niên 1770, một giáo sĩ Tây Ban Nha đã viết rằng: “một số người Hoa xách gươm chạy, một số khác, trong lúc chạy, đã nhảy xuống dòng sông chảy gần thành phố"*. Năm 1782, khi quân Tây Sơn đi vào Chân Lạp, “họ chạy đi tìm những người Hoa đã trốn khỏi Đàng Trong và tiêu diệt những người này mà không vì lý do gì ngoài lý do họ theo phe chúa Nguyễn" Cuối mùa xuân năm đó, mối quan hệ giữa Tây Sơn và cộng đồng người Hoa sống ở Đàng Trong rơi xuống điểm thấp nhất khi quân nổi dậy tàn sát một khối lượng lớn người Hoa ở Sài Gòn.

Theo nhiều bản tường thuật, quân Tây Sơn cướp bóc và đốt cháy cửa hàng, tàu bè của thương nhân người Hoa và giết những người Hoa sống trong thành phố, với những con số người chết ước tính từ 4.000 đến 20.000*. Bộ Đại Nam thục lục ghi nhận sự kiện này như sau: “Nhạc lập tức sai bắt hết người Thanh hơn một vạn người ở Gia Định, không kể là lính, là dân hay là người buôn bán, đều giết hết mà quăng xác đầy sông. Hơn một tháng trời, không ai dám ăn tôm cá và uống nước sông”, về nhận xét này, Trịnh Hoài Đức bổ sung trong Gia Định thành thông chí: “Tất cả hàng hóa buôn bán như vải muslin, lụa, trà, thuốc, dầu thơm, và giấy bị tịch thu từ nhà của người Hoa, bị vứt hết ra ngoài đường và không ai dám nhặt lên”.

Có một cuộc tranh luận quan trọng về lý do quân Tây Sơn tiến hành cuộc tấn công ghê gớm này và việc cướp bóc tiếp sau đó. Các nguồn tư liệu Việt Nam thế kỷ XIX (trong đó có bộ Đại Nam thực lục) có viết rằng một trong những tướng* thân cận của Nguyễn Nhạc đã bị đạo quân Hòa Nghĩa của Lý Tài sát hại và việc tàn sát người Hoa là hành động trả thù cho cái chết đó. Có thể rằng cuộc tấn công được thúc đẩy bởi lý do tài chánh, một nỗ lực tiêu hủy sự độc quyền thương mại mà người Hoa đã tạo lập ở thành phố này. Ý tưởng cho rằng cuộc tấn công được thúc đẩy bởi động cơ thương mại được nhiều nguồn tài liệu khác tán đồng, chúng ghi rõ chẳng những người Hoa, mà thương nhân Bồ Đào Nha cũng bị sát hại và hàng hóa bị cướp bóc. Việc cướp bóc vật sở hữu trong nhà cửa, tàu thuyền của người Hoa đã chứng minh cho sự giải thích này. Như các tác giả Nguyễn Thế Anh và Choi Byung Wook đã lập luận một cách thuyết phục, có thể mối ác cảm của nhà Tây Sơn đối với cộng đồng người Hoa tăng cao do sự ủng hộ của những người này dành cho chúa Nguyễn. Hành động của nhà Tây Sơn được thúc đẩy bởi sự kết hợp của những yếu tố này, lấy sự trả thù làm cái cớ cho cuộc tấn công. Dù với lý do nào, cuộc thảm sát là một biến động rất ít được các sử gia Việt theo chủ nghĩa Quốc gia hay Mác-xít đề cập đến trong tác phẩm của họ viết về phong trào Tây Sơn, vì điều này làm phức tạp cho việc họ miêu tả nhà Tây Sơn như là những lãnh tụ nhân từ của một phong trào hài hòa về mặt đạo đức.*

Cho dù có những khó khăn trong quan hệ giữa nhà Tây Sơn với người Hoa phản ánh trong vụ thảm sát năm 1782, phong trào này không phải lúc nào cũng tỏ ra thù nghịch với cộng đồng người Hoa, không phải sự căm ghét của Tây Sơn biểu lộ với tất cả người Hoa, Một năm sau vụ thảm sát tại Sài Gòn, các tàu buôn của người Hoa lại cập cảng ở đây để buôn bán. Hơn nữa, binh sĩ người Hoa vẫn tiếp tục hiện diện trong hàng ngũ quân Tây Sơn cho đến năm 1790, và như chúng ta sẽ thấy, nhà Tây Sơn vẫn duy trì quan hệ thân thiện với hải tặc Trung Hoa ở vùng ven biển, vốn là nền tảng của chiến lược quân sự của họ cho đến những ngày cuối cùng của triều đại Tây Sơn. Điều này cho thấy rằng các lãnh tụ Tây Sơn không tiếp tục theo đuổi một chính sách kiên định chống người Hoa và cũng nhấn mạnh quan điểm cho rằng hành động của họ cuối cùng là sự biểu lộ những phản ứng theo thời cơ tùy vào từng hoàn cảnh hơn là sự thực hiện một cách thận trọng một kế hoạch hành động chính trị hay xã hội đặc biệt nào. Thật vậy, trong một nghiên cứu tỉ mỉ về người Hoa ở Đại Việt, Thomas Engelbert đã phát biểu một cách hợp lý rằng nhà Tây Sơn tấn công bất cứ ai mà họ coi là kẻ thù và cuộc thảm sát ở Sài Gòn không tiêu biểu một đường hướng chống người Hoa đặc biệt nào trong phong trào của họ.

Tuy nhiên, vụ tấn công trên phản ánh nỗi khó khăn chung của các lãnh tụ Tây Sơn trong việc nhờ cộng đồng người Hoa ủng hộ cuộc tuyển mộ người ở Đàng Trong. Mặc dù lúc đầu đạo quân nổi dậy có thể tìm được sự ủng hộ của cộng đồng người Hoa sống trong khu vực ven biển Nam-Trung hay miền Trung, họ không thể chuyển sự ủng hộ thành một liên minh thân Tây Sơn hoạt động rộng rãi và lâu bền hơn, trải dài đến những khu vực dân cư sống ở xa hơn về phía nam. Quân Tây Sơn nỗ lực liên tục nhằm thiết lập sự kiểm soát chính trị vững chắc trong khu vực nơi các chúa Nguyễn đã thành lập triều đình lưu vong của họ sau khi buộc phải rời khỏi Phú Xuân vào năm 1774. Trong cuộc chiến sau đó, như chúng ta đã thấy, khu vực phía nam được sang tay liên tục vào khoảng thời gian giữa những năm 1776 và 1787, khi nhà Tây Sơn không bao giờ có thể thiết lập quyền kiểm soát vững chắc của họ trong một thời gian dài. Cho dù bị buộc phải rời bỏ khu vực tranh chấp nhiều lần, quân nhà Nguyễn cũng đạt được nhiều thắng lợi trong việc thu phục lại một vùng Gia Định có giá trị về mặt kinh tế và chiến lược. Hơn thế nữa, họ có thể tổ chức các lực lượng địa phương trong khu vực này - trong đó có những thành viên ưu tú của cộng đồng người Hoa - với hiệu quả lớn lao hơn so với nhà Tây Sơn.

Có nhiều lý do giải thích tại sao chúa Nguyễn có thể tìm được sự ủng hộ kiên định của cộng đồng người Hoa trong lúc nhà Tây Sơn cũng phấn đấu thực hiện điều này. Trước tiên, các chúa Nguyễn đã vào đến vùng Gia Định gần 18 tháng trước khi những đạo quân Tây Sơn đầu tiên đến đây và họ nắm lấy cơ hội quảng bá lời cam kết và tuyên bố về quyền lực của họ. Họ có thể đề cập một cách có hiệu quả đến tính hợp pháp của họ và chứng tỏ một quyền hành được người dân địa phương hưởng ứng. Một lý do giải thích việc nhà Tây Sơn không có khả năng củng cố sự kiểm soát của họ trong vùng này được nêu ra trong một kiến nghị do Trương Văn Hiến, người thầy và người cố vấn cho vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, gửi đến ông ta:

Gia Định ở xa Phú Xuân, nhân dân chưa bị khổ sở về nạn Trương Phúc Loan, nên không căm thù nhà Nguyễn như người miền Trung. Quân ta vào đánh quân nhà Nguyễn, nhân dân miền Nam coi là cuộc tranh giành quyền vị với nhau, chớ không phải để giải phóng họ. Bởi vậy, bên nào mạnh, được thì họ theo, theo trong nhất thời. Rồi ai được, ai thua, họ bàng quan tọa thị. Do đó, quân ta cứ lấy được Gia Định, rồi lại mất... Muốn giữ đất được lâu bền, thì phải làm thế nào chiếm cho được lòng dân, nhất là lòng của kẻ sĩ.

Như tác giả của kiến nghị này nêu rõ, các lãnh tụ Tây Sơn đã không đánh giá đúng mức tình hình trong vùng cùng những gì đã diễn ra dưới nhà Nguyễn, nên hoàn toàn không để tâm đến những gì ở khu vực nam-trung quanh Qui Nhơn. Ngoài ra, điều này cho thấy rõ tình trạng tương đối ngoại cuộc của nhà Tây Sơn ở vùng cực nam, trong khi quân Nguyễn đến từ vùng chiến trận xa hơn, họ tiêu biểu cho một quyền lực chính trị với một độ tín nhiệm vững chắc trong vùng.

Sự thành công của quân nhà Nguyễn trong việc thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với người Hoa ở khu vực Gia Định có lẽ bắt nguồn từ những hoàn cảnh lịch sự. Mối quan hệ của dòng họ Nguyễn với những cộng đồng này đã diễn ra cách đó hơn một thế kỷ, và có thể ở một mức độ nào đó, sự kiện nhà Nguyễn chấp nhận giúp đỡ những người Minh tị nạn đã góp phần vào việc ủng hộ công cuộc chống Tây Sơn. Cuộc thảm sát người Hoa của Tây Sơn tại Gia Định năm 1782, một phần nhằm trừng phạt việc người Hoa ủng hộ nhà Nguyễn, chỉ tổ đẩy người Hoa đi sâu hơn vào quân ngũ nhà Nguyễn. Cuối cùng, sau khi vĩnh viễn chiếm lại Gia Định năm 1788, Nguyễn Ánh tiến thêm những bước hợp nhất người Hoa vào trong cơ cấu chính trị và quân sự của ông, củng cố vững chắc hơn sự ủng hộ ông trong cộng đồng này. Do đó, cho dù nhà Tây Sơn hình như có được sự ủng hộ ngay từ đầu của những thương nhân hoạt động ven biển và những người theo họ, chính nhà Nguyễn mới là những người có thể thiết lập mối quan hệ lâu bền hơn với cộng đồng rất quan trọng này.

Hình 9: Tháp Chăm ở Chà Bàn. Nằm trên một ngọn đồi ngay giữa trung tâm chính trị của nhà Tây Sơn, đây là một trong nhiều những ngọn tháp ở vùng duyên hải nam-trung, nơi khởi đầu cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn.(Ảnh của tác giả.)

IV.2.3. Nhà Tây Sơn và người Chăm

Trong lúc người Hoa là nhóm sắc tộc nổi bật nhất có dính dáng đến cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn, thì những nhóm sắc tộc khác như người Chăm và những người sống ở vùng cao cũng giữ những vai trò quan trọng. Như đã chỉ rõ ở Chương II, các lãnh tụ Tây Sơn đã dựa vào cộng đồng người Chăm trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy, để tìm cả sự ủng hộ về quân sự lẫn sự hỗ trợ trừu tượng hơn về các dấu hiệu và biểu tượng. Việc Tây Sơn dựa vào người Chăm phát xuất từ sự gần nhau giữa nơi nổi dậy với lãnh thổ của các vua Chăm ngày xưa. Ngoài ra, bằng cách xui cho bà công chúa Chăm Thị Hỏa tham gia vào phong trào của họ, các lãnh tụ Tây Sơn có thể đưa một số lượng đáng kể người Chăm vào quân đội của họ. Với người Chăm, nhà Tây Sơn có thể tạo cơ hội cho việc phục hồi một phần sức mạnh chính trị cũ của họ, trong khi với nhà Tây Sơn, người Chăm và các trung tâm chính trị bán tự trị của họ hình thành một vị trí khác của quyền lực chính trị trong cuộc chiến đấu của họ chống lại nhà Nguyễn. Quyết định của Nguyễn Nhạc sử dụng cố đô Vijaya* làm trung tâm chính trị đã phản ánh rõ logic này.

Sự chiếm hữu Vijaya làm kinh đô chính trị cũng như việc Nhạc tịch thu biểu chương của hoàng gia Chăm vào một thời điểm giữa thập niên 1780 cho thấy rằng nhà lãnh đạo Tây Sơn có khuynh hướng lợi dụng người Chăm hơn là phục vụ các lợi ích của họ. Dù vậy, vị vương công Chăm đã bị lãnh đạo cuộc nổi dậy thu lấy biểu chương lại trở thành một liên minh chính trị quan trọng của nhà Tây Sơn. ông ta tham gia cuộc nổi dậy vào khoảng giữa thập niên 1780 và phục vụ cho mục tiêu của nhà Tây Sơn trong gần một thập kỷ, cho đến khi qua đời vào năm 1794. về sau các sử gia chép rằng Chưởng cơ trấn Thuận Thành tên Tá được nhà Nguyễn công nhận như một nhân vật trung tâm quan trọng ở vùng Qui Nhơn, họ liên tục nỗ lực lôi kéo ông ta về phía mình. Sách Đại Nam nhất thống chí mô tả những nỗ lực đó không lâu sau khi Nguyễn Ánh quay về Gia Định: “Năm Mậu Thân (1788), Thế tổ Cao Hoàng đế thu phục Gia Định, nhiều lần dụ bảo, Tá sự tội không dám ra, quân ta đi qua đất ấy nhiều lần bị hại”.

Sự thách thức của Tá có lẽ phản ánh sức mạnh quân sự liên tục của nhà Tây Sơn vào cuối thập niên 1780, đầu thập niên 1790, cho dù các nỗ lực thuyết phục những người Chăm ủng hộ họ cho thấy quyết tâm của họ trong việc đánh phá những liên minh của nhà Tây Sơn.

Khi quyền kiểm soát lãnh thổ của Nguyễn Nhạc suy yếu dần trước sức mạnh ngày càng gia tăng và sự kiểm soát đất đai ngày càng rộng lớn của quân Nguyễn, các lãnh đạo nhà Tây Sơn trì hoãn sự sụp đổ của lãnh thổ Chăm. Năm 1790, có dấu hiệu cho thấy những nhân vật chính trị quan trọng của người Chăm bắt đầu hướng sự ủng hộ của họ vào chúa Nguyễn. Năm 1793, khi quân Nguyễn chiếm lại Bình Thuận, một thị trấn ven biển ở phía nam Nha Trang, một lãnh đạo người Chăm đã dẫn quân của ông ta kết hợp với quân Nguyễn tấn công quân Tây Sơn, để đổi lấy việc chúa Nguyễn công nhận quyền uy của ông ta đối với cư dân Chăm ở địa phương*. Một thư giáo sĩ viết vào năm 1793 đề cập đến tình hình phía nam cũng viết rằng các đạo quân Chăm đã chuyển lòng trung thành của họ sang chúa Nguyễn và đã nổi dậy chống nhà Tây Sơn. Cuối cùng, vương công Chăm tên Tá không chống lại nổi với sự đổi thay này và đã bị một tù trưởng phản bội vào năm 1794, như sách Đại Nam nhất thống chí đã miêu tả:

"Năm Giáp Dần (1794), Tù trưởng Thuận Thành là Nguyễn Văn Hào dẫn đường cho quân đuổi bắt, Tá bị giết. Bèn bỏ hiệu Thuận Thành vương, cho Hào làm Chưởng cơ lãnh Chánh trấn Thuận Thành; Nguyễn Văn Chấn cũng được chức Chưởng cơ làm phó, giao cho chiêu tập nhân dân, hàng năm nộp thuế; lệ vào dinh Bình Thuận”.

Như tài liệu này đã ghi, nhà Tây Sơn đã tương tranh với nhà Nguyễn để tranh thủ lòng trung thành của cộng đồng ngươi Chăm. Nó cũng minh họa sự xung đột về lòng trung thành trong cộng đồng người Chăm rộng lớn. Mặc dù sử nhà Nguyễn mô tả Hào là "tù trưởng”, những chỉ dấu khác cho thấy rằng, cũng như Nguyễn Văn Chấn, ông là một người Chăm (tên Chăm của họ được sử nhà Nguyễn ghi là Thôn ba hú và Bô kha đáo). Cả hai hỗ trợ nhà Nguyễn cũng như nhiều người Chăm khác, tất cả đều được thưởng công bằng việc ban chức tước và giao cho các trọng trách quân sự*.

IV.2.4. Tây Sơn và người Khmer

Một cộng đồng sắc tộc nổi bật khác ở phía nam có liên quan đến cuộc chiến của nhà Tây Sơn là người Khmer. Vùng Gia Định là nơi xung đột nặng nề trong cuộc chiến, đặc biệt vào thập niên 1770 và đầu thập niên 1780, từng là nơi mở rộng của đế quốc Khmer và chỉ đặt dưới sự kiểm soát của nhà Nguyễn vào đầu thế kỷ XVIII. Dù quyền lực chính trị của nhà Nguyễn có mở rộng ở khu vực này, vẫn còn nhiều người Khmer sống ở nhiều nơi trong cùng châu thổ sông Mekong, về hướng lãnh thổ của vương quốc Chân Lạp. Trong thế kỷ XVIII, cả người Khmer sống trên lãnh thổ do người Việt kiểm soát và người Khmer sống trên vương quốc Chân Lạp ngày càng dính líu nhiều vào các vấn đề của người Việt. Sự dính líu này gia tăng trong thời đại Tây Sơn. Vào thập niên 1770 và đầu thập niên 1780, cả quân đội nhà Nguyễn lẫn nhà Tây Sơn đều từng đi vào lãnh thổ Chân Lạp, dính líu vào các cuộc chuyển đổi ngai vàng ở Oudong. Xa hơn nữa, người Khmer ở cả hai vùng biên giới được tuyển mộ vào quân đội của cả hai phía, đôi khi bằng vũ lực. Như học giả Khmer Khin Sok đã kể lại trong một câu chuyện về xứ sở Chân Lạp từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX: “Trong 10 năm - từ năm 1783 đến năm 1794 - Chân Lạp là bãi chiến trường giữa người Xiêm và người Việt; người Khmer bị cả hai bên bắt đi lính và tiếp tục hứng chịu các cuộc tàn sát, hủy hoại và tàn phá”.

Nhà Tây Sơn đã có tham vọng chiếm lãnh thổ Chân Lạp từ ít nhất là vào năm 1778, khi Nguyễn Nhạc giãi bày tham vọng quân sự dài ngày của ông ta với Charles Chapman, trong dịp người Anh này đến thăm kinh đô của nhà Tây Sơn. Vì thế, cuộc xâm lấn Chân Lạp của quân Tây Sơn vào năm 1782 tiêu biểu cho nỗ lực hoàn thành mục tiêu này. Trong lúc quân nổi dậy không thể (hay chọn cách không thể) chiếm giữ một lãnh thổ nào của người Khmer ngay tiếp sau cuộc xâm lấn này, họ đã chấp nhận sự đầu hàng của một số đạo quân Chân Lạp và có thể những lực lượng này đã tham gia vào hàng ngũ Tây Sơn. Cũng có thể rằng nhà Tây Sơn bắt giữ thường dân Khmer để gia tăng quân số của họ, vì con người có giá trị đối với các lãnh đạo Tây Sơn hơn là lãnh thổ Chân Lạp tương đối xa đối với họ. Không lâu sau khi rút khỏi Chân Lạp, anh em Tây Sơn được sự hỗ trợ thêm của một trong những người Khmer đang giành lấy ngai vàng. Ông hoàng này được sử biên niên nhà Nguyễn gọi tên là Tèn, bị buộc phải trốn khỏi kinh đô Chân Lạp ở Oudong, cuối cùng chạy về Gia Định, tại đây ông ta được sự che chở của viên trấn thủ Tây Sơn.

Suốt thời gian còn lại của thập niên 1780, binh lính và các cộng đồng người Khmer tiếp tục về phe của nhà Tây Sơn trong cuộc tranh chấp với nhà Nguyễn. Tuy nhiên, khi Nguyễn Ánh từ Vọng Các (Bangkok) trở về (Gia Định) vào năm 1787, động lực khiến người Khmer dính líu vào cuộc chiến đã thay đổi. Khi quân Nguyễn tiến vào Sài Gòn, Nguyễn Lữ bị buộc phải rút chạy về Qui Nhơn, và điều này đánh dấu sự kết thúc của bất cứ sự tồn tại nào của nhà Tây Sơn tại vùng đất cực nam. Dù vậy, một số ít người Khmer vẫn tiếp tục ủng hộ quân Tây Sơn còn ở lại vùng châu thổ sông Mekong*. Đầu năm 1788, một người Khmer tên ốc Nha Long* tiếp xúc với quân Tây Sơn, mang theo một số ít thuyền. Ông ta chiến-đấu với quân Nguyễn ở Cần Thơ nhưng thua trận. Sách Đại Nam thực lục viết về một người Khmer khác ở vùng sông Mekong là ốc Nha ốc, cũng liên minh với nhà Tây Sơn trong cùng năm 1788. Ông ta được phân nhiệm bảo vệ các vùng chiến thuật Trà Vinh và Mân Thít nằm ở các cửa sông Mekong. Tuy nhiên, sau cái chết của người chỉ huy Tây Sơn của ông ta, Ốc Nha Ốc buộc phải chạy về vùng cần Thơ, nơi cuối cùng ông ta bị bắt và bị giết bởi quân Nguyễn. Cái chết của Ốc đánh dấu sự kết thúc mối quan hệ giữa nhà Tây Sơn với người Khmer tại vùng Gia Định, về sau, nhà Nguyễn tìm cách thiết lập liên minh với người Khmer trong vùng - hoặc ít nhất để đảm bảo rằng họ không tạo ra những vấn đề phải giải quyết trên cơ sở chính trị mới được thiết lập ở Gia Định*.

IV.2.5. Nhà Tây Sơn và các bộ tộc vùng cao

Dân bản địa sống ở các khu vực cao nguyên cũng bị lôi cuốn vào những cuộc chiến của nhà Tây Sơn. Những nhóm này đã có các mối quan hệ lâu dài với người Việt ở đồng bằng, qua hình thức buôn bán thường xuyên và những trận chiến thỉnh thoảng xảy ra. Tần suất của sự tiếp xúc gia tăng vào các thế kỷ XVII và XVIII*. Trong những ngày đầu làm nghề bán trầu cau, Nguyễn Nhạc đã mở rộng mối quan hệ với nhiều nhóm sắc tộc trong vùng cao nguyên ở phía tây ấp Tây Sơn. Khi anh em Tây Sơn thiết lập căn cứ đầu tiên trên cao nguyên An Khê, những mối quan hệ đang tồn tại ấy tỏ ra hữu ích cho việc lôi cuốn người theo và có được tiềm lực kinh tế và quân sự. Với việc sử dụng vùng đó làm căn cứ, lúc ban đầu, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn dựa nhiều vào những nhóm người sống trên vùng cao nguyên.

Không chỉ đơn thuần là sự gần gũi, mà còn có cả sự ác cảm đối với nhà Nguyễn đã khiến người vùng cao ủng hộ nhà Tây Sơn. Như đã đề cập ở Chương I, gánh nặng thuế khóa ngày càng tăng đối với người dân vùng cao là yếu tố quan trọng góp phần vào sự thù nghịch của họ đối với chế độ nhà Nguyễn. Sự căng thẳng này dẫn tới nhiều cuộc nổi dậy và tấn công cộng đồng dân cư vùng đồng bằng bắt đầu vào thập niên 1750. Khi quân Tây Sơn mở chiến dịch chống lại quân Nguyễn, các nhóm người vùng cao thiết lập các liên minh với quân nổi dậy, đặc biệt nhằm đóng góp kinh nghiệm của họ vào việc tấn công các vị trí của quân Nguyễn. Những nhóm người vùng cao, như người Bahnar, là một nhân tố quan trọng của đạo quân Tây Sơn suốt thập niên 1770, một vị trí mà họ không từ bỏ khi anh em Tây Sơn mở cuộc tấn công Đàng Ngoài năm 1786. Bình luận về việc các bộ tộc khác nhau tham gia vào quân nổi dậy khi đạo quân này xâm nhập miền Bắc vào năm đó, một người Pháp cho biết là các bộ tộc đó gồm có “người Mường, người Man-di và những người mọi rợ khác đến từ Cao Miên (Campuchia), Cambien* và Xiêm, V. V... ”*.

Nhận xét này làm lộ rõ tính cách rất pha tạp của quân Tây Sơn và sự hiện diện liên tục của người vùng cao, và qua thời gian, những người này được tiếp cận bởi binh lính đến từ các vùng biên giới của Đại Việt.

Cũng như với người Hoa, quân Tây Sơn không thể coi sự ủng hộ của người vùng cao là lẽ đương nhiên. Thay vào đó, hầu như ngay từ lúc đầu, họ bị buộc phải chiến đấu với quân Nguyễn, và thậm chí với cả những đội quân độc lập hỗ trợ đạo quân này. Mặc dù quân nổi dậy đạt được thành công trong việc tuyển mộ người vùng cao đứng về phía họ trong những năm đầu của cuộc nổi dậy, cuộc tuyển mộ này cũng đứng trước những thách thức khi những đội quân độc lập khác nổi lên trong đám người trên. Đáng lưu ý nhất trong những nhóm này là đội quân do Châu Văn Tiếp* tuyển mộ. Cũng như Nhạc, Tiếp từng là một nhà buôn có mối liên lạc với người vùng cao và theo sách Đại Nam liệt truyện, Tiếp có quen biết với Nhạc trước khi cuộc nổi dậy xảy ra. Tiếp và người anh của ông lợi dụng mối liên hệ có sẵn để tuyển mộ quân gồm những người vùng cao sống bên trong phủ Phú Yên vào những năm đầu của cuộc xung đột với quân Tây Sơn. Đạo quân này lên đến hơn 1.000 binh lính. Như tác giả Choi đã nêu, đạo quân do Châu Văn Tiếp lập nên hoạt động có hiệu quả như một lực lượng độc lập suốt phần lớn thập niên 1770. Xét chung, nó ủng hộ mục tiêu của chúa Nguyễn, nhưng có những thời điểm nó sát cánh cùng quân Tây Sơn vì lý do chiến lược, đặc biệt là trước năm 1776, khi nhà Tây Sơn còn tuyên bố chiến đấu nhân danh nhà Nguyễn. Sự hiện diện của đạo quân người vùng cao của Tiếp cho thấy rõ một điều là mặc dù nhà Tây Sơn có những tiềm năng đáng kể trong việc tuyển mộ những người này do họ căm hận việc nhà Nguyễn xâm phạm quyền tự trị của họ, song sự thù nghịch này không nhất thiết đảm bảo việc họ ủng hộ nhà Tây Sơn.

IV. 3. NHỮNG KẺ LANG THANG, TRỘM CƯỚP VÀ HẢI TẶC TRONG CUỘC NỔI DẬY CỦA NHÀ TÂY SƠN

Chúng tôi bị quấy phá bởi bọn trộm cướp và hải tặc, chúng cướp bóc và tàn phá tất cả. Cái tổng nơi tôi cư ngụ, ở ngõ vào đất Chân Lạp, bị chúng tràn vào quấy phá.

Pierre-Marie Le Labousse*.

Ngay lúc người Việt Cơ Đốc giáo và những nhóm sắc tộc không phải là người Kinh giữ một vai trò quan trọng trong thời kỳ Tây Sơn, những nhóm khác sống bên lề xã hội cũng thế, không ai tạo được nhiều ấn tượng hơn những kẻ lang thang, những băng cướp và đám hải tặc. Mặc dù phần lớn các tài liệu của nhà Tây Sơn không nói tới sự hiện diện và vai trò của những nhân tố như thế, một cuộc khảo sát tỉ mỉ hơn các sử liệu và đặc biệt là các chứng cứ do các nhà quan sát người Âu đưa ra cho thấy rằng các nhóm sống bên lề xã hội này giữ những vai trò quan trọng trong quân đội Tây Sơn. Khi bản thân các nhà lãnh đạo Tây Sơn nuôi khát vọng chính trị vượt lên trên nghề ăn cướp đơn thuần, phong trào của họ thường được mở rộng một cách đột ngột bởi có sự tham gia của các băng cướp. Có vẻ như nhà Tây Sơn đã chấp nhận, và thậm chí có lúc chào đón, sự tham gia của những phần tử ngoài vòng pháp luật như thế, vì gần như lúc nào họ cũng cần bổ sung binh lính. Cho dù việc liên kết với các băng cướp có thể làm tổn hại mối quan hệ giữa họ với giới nông dân, cũng có nhiều trường hợp các lãnh tụ Tây Sơn nhìn thấy lợi ích của những mối quan hệ như thế vượt quá cái giá họ phải trả.

IV.3.1. Chuyện sống lang thang và cướp bóc ở Đại Việt cuối thế kỷ XVIII

Các băng cướp lan rộng vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XVIII có mối liên hệ trực tiếp với hiện tượng “du thủ du thực” - là hành vi của người dân rời xa nông trại và nhà cửa của họ. Nhiều người dân Việt đã ra đi vào thời kỳ này, tẹo nên sự bất an và bất ổn. Hậu quả của nạn đói và việc nhà nước không có khả năng phản ứng một cách thỏa đáng với những cuộc khủng hoảng như thế đã góp phần rất lớn vào vấn đề người dân sống lang thang ở khu vực nông thôn, khích động những cuộc nổi dậy trên diện rộng của người nông dân Đàng Ngoài từ thập niên 1720 đến thập niên 1760. Mặc dù những cuộc nổi dậy này đã bị ngăn chặn vào cuối thập niên 1760, vấn đề sống lang thang của người dân không dễ dàng được giải quyết như thế. Năm 1780, một quan chức khả kính của triều đình là Ngô Thì Sĩ đã tiến hành một cuộc điều tra ở vùng đất phía bắc và vẫn còn nêu lên những vấn đề trên diện rộng. Ông cho biết rằng trong 9.700 ngôi làng ở vùng châu thổ sống Hồng, đã có hơn 1.000 nhà bị bỏ hoang hoặc không thể nộp thuế nổi. Ở Thanh Hóa, trên 20% các ngôi làng cũng ở trong tình trạng trên; ở Nghệ An, tỷ lệ đó là 16%1. Nạn đói nghiêm trọng và lụt lội vào đầu và giữa thập niên 1780 chỉ làm cho vấn đề càng trở nên nghiêm trọng hơn.

Những người thường xuyên di chuyển thường đi ngược lại quyền lợi của một nước sống về nông nghiệp. Những nước này muốn cư dân của họ sống trong làng mạc, nơi họ có thể được đếm số, đánh thuế, là đối tượng của những dự án lao động quốc gia và được giám sát. Một khi người dân rời bỏ làng mạc của họ, họ không còn sản xuất được nữa và đồng thời họ trở thành nguồn nhân lực (nam, đôi khi cả nữ) cho các nhóm, như trộm cướp, hoạt động bên lề xã hội. Vì thế sự lang thang và sự trộm cướp kích động lẫn nhau, tạo ra một vòng quay khiến chính quyền càng ngày càng khó phá vỡ. Như Michael Adas đã nhận xét:

“Mặc dù nhiều băng cướp gồm những tên tội phạm chuyên nghiệp, vài người trong số họ thừa hưởng cách sống từ cha ông họ khi đi buôn bán, một số khác trở thành cướp do muốn thoát khỏi những khó khăn của đời sống nông dân... Ở Java và Miến Điện, cũng như ở Trung Hoa và Đại Việt, sự phát triển của các băng cướp vượt qua giới hạn thông thường là một trong những dấu hiệu chủ yếu về một triều đại lúc suy tàn. Người nông dân lánh nạn hạn hán, đói kém và thuế má nặng nề thường tham gia những băng cướp có tổ chức”.

Tương tự như thế, Masaya Shiraishi đã viết: “sử biên niên của triều đình thường mô tả trong cùng một đoạn cả hai hiện tượng về việc người dân bỏ đi khỏi làng mạc của họ và sự lan tràn của nạn trộm cướp. Việc người dân bỏ đi là hậu quả của nạn nghèo đói chung ở xã hội nông thôn, và cũng đồng thời nó cung ứng một nguồn dự trữ nạn trộm cướp"*. Mặc dù cuộc nghiên cứu của Shiraishi tập trung vào một sự kiện sau thời kỳ Tây Sơn, những trường hợp tương tự vào cuối thế kỷ khá rõ ràng. Có thể tình trạng người dân bỏ đi và xiêu tán còn gay gắt hơn vào thời kỳ trước đó.

Như Shiraishi đã viết, những kè sống ngoài vòng pháp luật và trộm cướp luôn là nét đặc trưng của khung cảnh tiền thực dân ở Đại Việt, và điều không có gì đáng ngạc nhiên là những nhóm như thế sinh sôi nảy nở ở những vùng mà sự kiểm soát của chính quyền yếu kém nhất, trong đó bao gồm khu vực duyên hải nam-trung, nơi nhà Tây Sơn nổi dậy. Giặc cướp là một hiện tượng phức tạp đối với người dân nông thôn. Chúng rõ ràng đã tạo ra một gánh nặng cho những người dân bị cướp bóc, trong khi chúng tiêu biểu cho con đường dẫn đến sự tồn tại về mặt kinh tế cho những người tiến hành các cuộc tấn công. Vì thế, Shiraishi đã lập luận: "Mối quan hệ của dân làng (và đặc biệt hơn nữa là những viên chức ở làng) và các băng cướp, những kẻ trộm cắp, và những kẻ sống lang thang thường mâu thuẫn nhau, cũng như mối quan hệ giữa chúng với chính quyền cũng mâu thuẫn nhau. Trong một số trường hợp, dân làng không tiếp xúc và chống lại các băng cướp, nhưng trong một số trường hợp khác, họ cố gắng thương thảo và sống chung với chúng. Trong cả hai trường hợp trên, họ có cùng một mục tiêu: tự bảo vệ mình và tồn tại trong một xã hội đầy biến động”.

Như thế, đối với một người bình thường, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, và sự rối loạn trật tự mà họ gây ra, có thể tạo ra vừa là một cơ hội lớn, vừa là một tai họa nặng nề. Những ai nhìn thấy đó là cơ hội thường sống trong nguy khốn và coi việc ngả về bọn giặc cướp là cách tương đối dễ, vào một thời kỳ mà trật tự chính thức không theo quy tắc tốt đẹp nào. Tuy nhiên, với những người không bị quyến rũ bởi những cơ hội như thế, sự nổi dậy của nạn trộm cướp có nghĩa là sự gia tăng tương ứng những hiểm nguy của chính họ. Như một giáo sĩ người Âu đã nhận xét ngắn gọn vào năm 1786: “Hai phần ba cư dân của vương quốc đã trở thành giặc cướp và một phần ba còn lại rơi vào nỗi thống khổ lớn lao”.

Giặc cướp đã là mối quan tâm lớn lao trong những năm đầu của nhà Tây Sơn, với những cuộc tấn công vào đầu thập niên 1770 làm cho dân làng và người nông dân giảm sút nghiêm trọng khả năng thực hiện công việc hàng ngày. Ở một vài khu vực giữa Đàng Trong vào thập niên 1770, các cuộc tấn công của giặc cướp, một số tiến hành một cách trơ tráo giữa ban ngày, đã diễn ra thường xuyên đến nỗi người nông dân bị buộc phải bỏ cả việc đồng áng. Viết năm 1775, giáo sĩ Pháp Jean Labartette kể rằng có rất nhiều băng cướp trong khu vực nơi ông ta sinh sống, và “mỗi băng cướp thường có từ 30 đến 40 tên, trong số đó, không một người nào là không sẵn sàng sát hại những người khác”. Cộng đồng cư dân địa phương đôi khi kết hợp lại trong một cuộc đấu tranh chung chống những băng cướp như thế, chúng đang lan tràn không chỉ ở Đàng Trong, mà đặc biệt hơn, còn ở Đàng Ngoài. Một giáo sĩ người Âu mô tả những động lực của cuộc tấn công một ngôi làng của người Cơ Đốc giáo ở phía bắc vào năm 1785:

“Ngày 8 tháng 3, hai trong số những người hầu của ông ta bị bắt cùng với bốn tín đồ Cơ Đốc giáo ở một nơi khác trong huyện của ông; bắt họ là một băng cướp đã đốt cháy nhà thờ, nhà ở của ông và tám ngôi nhà khác; khi những cư dân ở khu này tìm cách bắt giữ được hai trong số những kẻ bất lương trên, hai ngày sau, đồng bọn cướp quay lại với nhân số khoảng 400 người, quyết giải cứu các tù nhân; chúng cướp phá làng mạc, lấy đi gạo, đồ đạc trong nhà, quần áo, súc vật, gia cầm, và nói chung tất cả những gì mà những người dân nghèo này có thể sở hữu”*.

Việc rắc rối này cho thấy rõ về sự tàn phá mà những băng cướp đó có thể gây ra cho các làng mạc và tình trạng bất ổn mà dân làng thường trải qua. Trường hợp này cho thấy rằng chống lại chúng có thể làm cho vấn đề càng trầm trọng thêm.

IV. 3.2. Các băng cướp và chính quyền thời Tây Sơn

Sự nổi dậy của nhiều băng cướp đưa các bộ máy cầm quyền chính trị vào thế tiến thoái lưỡng nan; họ buộc phải tìm những phương tiện hữu hiệu để khắc phục các hậu quả dai dẳng của sự việc này, với những phương sách thường là có giới hạn. Đôi khi chính quyền hành động để tiêu diệt những băng cướp đặc biệt, tùy vào từng trường hợp và những tội ác chúng gây ra. Những lúc khác, và có lẽ thường xuyên hơn, chính quyền chọn cách hợp tác với các băng cướp hay những nhóm nổi loạn thay vì đàn áp chúng. Các chọn lựa này đơn giản hơn, ít tốn kém hơn, và cuối cùng tỏ ra có hiệu quả hơn trong việc kiềm chế, nếu không giải quyết dứt khoát được vấn đề. Cách kết nạp tốt nhất những kẻ sống ngoài vòng pháp luật hay những kẻ nổi loạn thường là tuyển mộ họ vào trong quân đội. Ý tưởng tuyển bọn cướp vào quân ngũ chính qui có một lịch sử lâu dài và có lẽ tồn tại ở bất cứ nơi nào có giặc cướp lan tràn. Như Elizaheth Perry đã chỉ ra trong trường hợp người Hoa: “việc chính quyền tuyển mộ những đầu đảng cướp diễn ra thường xuyên ở Trung Hoa cổ. ‘Bình định' hoàn toàn bằng địa vị chính thức là chiến thuật phổ biến của chính quyền khiến cho không ít các đầu đảng cướp coi cái nghề nghiệp ngoài vòng pháp luật của họ là phương tiện nhanh chóng dẫn đến chốn quan trường”*.

Chúng ta chỉ cần nhìn vào mối quan hệ giữa nhà Trịnh và nhà Tây Sơn để thấy động lực này đã tác động lên mối quan hệ giữa chính quyền và các băng cướp ở Đại Việt như thế nào. Khi quân Trịnh tấn công Đàng Trong lần đầu vào năm 1774, họ đã lấy lý do triệt hạ những kẻ nổi loạn ấp Tây Sơn, và nhắc đến người anh cả Tây Sơn như là “Biện Nhạc ngông cuồng”*. Tuy nhiên, khi tình thế thay đổi, và quân Trịnh bị sa lầy ở phía nam, những tướng cầm quân của họ đã có một cái nhìn khác về tình hình lúc bấy giờ. Các tướng Trịnh quyết định rằng thay vì tiến hành một chiến dịch sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, cần khôn ngoan đạt đến một sự dàn xếp với quân nổi loạn. Vì thế, như chúng ta đã thấy ở Chương II, các quan chức của họ Trịnh đã đi đến một thỏa hiệp với các lãnh tụ Tây Sơn, đồng ý thu nạp họ vào hàng ngũ quân đội Đàng Ngoài, lúc đầu cử Nguyễn Nhạc làm tướng quân, sau đó là quan trấn thủ với tước Quận công. Bằng mưu chước đơn giản đó, quân Tây Sơn đã từ đạo quân nổi loạn ở Đàng Trong chuyển thành một đạo quân Trịnh. Khi trường hợp này được làm lộ rõ, ranh giới giữa kẻ nổi loạn, kẻ cướp và quan chức chính quyền thường rất mỏng manh, được quyết định tùy vào tình thế hơn là chính sách.

Như ví dụ về sự tương tác giữa nhà họ Trịnh và nhà Tây Sơn đã chỉ rõ, việc kết nạp các băng cướp không phải là điều chưa từng được biết đến, và có lẽ cũng không phải ít xảy ra ở Đại Việt. Năm 1783, tức mấy năm sau khi họ Trịnh chuyển quân Tây Sơn từ những kẻ nổi loạn thành đạo quân của triều đình, một giáo sĩ sống trên lãnh thổ của chúa Trịnh đã viết rằng: “tại trấn mà tôi đang ở, nơi có rất đông tín đồ Cơ Đốc giáo, chúng tôi đã được cử đến một viên trấn thủ mới vốn là đầu lãnh bọn cướp, người đã cung hiến một nhóm gồm 500 tên cướp, lấy ra từ những thành phần cặn bã của xã hội, chỉ biết làm mỗi cái việc trộm cướp”.

Trong một trường hợp khác, một giáo sĩ viết rằng một đầu đảng cướp đã tiếp cận với một quan trấn thủ, yêu cầu ban lệnh chính thức bắt giữ một giáo sĩ người Âu đang sống ở địa phương. Khi lệnh chưa ban ra thì sự kiện này cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa viên trấn thủ với đầu đảng cướp. Thật vậy, cùng tài liệu này, bằng những từ ngữ phổ biến hơn, cho rằng: “ở đây ngự trị một lòng tham vô độ làm sản sinh và phát triển không ngừng vô số các băng cướp được khuyến khích bởi sự đảm bảo rằng chúng không bị trừng phạt và thường noi theo gương của những người tự xưng là quan lại”. Hiện tượng này được mô tả trở lại vào năm 1786, trong thời gian quân Tây Sơn tấn công Đàng Ngoài. “Một kẻ phiêu lưu, từng là Vua Trộm cắp, đã được chúa cất nhắc lên hàng quan lại cao cấp, người mà chúa đã cử một người anh (em) của ông sang cùng chỉ huy đạo quân trộm cướp của y, bỗng nhiên biến thành người bảo vệ đất nước”. Kiểu biến hình từ trộm cướp sang “người bảo vệ đất nước” xảy ra rất thường trong thời kỳ Tây Sơn, nêu bật mối quan hệ lâu dài, mâu thuẫn tồn tại giữa nhà nước, làng mạc và giặc cướp ở nông thôn.

Giống như họ Trịnh, thái độ của các lãnh tụ Tây Sơn đối với các băng cướp được dẫn dắt chủ yếu bởi mưu mô thủ đoạn. Trong những ngày đầu của cuộc nổi dậy, họ thường xuyên kêu gọi sự hỗ trợ từ các băng cướp và thiết lập liên minh với những bọn cướp hoạt động trên vùng cao nguyên, về sau này, có lẽ những liên minh như thế đã gợi ý cho một quan sát viên người Âu ám chỉ Nguyễn Nhạc như là “chúa đảng cướp”. Các băng cướp đặc biệt có ích cho nhà Tây Sơn trong những chiến dịch ban đầu của họ nhằm tịch thu tài sản của lớp người ưu tú về kinh tế bao gồm những địa chủ giàu có và không được người dân yêu thích. Trong nhiều trường hợp, những người này là mục tiêu cố hữu của bọn cướp. Một tài liệu có nêu lên rằng khi cuộc nổi dậy mới bắt đầu, Nhạc đã có 23 hay 24 băng cướp được sử dụng như cốt lõi của phong hào, trong khi một tài liệu khác đưa ra tên của hai hùm băng cướp là Nhưng Húy và Tứ Linh, tham gia trong cùng một thời kỳ. Một truyền thuyết dân gian kể rằng viên tướng nổi tiếng của Tây Sơn là Võ Văn Dũng từng là một đầu đảng cướp nổi tiếng, do chính sách tàn bạo của Trương Phúc Loan mà buộc phải bước vào cuộc đời tội phạm trước khi được Nguyễn Huệ tuyển mộ. Mức độ dính líu của các băng cướp vào những năm đầu của cuộc nổi dậy và hành động của quân Tây Sơn khiến các nhà quan sát người Âu ghi chép rằng họ khó mà phân biệt giữa quân Tây Sơn và các báng cướp hoạt động ở Đàng Trong lúc bấy giờ. Có vẻ như người Việt ở nông thôn cũng có những khó khăn tương tự. Người ta kể rằng quân Tây Sơn đã phải “tuyên bố rằng họ không phải là giặc cướp”, ám chi rằng sự xuất hiện hay hành động của họ, hoặc cả hai, thường thì khó phân biệt với hành động của những người được coi là các băng cướp. Những tài liệu sau này viết về các vụ cướp phá của quân Tây Sơn cho thấy rằng sự phân biệt giữa đạo quân Tây Sơn được cho là “công chính” với các đối tác của họ là những băng cướp tỏ ra khá mơ hồ.

Khi quân Tây Sơn di chuyển ra Đàng Ngoài, họ cũng thiết lập mối quan hệ với các băng cướp ở vùng này. Với tính cơ động và tình trạng không chính qui, các băng cướp và những thành phần khác tương tự trong xã hội Đàng Ngoài có vẻ thích hợp hơn những người nông dân chuyên về nông nghiệp trong việc tự nguyện gia nhập vào đạo quân Tây Sơn. Các chiến dịch của nhà Tây Sơn mang đến một cơ hội thu lợi cá nhân, khiến cho các băng cướp trở thành những ứng cử viên lý tưởng của quân đội Tây Sơn. Hơn nữa, do các lãnh tụ Tây Sơn, không kể Nguyễn Hữu Chỉnh, không hiểu biết những thông tin thực tế về khu vực phía bắc, vì thế họ cho là hợp lý khi kết nạp những phần tử sống ngoài vòng pháp luật, do những kẻ này hiểu biết về địa thế và các điều kiện của địa phương. Ngay cả Nguyễn Hữu Chỉnh cũng tuyển mộ một số lượng lớn những kẻ cướp trong quân đội của ông ta. Như một giáo sĩ đã viết về đạo quân của Chỉnh: “đối với một người dân Đàng Trong, đôi khi người ta có thể đếm 20 hay 30 tên cướp ở Đàng Ngoài như thế, chúng không bằng lòng với sự đền bù dành cho chúng, vẫn hành xử theo như tên gọi của chúng, gieo rắc nỗi kinh hoàng cho người dân để cướp lấy nhiều tiền". Những sự liên kết với giặc cướp như thế tỏ ra đặc biệt hữu ích đối với các lãnh tụ Tây Sơn khi họ tiến ra Đàng Ngoài, cho phép họ tiếp xúc với vùng đất có thể khó khăn đối với họ.

Việc các lãnh tụ Tây Sơn thiếu thông tin chung về Đàng Ngoài, và sự ngây thơ của họ về vấn đề giặc cướp ở đây được tiết lộ trong một bản tường thuật ngắn của sách Hoàng Lê nhất thống chí. Theo chuyện kể này, trên đường đi, Nguyễn Nhạc gặp một nhóm người than thở với ông ta là họ mất hết của cải về tay một băng cướp ở Nghệ An dưới sự chỉ huy của một người nổi tiếng tên Chưởng Tiến. Nhạc hỏi họ về địa điểm của bọn cướp rồi cho quân vào rừng tìm chúng. Không bao lâu sau, quân lính Tây Sơn bị nhử vào rừng và bị bọn cướp phục kích, chúng rút kiếm ra và tuyên bố chúng là những người theo Chưởng Tiến. Chúng xông vào tấn công quân Tây Sơn, giết được nhiều người và buộc những người còn lại phải chạy thoát. Nhạc cảm thấy bị đe dọa nghiêm trọng và về sau quân của ông ta rất sợ phải ngủ trong nhà dân, thích chọn ngủ bên ngoài những ruộng lúa hơn. Trải qua một kinh nghiệm như thế, ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi thấy nhà Tây Sơn tìm đồng minh với các trùm băng cướp hơn là có ý định thách thức chúng ngay trên lãnh địa của chúng.

Mặc dù các lãnh tụ Tây Sơn chính thức tuyển mộ các băng cướp vào quân đội của họ, lập liên minh với các nhóm cướp bóc và thậm chí sử dụng cả bọn du côn cho làm quan, các lãnh tụ quân nổi dậy cũng được cảnh báo rằng việc khuyến khích giặc cướp có nguy cơ khiến cho nhiều người dân nông thôn xa lánh họ. Đôi lúc nhà Tây Sơn tìm sự ủng hộ của những người dân thường xuyên sợ hãi các cuộc tấn công của bọn cướp, nhà Tây Sơn từng bước tiêu diệt bọn cướp thay vì tạo sự dễ dàng cho chúng hoạt động. Chẳng hạn như vào năm 1776, Nguyễn Nhạc gửi một thư cho cấp chỉ huy của ông ta là chúa Trịnh, loan báo rằng một trong những ý định của ông ta là tiêu diệt bọn cướp đang hoạt động trong vùng Quảng Ngãi: “Các băng cướp trong vùng đó đã chuyển thành nhiều nhóm. Tất cả những người dân ở ba huyện đó đều bị quấy rối. Khi vừa nghe tin này, tôi lâm thời để quân của mình lại đó để bắt giữ những tên cướp kia, bởi vì tôi mong muốn người dân được sống trong yên bình”. Tất nhiên, khó mà xác định được xem nhà lãnh đạo Tây Sơn có thực sự làm theo sáng kiến này không hoặc là bức thư trên có phản ảnh điều ông ta nghĩ là chúa Trịnh muốn nghe hay không. Với tư cách là một đại diện về quân sự của chúa Trịnh, hầu như chắc chắn là ông ta muốn duy trì hòa bình, trong đó có việc tiến hành những cuộc tấn công để tiêu diệt giặc cướp. Từ đó, chúng ta biết được động lực giữa những người gìn giữ hòa bình và bọn cướp, rất có thể rằng câu trả lời của Nhạc đối với vấn đề cướp bóc đơn giản là kết nạp chúng vào trong quân đội của ông ta.

Mười năm sau, khi quân Tây Sơn di chuyển ra bắc vào năm 1786, các nhà lãnh đạo của họ lại tiêu diệt nạn cướp bóc để đánh bóng danh tiếng là những người bảo vệ trật tự chính trị. Các nhà lãnh đạo Tây Sơn đàn áp giặc cướp, trong đó có việc sử dụng hình thức công lý chiếu lệ và xử tử bọn cướp (hoặc những người đơn giản chỉ bị tố cáo là ăn cướp) cũng như những kẻ bị phát hiện đang quấy rối người dân địa phương. Ấn tín chính thức của các nhà lãnh đạo Tây Sơn phản ánh tính cao thượng trong sứ mạng của họ: phụng thiên phạt tội (tuân theo lệnh trời trừng phạt kẻ có tội). Trong lúc từ “tội phạm" khắc trên ấn có lẽ nhằm ám chỉ trực tiếp chúa Trịnh, cũng có lý khi cho rằng ý niệm này cũng được áp dụng rộng rãi hơn cho những thành phần khác trong xã hội. Một khi Nguyễn Huệ nắm lấy quyền hành với danh nghĩa Hoàng đế Quang Trung, việc phục hồi trật tự xét ra có tính cần kíp hơn bao giờ hết so với việc giải quyết vấn nạn trộm cướp, điều này phản ánh trong một chỉ dụ năm 1789 của ông kêu gọi người dân quay về làng mạc và bắt đầu lại việc cày cấy trên vườn ruộng của họ. Trong một nỗ lực xa hơn nhằm lập lại sự ổn định, vua Quang Trung cũng kêu gọi “mỗi tổng đều có sai một vệ binh đi tuần thám ban đêm, vì thế mà đạo tặc đều yên, cửa làng khỏi phải đóng”.

Tuy nhiên, những chứng cứ còn tồn tại cho thấy rằng các băng cướp thường có thể thoát ra khỏi những định chế tư pháp còn phôi thai do nhà Tây Sơn thiết lập. Trong bất cứ trường hợp nào, có vẻ như nhiều quan lại trong chế độ đó coi các băng cướp là một nguồn lợi tiềm tàng hơn là một tai ách xã hội. Một số người còn thỏa hiệp với bọn cướp, cho phép chúng tự tung tự tác để đổi lấy việc chia chác với quan lại địa phương của cải do chúng cướp được. Những người khác thì bắt giữ bọn cướp, không phải như một toan tính có hệ thống nhằm kiềm chế những hành động quá đáng của chúng, mà đúng hơn như là một cách moi tiền để đổi lại việc thả chúng ra. Như một giáo sĩ đã viết vào cuối thập niên 1790:

Tất cả các quan lại tìm cách làm giàu từ nguồn chi trả của người nghèo. Công lý được bán dựa vào trọng lượng vàng, với cán cân luôn nghiêng về phía những người có nhiều tiền nhất. Xứ sở đầy trộm, cướp và những kẻ lêu lổng, và khi các quan lại có thể bắt giữ chúng, họ luôn luôn nhận tiền để thả chúng, không như những người nghèo bị hình phạt, còn người giàu không sợ bị cướp hay bị sát hại.

Cách hành xử này không phải là không giống cách đã áp dụng với người Cơ Đốc giáo, như chúng ta đã thấy, họ thường bị bắt giữ rồi thả ra để đổi lấy nhiều tiền trả cho quan chức có vấn đề.

IV.3.3. Quan hệ giữa nhà Tây Sơn và hải tặc Trung Hoa

Nhà Tây Sơn dưới triều đại Quang Trung cũng phát triển mối liên minh đáng chú ý với hải tặc Trung Hoa ở vùng biển Đông. Đám cướp biển này hoạt động từ duyên hải miền Trung đến vịnh Bắc phần ngày nay và đến tận tỉnh Chiết Giang, trở thành yếu tố trung tâm trong chiến lược hải quân của Tây Sơn và trong nền kinh tế của chế độ này giữa những năm 1786 và 1802*. Tác phẩm hay của Dian Murray nhan đề Pirates of the South China Coast, 1790-1810 (Hải tặc vùng duyên hải Nam Trung Hoa, 1790-1810) đã mô tả với những chi tiết đáng chú ý cách mà chính quyền của vua Quang Trung đã sử dụng để hợp nhất nhiều nhóm hải tặc trong hàng ngũ quân đội của ông, và sự thảo luận của chính tôi về vấn đề đã được Murray vẽ ra một cách bao quát trong công trình nghiên cứu của bà, trong một phạm vi nhỏ bé hơn tác phẩm của Robert Antony.

Vùng duyên hải được bảo vệ bao quanh vịnh Bắc phần và trải dài từ Quảng Đông và Macao, dọc theo bờ biển của Đại Việt, là khu vực lý tưởng của bọn hải tặc. Quan trọng nhất, đây là vùng có một lượng tàu buôn lớn ra vào - cả tàu của dân địa phương lẫn một số lượng ngày càng nhiều các tàu buôn châu Âu - với tất cả các loại tàu có thể nghĩ ra được. Kế đó, địa thế của vùng này rất thích hợp với bọn hải tặc. Biển nông tương đối yên tĩnh, được che chở bởi một vùng biển sâu hơn nằm bên ngoài thềm lục địa. Cũng có rất nhiều vịnh và đảo nhỏ được sử dụng làm chỗ trú ẩn cho những kẻ tìm cách tránh tiếp xúc với chính quyền và để rút lui nhanh chóng. Thật vậy, những hòn đảo này đôi khi được mệnh danh là "đảo Hải tặc” trên những bản đồ của người châu Âu vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Sau năm 1760, khi triều đình nhà Thanh ra lệnh cho mọi hoạt động thương mại của người châu Âu phải thông qua một cảng duy nhất ở Quảng Đông, cả hai yếu tố này kết hợp với nhau thành một hành lang tập trung các hoạt động thương mại phù hợp với những điều kiện tốt nhất cho bọn hải tặc*. Vì thế, vào thời điểm quân Tây Sơn tiến ra Đàng Ngoài năm 1786, bọn hải tặc đã được tổ chức vững chắc ở vịnh Bắc phần. Hải tặc Trung Hoa lợi dụng sự che chở của vùng duyên hải Đại Việt ở phía nam biên giới với Trung Quốc và sử dụng Giang Bình*, trong trấn An Quang* ngay bên trong biên giới Đại Việt, để làm trung tâm hoạt động của chúng. Nằm trên một con sông cạn lòng và bị chia cắt với bên trong bởi địa thế hiểm trở, Giang Bình là nơi rút lui lý tưởng*.

Vùng duyên hải này, với cư dân sống về nghề biển, rất thích hợp cho việc sản sinh ra những người sẵn sàng chuyển sang làm cướp biển. Đã có sẵn một cộng đồng người rộng lớn hoặc sống trên thuyền hoặc dùng thuyền để kiếm sống, điều đó có nghĩa là việc chuyển sang làm hải tặc - hoặc là một nghề hẳn hoi, hoặc đơn thuần là một phương cách tạm thời để kiếm thêm thu nhập - là khá đơn giản. Áp lực kinh tế ở vùng này khá nặng nề, và nhiều người, trong đó có ngư dân sống bên bờ vực của cái chết. Như Murray đã chỉ rõ: “không thể cất đi gánh nặng tài chánh, các ngư dân thường buộc phải bổ sung thu nhập của họ bằng những hoạt động ngoài lề như buôn bán nhỏ. Và như thế, kết quả một đời sống khốn khổ đến mức đối với nhiều người, một vụ đánh cướp thành công ngoài biển là hi vọng duy nhất để có một đời sống tốt hơn”. Hoặc như vua Quang Trung nêu ra điều này trong tuyên bố đầu tiên nhằm khuyến dụ bọn hải tặc tham gia vào quân đội của ông:

“Các ngươi hàng chục năm nay ẩn hiện nơi góc bể, tụ tập bè đảng, lấy việc cướp bóc để sinh nhai, cũng là có chỗ bất đắc dĩ, hoặc vì đói rét bức bách, hoặc vì bạo ngược xua đuổi, mới đến nương thân nơi sóng gió, không có lối thoát ra”.

Dù cho hoàng đế Tây Sơn có cho rằng nhờ đến hải tặc là sự lựa chọn một phương sách cuối cùng, rõ ràng là đối với vài người, và có lẽ nhiều người, quyết định tham gia vào nghề cướp biển dựa trên tính giáo điều hơn là sự tuyệt vọng. Trong bất cứ trường hợp nào, sự chọn lựa ấy là không thể thay đổi, cũng không thể loại trừ. Các ngư dân có thể và đã chuyển từ đánh bắt cá sang hải tặc cùng một phương cách như những người tương ứng với họ ở nội địa chuyển từ canh tác sang cướp bóc.

Nhà Tây Sơn tuyển mộ giặc cướp theo nhiều cách khác nhau, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Tuyển mộ gián tiếp dưới hình thức ban bố rồi lưu hành những chỉ dụ kêu gọi những người đàn ông tham gia vào sự nghiệp của nhà Tây Sơn. Các chỉ dụ hoàng đế Tây Sơn ban hành do Ngô Thì Nhậm soạn thảo, đầy ắp những lời lẽ hoa mỹ, khoa trương nhằm thỏa mãn tâm tư của giới nho sĩ đang tham gia vào các nỗ lực tuyển mộ này. Vì thế, chỉ dụ đầu tiên trong những chỉ dụ trên bắt đầu*:

“Trẫm nghe nói, gió to không thổi hết buổi sáng, mưa lớn không kéo suốt cả ngày. Đạo của trời là thế. Cho nên người con trai tốt không thể suốt đời làm ác. Người xưa, có kẻ khởi thân là giặc cướp, sau làm nên danh tướng, chẳng qua chỉ vì dám sửa lỗi, dũng cảm làm việc thiện, thấu suốt các lẽ nên bỏ nên theo, biết chọn điều phải mà làm, vì vậy, tên tuổi để lại trong sử sách, công lao được chép ở khoán thư”.

Cố nhiên là nhà Tây Sơn tìm cách tán tỉnh các hải tặc để chúng phục vụ cho chế độ của họ, sử dụng những câu nói của Khổng tử nhằm tha thứ cho các hành động phạm pháp của chúng và gợi ý rằng việc làm của chúng có thể vừa tạo lập cơ hội giở sang một trang mới và làm nên danh tiếng của chúng.

Mối quan tâm của nhà Tây Sơn trong việc tuyển mộ các hải tặc phản ánh trong hai chỉ dụ ban hành sau đó nhằm nỗ lực thu hút nhiều hơn những người như thế*. Như lời kêu gọi đầu tiên, hai chỉ dụ sau này miêu tả sự chọn lựa tham gia vào phong trào Tây Sơn như là cách quay lưng lại với cuộc đời tội lỗi và cướp bóc trong lúc hướng về công việc cao cả của chính quyền. Tuy nhiên, sẽ không chính xác nếu cho rằng tham gia phong trào Tây Sơn là từ bỏ công việc cũ của chúng. Trong lúc các nho sĩ soạn những chỉ dụ nhân danh các nhà lãnh đạo Tây Sơn có thể muốn tin rằng phong trào này đang tìm cách cải sửa những tên cướp biển “lầm lạc”, thì thực tế lại hoàn toàn khác hẳn. Chính xác là các hải tặc được tuyển mộ do kinh nghiệm của chúng, khả năng chúng cung cấp cho chính quyền Tây Sơn những của cải cướp được và kỹ thuật chiến đấu của chúng.

Hiệu quả hơn cách lưu hành các chỉ dụ là sự tuyển mộ trực tiếp các hải tặc thông qua nỗ lực cá nhân của những người đã tham gia vào phong trào Tây Sơn. Nhân vật cốt lõi trong những nỗ lực tuyển mộ cá nhân này là Trần Thiên Bảo, người mà nhà Tây Sơn đã bắt giữ vào năm 1783*. Ông ta được phong chức tổng binh và một người bạn của ông ta là Lương Khuê Hiệp* được phong tước Hiệp Đức hầu. Theo Murray, cả hai chiến đấu trong cuộc tiến công của quân Tây Sơn về phía bắc*, chiếm lấy Phú Xuân và Thăng Long. Và bà đã viết, sau đó, họ trở thành cột trụ trung tâm trong cơ cấu quân sự ở phía bắc của nhà Tây Sơn, đặc biệt sau năm 1788. Sau khi đã phong cho Trần Thiên Bảo tước đức hầu, nhà Tây Sơn ban cho ông ta quyền được tuyển mộ bổ sung các hải tặc nhằm mục đích chung và được phong địa vị cho những lính tân tuyển. Có vẻ như Thiên Bảo làm việc đó với nhiều hứng thú và đem được nhiều tên cướp biển phục vụ cho phong trào Tây Sơn. Đó là những người tìm thấy các việc làm như thế là phương tiện thuận lợi nhất để được bảo vệ trước nguy cơ bị trừng trị bởi triều đình Trung Hoa trong lúc tham gia vào những cuộc cướp bóc có tổ chức nhân danh người Việt, về sau, hải tặc Trung Hoa tham gia vào tất cả những chiến dịch quân sự quan trọng của nhà Tây Sơn vào thập niên 1790, phục vụ chính quyền quân nổi dậy cho đến những ngày cuối cùng.

Phẩm cấp trong quân đội và chức vụ chính trị cao là những mưu chước tuyển mộ đặc biệt đắc dụng, vì họ ban cho cả uy tín lẫn tính hợp pháp. Như Murray đã viết: “việc kết hợp với nhà Tây Sơn mang lại cho những kẻ cầm đầu hải tặc phương tiện để kết nạp thêm những người ngoài vào trong tổ chức của chúng. Thẩm quyền ban hành qui chế phong chức tước được chính quyền công nhận là một công cụ tuyển mộ quan trọng”. Những người từng là cướp biển đơn thuần, không có phẩm cấp hay địa vị nay được công nhận là tướng lĩnh, quan trấn thủ, hầu tước, có người thậm chí còn được phong vương. Một tay cầm đầu hải tặc tên Mạc Quan Phù* được phong tước Đông Hải vương, trong khi một người khác là Ô Thạch Nhị* được phong Bình Ba vương năm 1797. Giữa thập niên 1770, các nhà lãnh đạo Tây Sơn đã triển khai sức mạnh và địa vị từ những chức vụ và cương vị chính thức do chúa Trịnh ban cho, thì các hải tặc Trung Hoa cũng có được tầm cỡ từ những chức vụ mà nhà Tây Sơn ban cho chúng. Sự hợp pháp hóa này quan trọng trong mối quan hệ giữa bọn hải tặc với nhau và với chính quyền Trung Hoa, nhưng nó cũng có ích cho những nhà lãnh đạo Tây Sơn, vì nó đưa ra một sự giải thích về cách hành xử trong mối quan hệ giữa họ với những kẻ ngoài vòng pháp luật này.

Đội thủy quân của hải tặc phục vụ trong quân đội Tây Sơn khá quan trọng, một mặt với Mạc Quan Phù chỉ huy hơn 1.000 người, mặt khác với một người cầm đầu hải tặc là Trịnh Thất*, chỉ huy một lực lượng hơn 200 tàu thuyền. Thủy quân với tầm cỡ đó rất hữu dụng cho nhà Tây Sơn, đảm đương nhiều chức năng cốt yếu cho triều đại Quang Trung. Trước hết, hải tặc giúp ông mở rộng sức mạnh thủy quân, bổ sung khả năng tuần tra vùng duyên hải từ biên giới với Trung Quốc đến vùng cực nam Qui Nhơn*. Quan trọng không kém là việc cấm chỉ những cuộc lưu thông trên biển dưới mọi hình thức di chuyển: đi, đến và chạy dọc theo vùng duyên hải Đại Việt; đối tượng bị cấm bao gồm thương nhân Trung Quốc, quan lại nhà Nguyễn, các giáo sĩ đi từ Macao, cùng các tàu thuyền của người châu Âu thuộc mọi quốc tịch. Thuyền của bọn hải tặc hình thành một lớp bảo vệ an ninh hữu hiệu cho triều đình Tây Sơn. Hải tặc hoàn toàn không thể bắt dừng lại những tàu thuyền đi ra hay đi vào vùng do Tây Sơn kiểm soát, nhưng chúng có thể thu hẹp đường thông thương của những tàu thuyền này.

Những cuộc tuần tra của hải tặc giúp ngăn chặn hoạt động của những kẻ do thám của chúa Nguyễn trong vùng đất do nhà Tây Sơn quản lý, đồng thời ngăn ngừa những người phương Bắc đi về phía nam để gia nhập đạo quân của chúa Nguyễn. Chúng còn giúp nhà Tây Sơn cản trở các hoạt động tiếp tế của người Trung Quốc đi từ các cảng của họ đến Gia Định, tại đây, đồ tiếp tế có thể được sử dụng để hỗ trợ các nỗ lực quân sự của chúa Nguyễn. Những cuộc tuần tra này cũng ngăn trở các hoạt động của người châu Âu - bao gồm cả giáo sĩ và thương nhân - đi vào hay đi ra khỏi Đại Việt. Hạn chế hoạt động của những người này đặc biệt có lại cả hai mặt, do sự hiện diện lúc bấy giờ của các cố vấn người Pháp trong hàng ngũ quân Nguyễn, một sự hiện diện mà phía Tây Sơn không muốn nhìn thấy nó bành trướng thêm, và do mối đe dọa có thể nhận biết được từ các giáo sĩ người Âu là nguồn cung cấp tin tức tiềm tàng cho phía chúa Nguyễn. Nỗ lực quan trọng nhằm ngăn chặn hoạt động của những người này hoặc về hướng Gia Định ở phía nam hoặc về hướng Macao ở phía bắc, nơi tin tức cố thể chuyển cho đại diện của chúa Nguyễn.

Nỗ lực này cũng có những tác động quan trọng bên trong lãnh thổ Đại Việt, do hải tặc tuần tra từ vùng duyên hải vào đến Qui Nhơn khiến cho sự tiếp xúc giữa các vùng miền khác nhau trở nên khó khăn. Điều này đáp ứng được mục tiêu của nhà Tây Sơn, đặc biệt đối với hoạt động của con người hoặc thông tin giữa các lãnh thổ do họ và do chúa Nguyễn kiểm soát.

Được đánh giá cao do khả năng hạn chế các hoạt động của con người, bọn hải tặc cũng có ích về mặt tài chánh cho nhà Tây Sơn. Đổi lại với việc cung cấp cho hải tặc nơi trú ẩn an toàn trong vịnh Bắc phần, nhà Tây Sơn nhận được một tỷ lệ phần trăm những của cải mà tàu thuyền của chúng cướp được, về những của cải được đưa qua vùng biển này, hoạt động tuần tra có lợi rất nhiều cho cả hai phía. Cứ mỗi mùa xuân và mùa hè, các tàu hải tặc bắt đầu mùa cướp bóc, rồi khi mùa thu đến thì chúng quay về nơi trú ẩn an toàn. Murray viết rằng các hải tặc sẽ nộp của cải cướp được cho nhà Tây Sơn (ít nhất về mặt lý thuyết); Tây Sơn lại mang bán chúng ở Đại Việt rồi hoàn từ 20 đến 40% tiền thu được cho hải tặc. Gặp dịp hải tặc tịch thu được toàn bộ tàu, có ít nhất một trường hợp tàu được mang đến Phú Xuân, sử dụng trong đội thủy quân Tây Sơn. Đôi khi các lãnh đạo Tây Sơn ban ra những hướng dẫn đặc biệt cho đồng minh hải tặc của họ, chẳng hạn như yêu cầu chúng mở những chiến dịch cướp bóc trên đất Quảng Đông hay những tỉnh duyên hải khác của Trung Quốc. Trong những trường hợp khác, nhà Tây Sơn cung cấp tàu cho hải tặc và khuyến khích chúng dùng những tàu này để tuyển mộ thêm người vào hàng ngũ của chúng.

Hình 10: cửa sông Hồng dẫn vào kinh thành Thăng Long năm 1771. Bản đồ do Nicholas Beflin vẽ, theo đó sông Hồng chảy từ Vịnh Bắc phần đến kinh đô Thăng Long ở phía bắc, được ghi tên trên bản đồ là Cacho (Kẻ Chợ - ND). Các hải tặc Trung Hoa có thể ẩn lánh trên sông để tránh bị chính quyền nhà Thanh truy bắt.(Sưu tập của tác giả.)

Trong lúc bọn hải tặc được sự bảo trợ của nhà Tây Sơn đôi khi chỉ đơn thuần tịch thu của cải hay đòi tiền chuộc tàu, có những lúc khác chúng bắt cả khách bộ hành, người Việt cũng như người châu Âu. Một người Pháp chỉ được ghi tên là “Savard” bị một tàu hải tặc với thủy thủ đoàn cả người Việt lẫn người Hoa bắt giữ và bị giam giữ nhiều năm sau đó trên một hòn đảo và bị buộc phải làm việc khổ sai trên một tàu hải tặc. Những lúc khác, và có lẽ tùy vào mức độ phản kháng mà chúng đương đầu, bọn hải tặc có thể tàn sát tất cả thủy thủ của những chiếc tàu mà chúng gặp phải. Một giáo sĩ Pháp đã mô tả một cuộc tấn công của hơn mười tàu của bọn hải tặc người Hoa vào một tàu Anh nhỏ, dẫn đến việc bắt giữ và sau đó sát hại tám thủy thủ người Anh. Trong một hoạt động tương tự, cũng có hai người Bồ Đào Nha bị bắt giữ trên một hòn đảo gần đó, nơi có một nhóm nhỏ người Việt theo Cơ Đốc giáo mưu toan cứu họ. Việc cứu người thất bại, do tên đầu đảng cướp không chịu giao lại hai người đàn ông bị bắt, muốn đưa họ tới kinh đô Phú Xuân của nhà Tây Sơn, tất nhiên là với hi vọng được tưởng thưởng vì sự bắt giữ này.

Bọn hải tặc ven biển nôn nóng liên kết với nhà Tây Sơn, bởi vì sự liên kết này giúp chúng không bị các đạo quân Trung Hoa bắt giữ, tương tự việc có dính líu đến nhà Tây Sơn khiến triều đình nhà Thanh phải miễn cưỡng truy bắt hải tặc vì sợ làm mất lòng chính quyền mới của người Việt. Dù có sự miễn cưỡng này, triều đình nhà Thanh vẫn cảm thấy rất bất an trước việc nhà Tây Sơn chứa chấp hải tặc và nhiều lần muốn giải quyết vấn đề này. Tháng 5.1797, một giáo sĩ viết rằng người Trung Hoa đã cử 100 chiếc thuyền với mưu tính tiêu diệt bọn hải tặc ở ven biển được nhà Tây Sơn bảo trợ nhưng bọn chúng dễ dàng tẩu thoát, chạy vào nội địa theo nhiều con sông ở phía bắc Đại Việt. Hai tháng sau, cũng vị giáo sĩ này mô tả đầy đủ hơn các tình tiết của sự kiện cho thấy toan tính tiêu diệt hải tặc của nhà Thanh đã vô hiệu và vai trò của nhà Tây Sơn trong việc cản trở các nỗ lực của chính quyền Trung Hoa:

“Những người Trung Hoa các ông đến cùng với một đội tàu để bắt bọn hải tặc, nhưng tôi tin rằng họ không thể bắt được một lượng tàu hải tặc rất lớn. Các quan lại ở Đàng Ngoài giúp chúng chạy thoát và đánh lừa quan lại nhà Thanh bằng những lời nói xu nịnh, song không cho phép họ đi vào những con sông lớn dẫn đến kinh đô; sau một thời gian chờ xem nhà Tây Sơn có giải giao hải tặc cho họ không, người nhà Thanh rút đi. Về phần bọn hải tặc, chúng phối hợp với nhau, chạy dọc theo bờ biển đến Phú Xuân theo sự triệu tập của vua Quang Trung”.

Trong lúc rõ ràng là phía Đại Việt không bị đe dọa bởi hoạt động của thủy quân Trung Hoa, họ coi trọng mối quan hệ tốt đẹp với triều đình nhà Thanh và muốn tỏ rõ một phong cách hợp tác với nơi này. Vì thế, chính quyền Tây Sơn đã đáp ứng mối quan tâm của người Trung Hoa và thực hiện một vài động tác để chứng tỏ thiện chí bằng cách đàn áp đám hải tặc. Toan tính của phía Việt nhằm tiêu diệt các hoạt động của hải tặc chỉ là vẻ phô trương bề ngoài và không ảnh hưởng bao nhiêu đến hoạt động của những đồng minh của họ. Sau mỗi cuộc "đàn áp” như thế, đám hải tặc lại được tự do hoạt động như cũ. Người Trung Hoa không kiểm soát được tình hình của hải tặc cho đến khi nhà Tây Sơn không còn nắm quyền nữa.*

Năm 1792, sau cái chết của hoàng đế Quang Trung (mà bọn hải tặc gọi là “ông trùm Việt Nam”)*, tình hình chính trị của nhà Tây Sơn bắt đầu kém triển vọng, song hải tặc người Hoa vẫn tiếp tục phục vụ họ một cách năng nổ. Năm 1794, Trần (Thiên Bảo) được phong chức Đô đốc và về mặt lý thuyết, có quyền hành lớn hơn trước. Vài năm sau, năm 1797, những hải tặc phục vụ cho quân đội Tây Sơn được tổ chức một cách có hệ thống hơn, dưới quyền chỉ huy chung của Thiên Bảo. Những đầu lĩnh hải tặc đều được cử làm Ô Tàu Tổng Binh, mỗi người có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp cho Thiên Bảo. Thật vậy, có vẻ như chức vụ tổng binh là sự cử nhiệm đầu tiên dành cho các chỉ huy hải tặc đồng tình liên kết với quân Tây Sơn, trong khi bộ hạ của họ được cử làm thiện tầu.*

Những thuận lợi trong hoạt động phục vụ cho sự nghiệp của nhà Tây Sơn được làm nổi bật thêm bằng những danh hiệu và cơ cấu mới mẻ và đầy vẻ trau chuốt, có nghĩa là các hải tặc người Hoa tiếp tục phục vụ nhà Tây Sơn cho đến những năm cuối cùng của họ. Các tàu hải tặc tham gia trong nhiều chiến dịch thủy quân chống lại lực lượng chúa Nguyễn vào năm 1797, xa về phía nam cho đến Qui Nhơn. Năm 1798, các hải tặc chạm trán với quân chúa Nguyễn ở Khánh Hòa, và rồi năm 1799, chúng tham gia bảo vệ Qui Nhơn, chống lại một cuộc tấn công có tính quyết định của quân nhà Nguyễn. Dù được sự hỗ trợ của hải tặc, quân Tây Sơn cũng thất trận ở đây, “kết hợp với thất bại mới đó ở Khánh Hòa, thực lực của hải tặc suy yếu thấy rõ, dẫn đến nhiều trận thua”. Song dù đối mặt với thất trận, và nhiều cuộc đào ngũ sau này, các hải tặc vẫn tiếp tục chiến đấu cho nhà Tây Sơn cho đến khi chế độ này thực sự kết thúc vào năm 1802. Nhiều tàu hải tặc tham gia vào cuộc phản công của quân Tây Sơn vào năm 1800 và sau đó vây khốn Qui Nhơn; chúng tiếp tục tham gia vào việc bảo vệ giang sơn của nhà Tây Sơn ngay khi quân Nguyễn di chuyển ồ ạt theo vùng ven biển, ngược lên kinh thành Thăng Long. Năm 1802, cho dù Trần Thiên Bảo đã đầu hàng triều đình nhà Thanh một năm trước đó, vẫn có thêm 200 thuyền của hải tặc góp sức cùng quân Tây Sơn bảo vệ vùng ven biển, một nỗ lực cuối cùng cũng không mang lại hiệu quả nào.

IV.4. KẾT LUẬN

Rõ ràng là suốt thời kỳ Tây Sơn, các nhóm người sống bên lề xã hội Đại Việt giữ những vai trò quan trọng, hoặc là ủng hộ các nhóm phản loạn, hoặc là chống lại họ, hoặc là những người bị bắt giữ trong cảnh sống rối loạn chẳng chừa một ai. Những nhóm này bao gồm tín đồ Cơ Đốc giáo, các nhóm sắc tộc không phải người Kinh, bọn trộm cướp, hải tặc và lính đánh thuê. Vài thành phần, như hải tặc người Hoa, là thành phần vô cùng cần thiết trong sức mạnh quân sự của nhà Tây Sơn. Các nhà viết sử hiện đại giải thích phong trào Tây Sơn như một cuộc thập tự chinh theo chủ nghĩa dân tộc qui tụ những người nông dân ưu tú chiến đấu cho sự thống nhất đất nước, hoặc bảo vệ đất nước chống lại ngoại nhân; họ đã viết sai thực tế của thời kỳ này rất nhiều. Nhà Tây Sơn thường sử dụng hoặc liên kết với trộm, cướp, những kẻ lang thang và hải tặc trong một toan tính thực dụng nhằm tăng cường các đạo quân của họ. Thật vậy, sẽ là điều đáng ngạc nhiên khi chúng ta biết họ không lợi dụng cơ hội do những nhóm xã hội như thế dâng hiến. Tất nhiên những mối quan hệ này có cái lợi mà cũng có hại, chẳng những làm lợi cho nhà Tây Sơn, mà còn làm lợi cho cả những người mà họ liên kết. Tính chất phức tạp của những mối quan hệ như thế được gói gọn trong cái biệt hiệu được đặt cho hoàng đế Quang Trung của nhà Tây Sơn là “kẻ phiến loạn bảo vệ cho hải tặc”. Nói cách khác, người lãnh đạo cuộc nổi dậy tự liên kết với hải tặc Trung Hoa, các hải tặc cũng thế, thông qua việc kiểm soát đường biển, chúng bảo vệ vị lãnh tụ Tây Sơn và triều đại của ông.

Trong lúc các nhà viết sử Việt Nam thế kỷ XX thường chỉ trích mạnh mẽ triều Nguyễn vào thế kỷ XIX và những tác phẩm lịch sử khác gọi Tây Sơn là "giặc”, thì những tài liệu cũ hơn đã hoàn toàn chính xác khi mô tả các nhân tố của phong trào, nếu không phải là chính các lãnh tụ của phong trào, theo cách này*. Kết luận rằng trộm cướp và hải tặc giữ vai trò quan trọng trong cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn không nhằm làm mất uy tín các lãnh tụ phong trào, như ý đồ của các sử gia triều Nguyễn, cần trung thực hơn khi miêu tả thành phần phức tạp của cuộc nổi dậy, phản ánh tính không đồng nhất của xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XVIII. Cũng như đối thủ của họ là chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn trước tiên là những kẻ thực dụng, trong việc tuyển mộ quân đội, họ không nghĩ đến nền tảng xã hội, và kinh nghiệm, mà chỉ nghĩ đến những con số tuyệt đối. Đối với người tuyển mộ của nhà Tây Sơn, một kẻ cắp hay cướp biển không phải là một tên tội phạm cần tiêu diệt, mà là một người có kinh nghiệm chiến đấu, có thể tự trang bị vũ khí, sẵn sàng thách thức với nhà cầm quyền. Đó là những điều hữu ích, vào những thời điểm như thế, và vì những lý do đó mà những người như thế (nam và có thể có một số ít nữ) tham gia vào phong trào. Về sau, quân đội Tây Sơn là tinh hoa của khu vực Đông Nam Á với cấu trúc phức tạp của nó, một đặc điểm mà nó chia sẻ cùng với đạo quân kình địch của chúa Nguyễn mà tác giả Alexander Woodside đã mô tả là nó “dựa trên sự chuyển đổi từ những kẻ cướp bóc ở vịnh Xiêm La và biển Đông”.*

KẾT LUẬN

NGOÁI LẠI PHÍA SAU VÀ NHÌN VỀ PHÍA TRƯỚC

* * *

Các động lực của thời đại Tây Sơn vô cùng phức tạp, phản ánh kinh nghiệm địa lý và lịch sử, và người theo chủ nghĩa đặc thù quan tâm đến các lực lượng chính trị và xã hội đang đấu tranh với nhau. Sự tương tác giữa các lãnh tụ quân nổi dậy với nhiều thành phần thường xuyên xung đột với nhau của xã hội Đại Việt thế kỷ XVIII không thích hợp với những giải thích dễ dàng hay giản lược áp dụng cho nhà Tây Sơn. Phong trào này tác động sâu sắc lên sinh hoạt của những người sống trên các vùng đất Đại Việt và quả thật đã vượt ra ngoài ranh giới của chúng. Nó cho thấy những sự phân ly đã phát triển qua nhiều thế kỷ giữa các nhóm kinh tế-xã hội khác nhau và các thực thể địa chính trị riêng rẽ nổi lên từ sau việc họ Mạc cướp ngôi nhà Lê vào đầu thế kỷ XVI. Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn như một sự đề kháng về chính trị và quân sự chống lại cả nhà Lê-Trịnh ở phương Bắc lẫn nhà Nguyễn ở phương Nam đã chia cách xã hội Đại Việt về sau, định hình một số diễn biến chính trị và xã hội thế kỷ XIX.

Nếu những tương tác xã hội phức tạp là tâm điểm của thời kỳ này, sẽ vô cùng khó khăn khi áp dụng một cách gọi đơn giản cho một loạt những sự kiện được phát động bởi cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn. Nó thường được gọi là cuộc nổi dậy của người nông dân, nhưng đó là một cụm từ không chính xác vì những chứng cứ chủ yếu cho thấy những người lãnh đạo của nó không phải là nông dân và rất đông những người ủng hộ ban đầu của nó cũng không phải là những tiểu nông. Hơn nữa, như tôi đã lập luận, chính những người nông dân Việt đã chịu đựng đau khổ gần như tức khắc dưới bàn tay của một chế độ do anh em nhà Tây Sơn thiết lập. Xếp sự kiện này như một phong trào nhân dân cũng còn là chuyện cần phải bàn, vì mặc dù nó bắt nguồn từ một nỗ lực quân sự tập thể, những gì từng là một phong trào (với tính đại chúng cần được bàn lại) đã nhanh chóng trở thành một chính thể, và rồi nhiều chính thể. Năm 1775, Nguyễn Nhạc tự xem mình là một nhà cai trị hơn là người đơn thuần lãnh đạo một “cuộc nổi dậy vì chính nghĩa”, và từ điểm này, sẽ là thiếu khôn ngoan khi nói về các nhà lãnh đạo Tây Sơn và quân đội của họ như một “phong trào”. Nói tóm lại, những sự kiện về thời kỳ Tây Sơn sẽ không dễ được phân loại. Cơ cấu chính trị do các nhà lãnh đạo Tây Sơn huy động hay sử dụng cũng như các mục tiêu của họ tiến triển liên tục. Có điều rõ ràng là nguồn gốc của cuộc nổi dậy nằm trong những thất bại về kinh tế gây ra do nạn tham nhũng trong chính quyền, và việc thực hiện nó được vận dụng bằng sự kết hợp những chính thể đang đứng trước nguy cơ, cùng những kỹ năng về chính trị và quân sự đáng kể của anh em Tây Sơn, và các cố vấn của họ.

Về sau, cái chết của hai anh em có năng lực nhất là Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đã làm cho chính thể nhà Tây Sơn sụp đổ. Động lực mang lại cho họ hàng loạt chiến thắng quân sự đã không còn nữa khi chính thể riêng của họ không thể giải quyết những rắc rối mà họ phải đối mặt. Sự biến vị của cuộc chiến hòa cùng với sự mất mùa và nạn tham nhũng ở Đàng Ngoài đòi hỏi cần có thời gian và lòng kiên trì, mà cả Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đều không có. Thêm vào đó, chính thể của họ đã không được thể chế hóa một cách đầy đủ, cũng không được chấp nhận rộng rãi để đương đầu với thời kỳ chuyển tiếp, tiếp theo cái chết của các lãnh đạo chủ yếu của nhà Tây Sơn. Trong mỗi trường hợp, một vị thái tử trẻ sẽ tiếp bước vua cha với sự hỗ trợ của một quan phụ chánh, người đã gây ra những cuộc đấu tranh trong nội bộ triều đình. Sau cái chết của Huệ và Nhạc, việc cả hai chính thể vẫn tồn tại trong gần một thập kỷ là chứng cứ cho thấy đạo quân ghê gớm mà nhà Tây Sơn đã qui tụ được ít để xảy ra sự chống đối trong nội bộ. Điều đó phần nào cũng do chiến thuật quân sự lệ thuộc vào gió mùa mà đối thủ của họ là chúa Nguyễn Ánh theo đuổi, khiến cho đạo quân của ông chỉ đạt được những bước tiến chậm rãi, nhưng thường là chắc chắn, trong việc thiết lập sự kiểm soát trên những khu vực ngày một rộng lớn hơn của vùng duyên hải phía nam Đại Việt!.

Khi cuối cùng quân Nguyễn Ánh tiến vào Thăng Long vào mùa hè năm 1802, đó là cực điểm của cuộc chiến kéo dài gần một phần tư thế kỷ, để lại những vết thương vật chất và tâm lý trong xã hội Đại Việt. Sau chiến thắng của quân nhà Nguyễn, các nhà lãnh đạo Tây Sơn còn sống sót bị vây ráp, và một số người, trong đó có vua Bảo Hưng* và toàn bộ thành viên gia đình gần gũi nhất của ông ta, cùng nữ tướng lừng danh Bùi Thị Xuân, đều bị xử phân thây. Những người khác, như các đại thần Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích, bị công khai đánh bằng hèo, một hình phạt khiến Nhậm qua đời trong vòng năm đó. Không bằng lòng với việc chỉ trừng phạt những người còn sống, Nguyễn Ánh ra lệnh khai quật hài cốt hai đối thủ lâu năm của ông là Huệ và Nhạc. Kế đó, ông ra lệnh nghiền nát xương cốt của họ thành bột và cho lính đi tiểu vào*. Bằng cách này, Nguyễn Ánh muốn tin chắc rằng thời kỳ của lịch sử Đại Việt được mệnh danh là “thời đại Tây Sơn” đã chấm dứt hoàn toàn.

Chiến thắng cuối cùng của chúa Nguyễn trước kẻ thù lâu năm được coi như đã đánh dấu một chương mới trong lịch sử Việt Nam, sự khởi đầu một triều đại mới (mặc dù tổ tiên của ông đã cai trị một phần đất nước trong tay họ), và một nỗ lực kết nối các xâu chuỗi về địa lý khác biệt nhau tạo nên một vương quốc Việt Nam mới được hợp nhất lại.

Và lúc này, trong lúc với vẻ bề ngoài đang thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo duy nhất, sự chiến thắng của nhà Nguyễn đã không giải quyết được bao nhiêu những xung đột do cuộc nội chiến với nhà Tây Sơn gây ra. Sự bất mãn của giới nông dân kích động cuộc nổi dậy, và chính cuộc nổi dậy làm cho sự bất mãn đó trầm trọng hơn, và nó đã không được chính quyền mới giải quyết một cách thỏa đáng. Có thể sự bất bình của người nông dân mà giáo sĩ Pháp de la Blssachère đã xác định vào đầu thế kỷ XIX đã được nhân rộng trong suốt những thập niên đầu của triều đại nhà Nguyễn. Năm 1802, thời điểm mà nhà Nguyễn nắm lấy quyền hành chính trị từ tay nhà Tây Sơn, phải được coi là việc hình thành một điểm ngắt quãng khá thất thường từ cái nhìn của giới nông dân Đại Việt, vì với họ, điều này cho thấy sự chuyển tiếp giữa các chế độ chẳng có nghĩa lý gì. Tất nhiên là có sự xuống thang trong chiến tranh, nhưng sự lao động nặng nhọc và nhu cầu về quân sự do nhà Tây Sơn áp đặt trong một thời gian dài lại được tiếp tục, và thậm chí còn gia tăng dưới sự cai trị của nhà Nguyễn. Hơn nữa, nhà Nguyễn có thể đánh thuế một cách có hiệu quả hơn những người đi trước họ - và từ cái nhìn của người nông dân, đây là khả năng dẫn đến sự gia tăng tuyệt đối về nhu cầu thuế má*. Người nông dân lớn tiếng kêu ca về tình trạng sưu cao thuế nặng từ những người được xem là cứu tinh của họ, và sự kiện hàng trăm nông dân và những người nổi dậy khác không thừa nhận triều Gia Long - vài trường hợp có đến hàng ngàn người tham gia “cho thấy rằng trong một số lãnh vực, triều đại này còn yếu kém hơn so với những người Tây Sơn đi trước họ.*

Vả lại, không chỉ người nông dân tỏ ra lo ngại với chính quyền mới, mà chính quyền này còn phải đương đầu với những phía khác nữa. Những người trung thành với nhà Tây Sơn tiếp tục tìm cách gây ra sự bất ổn, cho dù nhà Nguyễn có những nỗ lực rất cứng rắn trong việc xóa đi những tàn tích của chính thể Tây Sơn. Nỗ lực của triều đại mới theo hướng này tiếp tục đối mặt với những sự nhắc nhở về nhà Tây Sơn, cả về mặt vật chất lẫn tâm lý. Mặc dù nhà Nguyễn có thể phá vỡ một số kiến trúc do nhà Tây Sơn dựng lên, họ vẫn không thể chấm dứt việc sử dụng đồng tiền do nhà Tây Sơn đã đúc ra. Những đồng tiền đó mang tên của ba anh em nhà Tây Sơn, là sự nhắc nhở bền bỉ về triều đại này ngay sau khi nó đã bị lật đổ. Nỗ lực của nhà Nguyễn nhằm ngưng sử dụng những đồng tiền này khá hạn chế và không hiệu quả, phản ánh qua việc phải chờ đến một chỉ dụ ban hành vào năm 1839 cấm việc lưu hành đồng tiền này, về mặt tâm lý, nhà Nguyễn cũng phải đương đầu với những hồi ức mạnh mẽ về nhà Tây Sơn, cho dù chúng được lãng mạn hóa theo thời gian. Như đã lưu ý ở Chương III, có những dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy rằng mặc dù nhiều nông dân không cảm thấy hạnh phúc do những khó khăn trong đời sống dưới chính quyền Tây Sơn, cũng những người nông dân này cảm thấy bất mãn với nhà Nguyễn, và ít nhất một số người so sánh thấy sự cai trị của nhà Tây Sơn tốt hơn nhà Nguyễn. Sự kiện nhà Tây Sơn và những hồi ức về chế độ này tiếp tục ám ảnh nhà Nguyễn có lẽ thể hiện ở việc họ tiếp tục truy đuổi những thành viên còn sót lại của dòng họ này vào thập niên 1830. Khi hai người con và người cháu còn lại của vua Thái Đức bị truy bắt được, họ bị hành hình ngay tức khắc.

Nhưng không chỉ có di tích của nhà Tây Sơn và những hồi ức về họ làm cho nhà Nguyễn lo lắng. Còn có những thách thức nghiêm trọng hơn xuất phát từ những người tiếp tục chứng tỏ lòng trung thành với nhà Lê, lòng trung thành mà một số ít nho sĩ và nhiều người khác vẫn giữ lấy suốt những năm dưới triều đại Tây Sơn. Nhiều người trong số những nho sĩ trung thành với nhà Lê này hi vọng chúa Nguyễn sẽ phục hồi nhà Lê, hi vọng vào tuyên ngôn được ban bố từ lâu là nhà Nguyễn chiến đấu nhân danh triều đại này. Khi chúa Nguyễn nắm lấy quyền hành bằng chính danh nghĩa của mình sau khi loại bỏ nhà Tây Sơn vào năm 1802, những người đặt hi vọng vào nhà Nguyễn cảm thấy bị phản bội. Một số nổi lên làm loạn, từng thời kỳ trong suốt nhiều thập niên đầu của thế kỷ XIX, một số cuộc nổi dậy có thể được xác định là hoặc phát sinh bên trong hàng ngũ những người trung thành với nhà Lê, hoặc được sự ủng hộ của họ. Những nho sĩ khác chọn cách đơn giản là ẩn dật, đã quyết định không phục vụ nhà Tây Sơn, và rồi cũng không muốn ủng hộ nhà Nguyễn mới lên. Những người này về sau còn cảm thấy đau đớn khi Thăng Long đã mất đi quy chế của một kinh đô chính trị và được xếp vào hàng thứ hai khi nhà Nguyễn nâng Phú Xuân lên tầm của một trung tâm quyền uy mới*. Trong lúc đó, Gia Định (Sài Gòn), một trung tâm chính trị và kinh tế tương đối mới, đã trở về với chính mình trong cuộc chiến của nhà Nguyễn chống lại nhà Tây Sơn, càng ngày càng có nhiều ảnh hưởng thách thức ưu thế của hai thành phố khác. Căng thẳng chính trị giữa những trung tâm quyền lực chính trị phức tạp này, ít nhất cũng đã đóng góp một phần vào những chủ nghĩa địa phương khá rõ nét vào những thế kỷ XIX và XX về sau.

Đương đầu với những nguồn đề kháng phức tạp này, triều Nguyễn không bao giờ thành công hoàn toàn trong kế hoạch xây dựng một vương quốc thống nhất và ổn định. Lúc ban đầu, tính chính thống của họ khá mong manh và ngay cả một kế hoạch dài hạn nhằm xây dựng một tính chính thống Nho giáo với vẻ bề ngoài trau chuốt thông qua thi cử, cấu trúc chính quyền, và tất cả các loại sử chép và những bảng phả hệ, cũng chỉ đến mức nào đó thôi Hơn nữa, nhà Nguyễn tự thấy là họ đang làm chủ một lãnh thổ không bao giờ được cai trị như một vương quốc thống nhất. Mặc dù họ Trịnh đã vượt qua giới hạn con sông Gianh vào năm 1774 và sau đó, nhà Tây Sơn kết liễu họ Trịnh vào năm 1786, những hành động đó đều không hợp nhất lãnh thổ Đại Việt một cách có hiệu quả. Thật vậy, việc nhà Tây Sơn chinh phục vùng đất phía bắc cuối cùng cũng chỉ tạo ra một sự phân ly phản ánh cả mưu chước chính trị lẫn thực tế lịch sử. Như thế, nhà Nguyễn thừa hưởng một lãnh thổ vẫn còn sự chia rẽ sâu sắc, một tình trạng mà chính quyền mới mẻ này tìm cách giải quyết thông qua mưu định cai trị hiệu quả một đất nước có ba vùng riêng biệt.

Bản thân các vua nhà Nguyễn cũng chỉ kiểm soát trực tiếp miền Trung, các tướng lãnh cai trị những vùng đất phía bắc và phía nam*. Điều đó hầu như không phải là mẫu hình hợp nhất chính trị và lãnh thổ, và sự phân chia tiếp tục đặt ra nhiều khó khăn cho chính thể mới trong suốt triều đại của vị hoàng đế thứ nhất là vua Gia Long (1802-1820), và hơn một thập niên dưới triều người con và là người kế tục ông là vua Minh Mạng (1820-1841)*.

Những cuộc chiến sau khi nhà Tây Sơn đã bị tiêu diệt diễn ra trong lãnh vực chép sử, trong đó những giải thích đầy tranh cãi về cuộc nổi dậy và những chế độ mà nó dựng lên đã được đề cập đến trong suốt thế kỷ XIX. Nhà Nguyễn tìm cách mô tả nhà Tây Sơn như những kẻ nổi loạn, bọn trộm cướp, không bao giờ có tính chính thống về mặt chính trị, ngay cả khi họ vấp phải một sự thực rắc rối là có không ít những quan chức phục vụ cho triều đại của họ trước đó đã từng trung thành với nhà Tây Sơn. Hơn nữa, trong lúc nhà Nguyễn chỉ thị viết chính sử theo cách của họ, họ cũng không thể kiểm soát hết lịch sử không chính thống được các nho sĩ viết riêng phần họ. Khi triều Nguyễn suy vi, và bắt đầu chế độ thực dân của Pháp, người ta tiếp tục giải thích lại về thời kỳ Tây Sơn, dành cho vua Quang Trung một công trạng lớn hơn, ít nhất do những nỗ lực của ông nhằm xây dựng một quốc gia thống nhất và đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh năm 1789. Vì thế, nhà Nguyễn tiếp tục bị ám ảnh về nhà Tây Sơn ở nhiều mức độ khác nhau.

Cho dù nhà Nguyễn tự mô tả họ như những người thừa kế trực tiếp của nhà Lê và thậm chí không công nhận một nhà Tây Sơn có tính chuyển tiếp, họ cũng không thể phủ nhận sự kiện nhà Tây Sơn đã lật đổ nhà Lê và cai trị phần lớn đất nước trong hơn một thập kỷ và để lại những dấu ấn không thể xóa nhòa.

Cho dù những thành tựu cụ thể như thế nào và di sản nó để lại cho người kế tục ra sao, cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn cũng thu hút trí tưởng tượng của những thế hệ mai sau " cả giới nho sĩ lẫn giới nông dân “ mỗi giới nhìn thấy một tính chất anh hùng nào đó trong các đạo quân hùng mạnh của thời đại này. Thời gian và những thất bại hiển nhiên của nhà Nguyễn giúp đánh bóng hình ảnh của nhà Tây Sơn nổi lên sau khi họ bị tiêu diệt. Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu này, tôi đã thử nhìn nhà Tây Sơn từ viễn cảnh của thế kỷ XVIII mà không từ những thế kỷ XIX, XX hay XXI. Khi làm như thế, tôi đã cố tách khỏi cách chép sử có tính phê phán quá đáng của nhà Nguyễn, và cũng tách khỏi cách viết tiểu sử các vị thánh của những nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy, và sự vinh danh những người nông dân cao thượng đã trở thành chủ đề nổi bật của phần lớn giới học thuật cuối thế kỷ XX. Tôi hi vọng rằng điều này có thể cho phép tôi miêu tả chi tiết những nỗi khó khăn kéo dài trong phần lớn các giai đoạn của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, trong lúc khai thác những động lực chi phối hành động của những người lãnh đạo cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn và những người đương đầu với cuộc nổi dậy đó trong ba thập kỷ xáo động mà nó đã tạo ra.

George Dutton, The Tây Sơn Uprising, University of Hawai’i Press, Honolulu, 2006, ÉE. 121-122.

George Dutton, The Tây Sơn uprising, sđd, tr. 13.

George Dutton, The Tây Sơn uprising, sđd, tr. 223.

George Dutton, The Tây Sơn uprising, sđd, tr. 227-228.

George Dutton, The Tây Sơn uprising, sđđ, tr. 116.

George Dutton, The Tây Sơn Uprising, sđd, tr. 58.

George Dutton, The Tây Sơn Uprising, sđd, tr. 114-115.

Nguyên văn: provincial Capital of Qui Nhơn (cước chú của người dịch, về sau viết tắt là ND).

Theo Đại Nam liệt truyện, quan Tuần phủ Qui Nhơn lúc này là Nguyên Khắc Tuyên - ND.

Đoạn tường thuật này, dưới nhiều bản dịch khác nhau, được tìm thấy từ nhiều nguồn: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, Đỗ Mộng Khương dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 493. Chỉ tiết hơn một chút có thể tìm thấy Vong: Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, Nguyễn Đức Vân - Kiều Thu Hoạch dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1998, tr. 92; Đại Việt sử kỷ tực biên, Ngô Thế Long " Nguyễn Kim Hung dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr. 359 - Dutton.

P. Lorenzo Pérez, "La Révolte et la guerre des Tayson d'après les Franciscains Espagnols de Cochinchme" (Sự nổi dậy và cuộc chiến của nhà Tây Sơn theo người Pháp và người Tây Ban Nha ở Đàng Trong), M. Villa dịch, Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, XII, số 3-4, 1940, tr. 74. Do mưu lược này, quân Tây Sơn được biết đến như là "đạo quân ó" (“hissingarmles". Từ này chính Dutton dịch ra tiếng Việt ở trang 42 trong nguyên tác). Chi tiết về khăn đỏ tìm thấy trong: Lê Quý Đôn toàn tập, tập I, Phủ biên tạp lục, Đỗ Mộng Khương dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 76.

Lê Quý Đôn toàn tập, tập I, Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 312.

“Trại chủ" là danh xưng chính thức của Nguyễn Nhạc khi mới nổi dậy, nguyên văn của Dutton là “chief of brigand” - ND.

Philippe Sérard gửi Pierre-Antoine Blandin, 8.1787, Văn khố Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris (dưới đây viết tắt là MEP) 691, tr. 1044.

Pierre-Yves Manguin, Les Nguyễn, Macau et le Portugal: Aspects politiques et commerciaux d'une relation privilégiée en Mer de Chine 1773-1802 (Nhà Nguyễn, Macau và xứ Bồ Đào Nha: Các khía cạnh chính trị và thương mại của một mối quan hệ đặc biệt tại biển Đông 1773-1802), École Française d'Extrême-Orient (Viện Viễn Đông bác cổ), Paris, 1984, tr. 100.

Jean-Prançois Le Roy gửi Blandin, 3.7.1789, MEP 692, tr. 112; Charles La Mothe gửi Blandin, 20.1.1790, MEP 692, tr. 158.

Li Tana, “An Altemative Vietnam? The Nguyên Kingdom in the Seventeenth and Eighteenth Centuries” (Một Việt Nam khác - Vương triều Nguyễn trong các thế kỷXVII và XVIII), Journal of Southeast Asian Studies (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á) 29, .no. 1 (3.1998). tr. 119.

Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in thepirst Half of the Nineteenth Century (Việt Nam và mô hình Trung Hoa; Một nghiên cứu so sánh các chính phủ Việt Nam và Trung Hoa vào nửa đầu thế kỷ XIX), Harvard University Press, Cambridge, 1971, tr. 4.

Về sau, Alexander Woodside có viết một quyển sách mỏng, không xuất bản, nhan đề: The Tay-son Revolution in Southeast Asian History (Cuộc cách mạng của nhà Tây Sơn trong lịch sử Đông Nam Á), Comell University Library, 1976. Tác phẩm này đua ra những nhận thức sắc sảo về những mảng rộng lớn hơn của thời kỳ Tây Sơn và những miêu tả về sau của cuộc nổi dậy, cho dù yếu tố chưa xuất bản khiến cho ảnh hưởng về mặt học thuật của nó rất hạn chế).

David Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân, 1885-1925), University of California Press, Berkeley, 1971.

David Marr, Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945 (Truyền thống Việt Nam trong cơn thử thách, 1920-1945), University of California Press, Berkeley, 1981.

Li Tana, Nguyễn Cochinchina; Southern Vietnam in the Seventeenth and Bighteenth Centuries (Chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Đàng Trong thế kỷ XVII vàXVlll), Cornell Umversity Southeast Asia Program, Ithaca, New York, 1998, tr. 41.

Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđđ, tr. 147.

Charles Maybon, Histoire modeme du pays d’Annam (1592-1820) (Lịch sử cận đại xứ An Nam, 1592-1820), Plon-Nourrit et Cie, Paris, 1919.

Lê Thành Khôi, Le Vietnam: Histoise ei civilisation (Việt Nam: Lịch sử và nền văn minh), Editions de Minuit, Paris, 1955, tr. 296-322.

Philippe Langlet, l’ancienne Historiographie d'état au Vietnam (Phép chép sử ở Việt Nam khi xưa), quyển 1, Raisons d’être, condition d'élaboration et caractères au siècle des Nguyễn (Lý do tồn tại, những điều kiện phát triển và các đặc tính của thời Nguyễn), École Prançaise d'Extrême-Orient, Paris, 1990.

Yang Baoyun, Contribution à l’histoire de la principauté des Nguyên au Vietnam méridional (1600-1775) (Sự đóng góp vào lịch sử của vương quốc các chúa Nguyễn tại Đàng Trong, 1600-1775), Edittons OIizane, Geneva, 1992.

Để có được mội sự miêu tả chi tiết quan niệm của triều Nguyễn về vấn đề này, xin xem: Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn, Sở Vãn hóa và Thông tin Nghĩa Bỉnh, Qui Nhơn, 1988, tr. 234-249. Mặt khác, cần ghi nhận rằng nhà Nguyễn không tiêu hủy một cách bừa bãi mọi tư liệu về nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh ra lệnh đặc biệt cho quân đội của ông không thiêu hủy toàn bộ các tài liệu công của nhà Tây Sơn mà thu thập chúng lại để xác định xem chúng có chứa đựng những thông tin quan trọng không. Xin xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 497.

David Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925, sđd, tr. 23, ghi chú 1.

Nguyên văn của Dutton được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt: “bandits" (tặc) - ND.

Nguyên văn của Dutton là: “rebels” (giặc) - ND.

Những chi tiết này có thể tìm thấy trong tiểu sử của ba anh em nhà Tây Sơn trong: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 491-492.

Philippe Langlet, l’ancienne Historiographie d’etatau Vietnam, quyển I, Raisons d’être, condittons d’élaboration et caractèm au siècle des Nguyễn, sđd, tr. 15.

Nola Cooke, “The Myth of the Restoration: Dang-Trong Influences in the Spiritual Life of the Early Nguyen Dynasty (1802-47)” (Huyền thoại về sự phục hưng: Ảnh hưởng của Đàng Trong trong đời sống tinh thần của thời kỳ đầu triều Nguyễn, 1802-1847), trong: Anthony Reid (chủ biên), The LastStand of Asian Autonomies:Responses to Modemity in Diverse States of 'Southeast Asia and Korea, 1750-1900, Macmillan, London, 1997, tr. 271.

Tên Bình Định chỉ được đặt ra trong giai đoạn cuối của cuộc nội chiến nhà Nguyễn - nhà Tây Sơn, vùng này trước có tên là Qui Nhơn - ND.

Xem: Nguyễn Bá Huân, Tây Sơn văn thần liệt truyện, Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn, 1979; Nguyễn Bá Huân, "Cân quắc anh hùng truyện”, trong: Phan Huy Lê, Tư liệu về Tây Sơn-Nguyễn Huệ trên đất Nghĩa Bình, Sở Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn, 1988, tr. 172-194. Tài liệu sau viết về nữ tướng Bùi Thị Xuân. Cả hai tác phẩm này được biên soạn vào nửa sau thế kỷ XIX.

Xem: Dã sử, VHb. 263, Viện Hán Nôm, Hà Nội; Ngô Cao láng, Lịch triều tạp kỷ, Hoa Bằng và Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995; Bùi Dương Lịch, Lê quý dật sử, Phạm Văn Thắm dịch, Nxb- Khoa học xã hội, Hà Nội, -1987.

Xem "Lời giới thiệu" năm 1905 của Thiện Đình trong: Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 9; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tập 2, Nxb. Xuân Thu (in lại), California, 1990, tr. 127-128.

Xem: Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tập 2, sđd, tr. 129; Phan Bội Châu, Việt Nam vong quốc sử, Nguyên Quang Tô dịch, Nxb. Xuân Thu (in lại), Houston, Texas, tr. 23.

Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Quan hải tùng thư, Huế, 1938; Nxb. Xuân Thu (in lại), Houston, Texas, tr. 321.

Hai cụm từ “cách mạng” và “phong trào nông dân", tác giả viết bằng tiếng Việt kèm theo nguyên ngữ - ND.

Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958; Trần Huy Liệu, “Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyễn Huệ”, Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa, số 14 (2-1956), tr. 30-44.

Xem: Trần Thị Vĩnh, “Tìm hiểu về tổ chức nhà nước thời Tây Sơn", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số I (244), 1-2/1989, tr. 42-47.

Nguyễn Lương Bích, Quang Trung-Nguyễn Huệ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1989; Nguyễn Duy Hình, “Những suy nghĩ về nhà Tây Sơn", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1(244), 1-2/1989, tr 20-27.

Nguyên văn: exceptionalism - ND.

Do vị trí nằm phía trên sông Linh Giang, vùng lãnh thổ này đôi khi cũng được quen gọi là Bắc hà. Về cuộc thảo luận về nguồn gốc và việc sử dụng các từ “Đàng Ngoài” và "Đàng Trong", xin xem: Keith Taylor, "Surface Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region" (Định hướng bề nổi tại Việt Nam: Bên ngoài những câu chuyện về đất nước và vùng miền), Joumai of Asian Studies (Tạp chí Nghiên cứu châu Á), số 4 (1998), tr- 958-959.

Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Năm 1527, ông giữ chức Đô Chỉ huy sứ dưới triều vua Lê Uy Mục - ND.

Nhiều tài liệu chép Trịnh Kiểm sinh năm 1503 - ND.

Chỉ Nguyễn Kim - ND.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 26 - Dutton. Người này có tên Dương Chấp Nhất - ND.

Trên thực tế, Nguyễn Hoàng chỉ vào làm Trấn thủ Thuận Hóa thôi, vì lúc bấy giờ (1558), Quảng Nam đã có Trấn thủ là Bùi Tá Hán. Mãi đến năm 1568, sau khi họ Bùi qua đời, Nguyễn Hoàng mới kiêm luôn trấn Quảng Nam - ND.

Sự phức tạp trong chuyến đi về Nam của Nguyễn Hoàng và sự miêu tả trong lịch sử Việt Nam được Keith Taylor kể chi tiết trong “Nguyên Hoang and the Beglnning of Vietnam’s Southward Expansion" (Nguyễn Hoàng và sự khởi đầu cuộc Nam tiến của Việt Nam), trong: Anthony Reid (chủ biên), in Southeast Asia in the Early Modern Era: Trade, Power and Belief Comell University Press, Ithaca, N.Y và Lonđon, 1993, tr. 42- 65; xem thêm: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 27-28.

Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđđ, tr. 22.

Lúc này đứng đầu họ Trịnh là Trịnh Tùng, cháu gọi Nguyễn Hoàng là cậu ruột - ND.

Keith Taylor, “Nguyên Hoang and the Beginring otVietmn’s Southward Expansion", tlđd, tr. 45, 64. Nola Cooke không thừa nhận lập luận của Taylor, cho rằng vào thế kỷ XVII, nhà Nguyễn tiếp tục dự tính quay lại phương Bắc; xem: Noia Cooke, “Regionalism and the Nature of Nguyên Rule In Seventeenth-Century Dang Trong (Cochinchina)" (Chủ nghĩa địa phương và bản chất của chính quyền nhà Nguyễn tại Đàng Trong thế kỷ XVIII), Journal of Southeast Asian Studies29, no. 1 (3-1998), tr. 122-161.

Tức Nguyễn Phúc (Phước) Nguyên - ND-

Lời tuyên bố này được làm nhẹ đi bằng cách cho rằng không thể nộp tiền thuế do điều kiện thời tiết khiến cho năng suất mùa màng sụt giảm. Tuy nhiên, có vẻ như sự bào chữa này chỉ là một cách nói để tránh một cuộc tấn công có thể xảy ra của chúa Trịnh. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 41.

Lê Thành Khôi, Histoire du VietNam, des origines à 1858, sđd, tr. 255-256.

Chỉ tiết tóm lược về dòng họ các anh em Tây Sơn có thể tìm thấy trong: Quách Tấn - Quách Giao, Nha Tây Sơn, sđđ, tr. 17. Xem thêm: Minh Đô sử, Hv. 285, Viện Sử học, Hà Nội, quyển 5, tờ 74a-b.

Minh Đô sử sđd, quyển 5, tờ 74a; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 491; Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđd, tr. 28.

Quách Tấn - Quách Giao (Nhà Tây Sơn, sđd, tr. 20-23) cho tên người cha là Nguyễn Phi Phúc. Xem chương trình cưỡng bách tái định cư của gia đình trong: Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2, Hoa Bằng - Phạm Trọng Điềm - Trần Văn Giáp dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 719-720 - Dotton. Ở đây tác giả dùng từ “ village of Tây Sơn”, có chỗ tác giả viết là ấp Tây Sơn (hamlet of Tây Sơn) – ND

Tức sông Gianh - ND.

Qua thế kỷ XVIII, một cơ chế quan liêu được thiết lập dần, mặc dù điều này vẫn còn tương đối ít quan trọng trong việc xác định đường hướng chính trị của nhà nước.

Ngay cả khi Tả quân Lê Văn Duyệt đã vào trấn nhậm Gia Định thành (từ Bình Thuận trở vào Nam), mỗi khi "Mọi Đá Vách” nổi dậy, triều đình lại cử ông trở ra Quảng Nam để đối phó, và hầu như chỉ có ông dẹp được những cuộc nổi dậy này - ND.

Chỉ chúa Nguyên Phúc Chu (1691-1725) - ND.

Về sự thay đổi danh hiệu và tước hiệu, xin xem: Lê Quý Đôn toàn tập, tập I, Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 67-68. Có thể xem cuộc thảo luận tỉ mỉ về động lực dẫn đến sự tự trị ở tài liệu đánh máy “Tây Sơn” của Maurice Durand, Yale University Library, New Haven, tr. 11-24.

Chỉ chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) - ND.

Song các chúa Nguyễn vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu của vua Lê trong các giấy tờ chính thức đến năm 1802, mặc dù triều Lê đã cáo chung từ năm 1788 - ND.

Quyết định của họ Trịnh giữ các vua Lê làm bung xung được cho là xuất phát từ Nguyên Bỉnh Khiêm, một danh sĩ ở Hải Dương được xem là quân sư cho nhiều nhân vật chính trị thế kỷ XVI. Xem: Trần Thiều, “Giữ chùa thờ Bụt mà ăn oản: Vì sao họ Trịnh không dứt nghiệp nhả Lê?", Tạp chí Xưa & Nay 53, số 7 (1998), tr. 38-39.

Xin xem tuyên cáo bằng chữ Nôm của Lê Duy Mật nhắc lại công trạng của nhà Lê và kể tội dòng họ Trịnh: “Tài liệu tham khảo: Hịch của Lê Duy Mật kể tội họ Trịnh", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 108,3-1968, tr. 58-59.

Thời kỳ nắm quyền của chúa Trịnh Doanh được miêu tả rõ trong: Lê Thành Khôi, Histoire du Viet Nam, des origines à 1858, sđd, tr. 307-309. Để có một cái nhìn ngắn gọn về những gì Trịnh Sâm đã làm được, xin xem: Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, sđd, tr. 178.

Như sẽ nói rõ ở Chương IV, khái niệm “cải đạo ” khá phức tạp, và trong bối cảnh Việt Nam, ít khi có nghĩa là việc bỏ một tôn giáo sẵn có, mà đúng hơn là bổ sung một đạo mới.

Phan Đại Doãn, Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam,-Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 65; xem thêm: David Man, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925, sđd, tr. 52-53. Vào thế kỷ XVIII, số người đỗ đạt gia tăng xuất phát từ các vùng quanh thành Thăng Long, vì thế họ không hoàn toàn tách rời khỏi kinh đô. Mặt khác, ngay những người sống trong chu vi của Thăng Long cũng có gốc rễ từ nông thôn, làng xã.

Quan điểm này được nêu trong Kinh thư, xem: Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, sđd, tr. 461; về Ngô Thì Nhậm, xem: Nguyễn Tài Thư (chú biên), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, sđd, tr. 461-462.

Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tứ, Mình Tân, Paris, 1952, tr. 141-142.

Chữ Nôm xuất phát từ chữ Hán, kết hợp chữ viết và các chi tiết phụ của chữ Hán để diễn tả nghĩa và cách đọc theo âm của người Việt.

Một bản tóm lược các vấn đề văn hóa thế kỷ XVIII có nêu trong: Lê Thành Khôi, Histoire du Viet Nam, desoriginesà 1858, sđd, tr. 286ff.

Một quan lại nhà Nguyễn là Ngô Thế Lân có bình phẩm đặc biệt về hậu quả của những biến đổi sâu sắc về dân số và lãnh thổ ở vương quốc nhà Nguyễn, trong một kiến nghị gửi đến phủ chúa. Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thục lục, tập Một, sữd, tr. 175.

Hay Xiêm La, Tiêm La, nay là Thái Lan - ND.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 163-164.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 171ff.

Hay Điến Điện, nay là Myanmar - ND.

Có thể đọc văn kiện này trong: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 175. Để có thể thảo luận rộng rãi hơn về vấn đề này, xin đọc: Li Tana, Nguyễn Cochìnchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđđ, tr. 94-98.

Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eigkteenth Centurỉes, sđd, tr. 146; Lê Quý Đôn toàn tập, tập I Phủ biên tạp lục, sđd, ư. 240-241 liệt kê nhiều loại tàu vận chuyển khác nhau, nêu rõ là Qui Nhơn có nhiều tàu ghé nhất.

Đây là Định vương Nguyễn Phúc Thuần, con thứ của Võ vương Nguyễn Phúc Khoát - ND.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 173.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 170, miêu tả các nỗ lực của Trương Phúc Loan nhằm nâng mức thuế ở những khu vực này.

Của nhà Tây Sơn - ND.

Chúa Nguyễn Phúc Khoát giữ nghiệp chúa những năm 1738-1765 - ND.

Hưng Tổ có tên Nguyễn Phúc Luân, cha ruột Nguyễn Ánh, được cha là Võ vương chọn làm người kế nghiệp - ND.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 1, sđd, tr. 202.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 173; Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, 1558-1777, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970, tr. 250-251.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 202; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 170 - Dutton. Tức Võ vương Nguyễn Phúc Khoát - ND.

Đầu năm 1776, Lê Quý Đôn (trong: Lê Quý Đôn toàn tập, tập I, Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 70-71) đã quy cho những khó khăn mà chính quyền Đàng Trong gặp phải, và đặc biệt cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn, là do các chính sách và hành động của Trương Phúc Loan. Cũng xin xem: Đại Việt sử ký tục biên, sđd, tr. 375, trong đó tướng chỉ huy cuộc xâm lấn của quân Trịnh buộc tội Loan một cách gay gắt.

Người dịch chép lại nguyên văn đoạn này trong Đại Nam thực lục (tập Một, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 173). Bản tiếng Anh của tác giả Dutton cũng dịch từ nguồn tư liệu trên, song có hai nhầm lẫn lớn: một là phần đầu của đoạn trích "dẫu được chúa thân yêu, nhưng chi say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước” đề cập đến Nội hữu chưởng dinh Tôn Thất Nghiễm và chưởng Thủy cơ Tôn Thất Viên mà Dutton lại hiểu nhầm là viết về Trương Phúc Loan; hai là từ “trăm họ” trong nguyên tác Đại Nam thực lục, Dutton dịch ra tiếng Anh là “hundred sumames” (!) - ND.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 173.

Ám chỉ vùng đất Đàng Trong của chúa Nguyễn - ND.

Chuỗi sự kiện này được miêu tả chi tiết trong: Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđđ, tr. 29-58 và sẽ được dẫn lại ở Chương II.

Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 91; Đại Việt sử ký tục biên, sđd, tr. 358; Nam sử , VHv. 2743, Viện Hán Nôm, Hà Nội, tờ 34b, chép rõ hơn khi cho rằng Nguyễn Nhạc đã thua bạc hết khoản tiền này.

Mặc dù thời điểm năm 1771 khó xác định rõ, nó được Đại Nam liệt truyện (tập 2, sđđ, tr. 492) ghi là năm Tân Mão. Nhiều nhà viết sử khác vào thế kỷ XIX bắt đầu viết về nhà Tây Sơn từ năm 1773, khi quân nổi dậy tấn công Qui Nhơn.

Nguyên văn bằng tiếng Việt trong tác phẩm của Dutton - ND.

Sử nhà Nguyễn chép rằng việc không thể tiếp cận khu vực này là lý do họ thất bại trong việc đàn áp phong trào Tây Sơn vào những năm đầu tiên. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 177.

Taylor (trong: “Suriace Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region", tlđd, tr. 964) đã miêu tả vị trí then chốt của An Khê ở điểm giao nhau của những con đường vận chuyển và buôn bán. Một khảo sát chi tiết về vai trò quan trọng của vùng cao này trong bài viết của: Vũ Minh Giang, "Tây Sơn thượng đạo, căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa”, trong: Nam Hà - Vũ Mình Giang - Nguyễn Đổng Chi, Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân Tây Sơn Nguyễn Huệ, Sở Văn hóa Thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn, tr. 22-32. Cũng xin xem: Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighieenth Centuries, sđđ, tr. 123.

P. Lorenzo Pérez, “La Révolte et la guerre des Tayson d'après les Franciscains Espagnols de Cochinchine”, tlđd, tr. 74.

Lúc này là Định vương Nguyễn Phúc Thuần - ND.

Hoàng Ngũ Phúc - ND.

Theo một số tài liệu khác, người em nhỏ nhất là Nguyễn Huệ" ND.

Thái Thượng vương Nguyên Phúc Thuần và Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương bị sát hại trong dịp này - ND.

Năm 1777, Nguyễn Ánh mới 15 tuổi -ND.

Tức đảo Thổ Châu - ND.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđđ, tr. 205.

Tháng 4 âm lịch (về sau viết tắt là AL) năm 1782, tướng giỏi của Nguyễn Nhạc là Phạm Ngạn bị đạo quân Hòa Nghĩa theo Nguyên Ánh, phần lớn là người Hoa, sát hại trong một trận đánh tại cầu Tham Lương, Sài Gòn, nhà Tây Sơn đã giận cá chém thớt, sát hại hàng ngàn cư dân người Hoa để trả thù - ND.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 214.

Lê Hiển Tông - ND.

Vua Lê Hỉển Tông phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên súy Dực chính Phù vận Uy Quốc công và gả con gái là Lê Thị Ngọc Hân cho - ND.

Nhân vật này tên Lê Duy Kỳ, cháu vua Lê Hiển Tông, lên ngôi với niên hiệu Chiêu Thống - ND.

Hầu hết các sử liệu khác chép là Vũ Văn Nhậm - ND.

Nhiều tài liệu phủ nhận con số này, cho rằng chỉ vào khoang vài mươi ngàn quân Thanh - ND.

Chuỗi sự kiện được miêu tả chỉ tiết trong Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 2, sđd, tr. 194.

Theo nhiều tài liệu, nhân vật này là Phạm Công Trị, song gần đây có tác giả chứng minh rằng người đi sang Trung Quốc là vua Quang Trang thật - ND.

Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, sđd, tr. 149. Có sự tranh cãi về chuyện ai là người đóng thế vua Quang Trung. Đại Việt quốc thư (Đình Thụ Hoàng Văn Hòe dịch, Trung tâm học liệu, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1987), tr. 356-357, chép rằng người đóng thế có thể là một ngươi ở Nghệ An giống với nhà vua.

Những cuộc thảo luận chi tiết về quan hệ Việt-Hoa vào thời kỳ này, xin xem: Quang Trung: Anh hùng dân tộc, 1788-1792, sđđ, tr. 208-260; cũng xin xem: Trương Bửu Lâm, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnamese Relations, 1788-1790” (Sự can thiệp về lệ triều cống trong quan hệ Hoa-Việt, 1788-1790), trong: John K. Fairbank (chủ biên), The Chinese World Order, Harvard University Press, Cambridge, 1968, ư. 165-179.

Nguyễn Huệ sinh năm 1753, chỉ tiết này đúng nếu tính theo tuổi ta - ND.

Có tài liệu ghi ông sinh năm 1783, tức lúc lên ngôi mới 9 tuổi - ND.

Theo một số tài liệu, bà hoàng hậu này tên Bùi Thị Nhạn, em ruột Bùi Đắc Tuyên. Một số tài liệu khác lại cho biết bà họ Phạm - ND.

Người Việt gọi ông là Bá Đa Lộc - ND.

Theo tinh thần hiệp ước Versailles ký kết ngày 28.11.1787 giữa Bá Đa Lộc, thay mặt chúa Nguyễn Ánh và Thượng thư bộ Ngoại giao Montmorin, thay mặt Pháp hoàng Louis XVI thì Pháp giúp chúa Nguyễn 4 thuyền chiến, 1.200 lính bộ binh, 200 lính pháo binh, và 250 lính Cafres, đổi lại, Nguyên Ánh nhường cho Pháp đảo Côn Lôn (Poulo Condore) và một hòn đảo ở cửa vào cảng Hội An - ND.

Một bản tường thuật về chuyến đi sang Pháp của Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh, và những gì sau đó, có thể đọc trong: George Taboulet, La Geste pranaise en Indochine, Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tập 1, Librarie d’Amerique et d'Onent, Paris, 1955, tr. 163-279 - Dutton. (Nhân vật đó là bá tước De Conway, tống chỉ huy quân đội Pháp trong vùng Ấn Độ Dương - ND.)

Thư Bá Đa Lộc gửi cho Denis Boiret, 18.7.1792, MEP746, tr. 395.

Nhiều thư của các giáo sĩ kể về chuyện nhà Tây Sơn cố tuyển mộ "ông Tín” (Olivier). Thư Langlois gửi Boiret, 20.7.1795, MSP692, tr. 652.

Tức vua Cảnh Thịnh - ND.

Thư Lavoue gửi Boiret và Descourvières, 13.5.1795, MEP 746, tr. 465.

Tức hoàng đế Quang Trung - ND.

Nguyễn thị Tây Sơn ký, A- 3138, Viện Hán Nôm, Hà Nội, tờ 38a.

Sự đàn áp đó cùng nguyên nhân và hậu quả của nó sẽ được đề cập đến trong Chương IV.

Durand, "Tây Sơn”, tlđd, tr. 210-216, đặc biệt ở trang cuối có miêu tả vai trò quan trọng của thành Diên Khánh.

Theo chính sử và nhiều tư liệu khác, Bá Đa Lộc qua đời vào tháng 10.1799 - ND.

Trần Huy Liệu, "Đánh giá cuộc cách mạng Tây Sơn và vai trò lịch sử của Nguyên Huệ”, Tập san nghiên cứu Văn Sử Đia, số 14 (2.1956), tr. 30-44; Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, Nxb- Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958.

Nhiều phong trào nhân dân ở Xiêm, Miến Điện, Chân Lạp, Đông Ân, Philippines và Trung Hoa vào các thế kỷ XVIII và XIX được hình thành từ các ý thức hệ tôn giáo, gồm có Phật giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo. Chúng gồm có Bạch Liên giáo, Nghĩa Hòa Đoàn và Thái Bình ở Trung Quốc; ở Đông Nam Á, có những cuộc nổi dậy của người dân ở Miến Điện và Xiêm kích động bởi Phật giáo, ở Java bởi Hồi giáo, và ở Philippines bởi Thiên Chúa giáo.

Bà Hồ Tài Huệ Tâm, hiện là giáo sư sử học Việt Nam tại trường Đại học Harvard (Mỹ). Bà Huệ Tâm là ái nữ học giả, nhà hoạt động chính trị Hồ Hữu Tường - ND.

Hue-Tam Ho Tai, Millenarianism and Peasant politics in Vietnam (Chủ thuyết thiên niên và chính sách về người nông dân tại Việt Nam), Harvard University Press, Cambridge, 1983, tr. 5.

Nguyễn Khắc Đạm, “Tại sao các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Việt Nam ít có màu sắc tôn giáo?”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 81,12.1965, tr. 8-10.

Nguyên văn của tác giả - NĐ.

“Ba vị” là ba anh em nhà Tây Sơn. Tác gỉả dùng cụm từ "these three worthies" có hàm ý mỉa mai - ND.

John Barrow, A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793, sđđ, tr. 251. Các từ “nhà buôn", “tướng” và “thầy tu" nhằm ám chỉ ba anh em Tây Sơn Nhạc, Huệ, Lữ, theo thứ tự.

Từ bằng tiếng Việt của tác giả kèm theo tiếng Anh “virtuous king" - ND.

Hồ Quý Ly có hai người cô lấy vua Trần Minh Tông, một người sinh ra vua Trần Nghệ Tông, một người sinh ra vua Trần Duệ Tông, tất nhiên hai ông vua này là anh (em) cô cậu ruột với Hồ Quý Ly - ND.

Xin xem: John Whitmore, “Chung-Hsing and Cheng- Tung in Texts of and on Sixteenth - Century Vietnam” (Chung-Hsing và Cheng-Tung trong tài liệu của Việt Nam thế kỷ XVI), trong: K. W. Taylor - John K. Whitmore (chủ biên), Essays into Vietnamese Pasts, sđd, tr. 116-136.

Từ này, tác giả viết là "under he a ven” (dưới trời) chúng tôi ngờ rằng ông đã dịch từ hai chữ "thiên hạ” - ND.

Michael Adas, Prophets of Rebellion: Millenarian Movements against the European Colonial Order (Những lời tiên tri về cuộc nổi dậy: các phong trào thiên niên chống lại chế độ thực dân châu Âu), University of North Carolina Press, Chapel Hill, 1979, tr. 112.

Nguyên văn của Dutton bằng tiếng Việt - ND.

Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1997, tr. 108.

Thế kỷ XVIII và XIX, sử gọi là người Y Pha Nho - ND.

Chữ Việt trong nguyên tác của Dutton - ND.

Thư Pigneau gửi các giám đốc Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris, 5.6.1776, Tân huấn thư của các phái bộ Trung Hoa và Đông Ân, tập 6, tr. 293.

Charles Chapman, “Chapman's narrative of his mission to Vietnam" (Tường thuật của Chapman về sứ mạng của ông tại Việt Nam), trong: Alistair Lamb, Mandarin Road to Old Hue (Đường quan lộ đến Huế xưa), Archon Books, London, 1970, tr. 94-95. Đây rõ ràng là một lời chú giải trong đó từ “God" được Chapman giải thích phù hơp với cách nói của giới giáo sĩ phương Tây về chữ “trời” trong cách hiểu cũ của người Việt về từ này.

Vua Lê Hiển Tông (1740-1786) - ND.

Gần như chắc chắn Nguyễn Huệ cho rằng gió mùa tạo thuận lợi cho một cuộc viễn chinh bằng đường biển vào thời điểm này trong năm.

Để thảo luận xa hơn về vai trò của Ngô Thì Nhậm khi soạn thảo chỉ dụ này, xin xem: Alexander Woodside, “Ciassical Primordialism and the Historical Agendas of Vietnamese Confudanism" (Thuyết nguyên thủy lãnh điển và tiến trình lịch sử của Khổng giáo Việt Nam”, trong: Benjamin A. Elraan - John B. Duncan - Herman Ooms (đồng chủ biên), Rethinking Confucianism: Pastand Present in China, Japan, Korea, and Vietnam (Nghĩ lạl về Khổng giáo: Quá khứ và Hiện tại ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam), UCLA Asian Pacific Monograph Series, Los Angeles, 2002, tr. 120.

Nguyễn Cẩm Thúy - Nguyễn Phạm Hùng, Văn thơ Nôm thời Tây Sơn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 265. “Hội Thuận ứng thế đừng được chớ...” Có lẽ chỉ dụ này do kẻ đã phản lại chúa Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh soạn cho họ.

Quốc sử quán triều Nguyên, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 491. Từ “phía bắc” trong lời tiên tri này không rõ ràng, có thể giải thích là kinh đô nhà Nguyễn ở Phú Xuân hoặc kinh thành Thăng Long của nhà Lê.

Tác giả Dutton không đề cập đến con rùa thần ở hồ Hoàn Kiếm là sinh vật đã trao gươm cho Lê Lợi và về sau lấy gươm đi - ND.

Arthur là vua nước Anh. Theo truyền thuyết, ông đã nghe theo lời pháp sư Merlin, rút thanh kiếm báu Excalibur trong phiến đá và sau lên làm vua - ND.

Những mẩu chuyện về Tây Sơn, Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bỉnh, Qui Nhơn, 1979, tr. 9-10; Lê Xuân Lít, “Lòng dân đối với cuộc khởi nghĩa Tây Sơn”, trong: Nam Hà -Vũ Minh Giang - Nguyễn Đổng Chi, Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân Tây Sơn Nguyễn Huệ, sđd, tr. 289-290. Một chi tiết khác nói về Nguyễn Huệ thay vì anh của ông, và lần này ông tìm thấy trong con gà không phải một chuôi gươm mà là một chiếc ấn vàng.

Tức Nguyễn Huệ - ND.

Quách Tấn, "Di tích và truyền thuyết về nhà Tây Sơn”, Tập san Sử Địa, số 9, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1968, tr. 175. Đao hình rồng là biểu tượng của vua. Ý tưởng về một sinh vật kỳ diệu trao lưỡi kiếm gợi nhớ lại chuyện con rùa thần trao gươm cho Lê Lợi trong cuộc chiến đấu chống quân Tàu của ông vào thế kỷ XV. Rõ ràng là một lần nữa, Nguyễn Huệ được xem là một thành phần của dòng dõi anh hùng Việt Nam ra đời để giúp nước.

Quách Tấn, “Di tích và truyền thuyết về nhà Tây Sơn”, tlđd, tr. 172. Ý tưởng về sự xuất hiện những từ ngữ có tính thiêng liêng không chỉ riêng về nhà Tây Sơn. Câu chuyện này có nét giống lúc mới khởi phát cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi chống quân Minh vào đầu thế kỷ XV. Tài liệu đó ghi rằng, người cố vấn thân cận của vị lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Nguyễn Trãi đã dùng mỡ khắc câu “Lẽ Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” lên thân cây. Sau một thời gian, côn trùng và những con vật khác ăn chất mỡ đi, câu trên hiện ra trên vỏ cây như có phép kỳ điệu nào. Các tài liệu kể về chuyện này không hoàn toàn giống nhau, ý niệm về một lời tiên tri xuất hiện một cách kỳ diệu có liên quan đến hai truyện kể. Xem: Lê Thành Khôi, Histoire du Viet Nam, des origines à 1858, sđd, tr. 207 - Dutton. Theo một số nguồn sử liệu khác, câu "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi ví thần” được viết bằng mỡ trên lá cây và thả trôi theo dòng nước - ND.

Câu chuyện này không rõ nguồn gốc, được tìm thấy trong: Những mẩu chuyện về Tây Sơn, sđd. tr. 31-32.

Tiếng Việt trong nguyên tác của tác giả - NĐ.

Khái niệm kinh tế đạo đức (moral economy) được sử gia người Anh E.P. Thomson nêu ra từ một cách nói được nhiều tác giả vào thế kỷ XVIII sử dụng. Thompson viết về nền kinh tế đạo đức của người nghèo trong bối cảnh những cuộc náo loạn về lương thực lan tràn ở vùng nông thôn nước Anh vào cuối thế kỷ XVIII Theo Thompson, những cuộc náo loạn này chứng tỏ một phản ứng bắt nguồn từ quyền được định giá những mật hàng thiết yếu trên thị trường. Những người nông dân tham gia cuộc náo loạn chủ trương rằng một “giá cả phải chăng" theo truyền thống quan trọng hơn giá thị trường “ tự do" và họ trừng phạt những chủ nông trại lớn bán sản phẩm với giá cao bên ngoài làng xã, trong khi bên trong làng xã, người dân vẫn còn cần đến chúng - ND.

"Tài liệu tham khảo: Hịch của Lê Duy Mật kể tội họ Trịnh”, tlđd, tr. 58-59.

Về sau, đạo quân Hòa Nghĩa về hàng chúa Nguyễn Ánh, lập nhiều công lớn. Năm 1782, họ chém tướng Tây Sơn Phạm Ngạn tại cầu Tham Lương, Gia Định; nhà Tây Sơn đã giận cá chém thớt, sát hại mấy ngàn người Hoa tại Sài Gòn, bất luận dân hay lính, thây chất đầy sông, cả mấy tháng trời người dân Sài Gòn không dám ăn tôm cá" ND.

Không rõ là tên gọi mới này được sử dụng rộng rãi như thế nào. Trong lúc khá nhiều nguồn tư liệu có ghi nhận sự thay đổi tên gọi này, một số tư liệu hiện đại lại không gọi vùng đô bằng cái tên nào khác là Nghệ An.

Có thể tìm thấy các từ này trong thời gian từ năm 1784 đến năm 1792. Xem: Thư Langenois gửi Jean-Jacques Descourvieres, 30.6.1784, MEP 800, tr. 1776; “Journal de la Procure de Macao en 1784" (Nhật ký của Linh mục quản lý Tu viện Macao năm 1784), MEP 306, tr. 929; “Journal de ce qui s'est passe de plus remarquable dans la misslon du Tong-king, depuis le mois de juiliet 1786 jusqu’à mois de julliet 1787” (Nhật ký về những gì đáng lưu ý nhất trong sứ bộ Đông Kinh, từ tháng 7.1786 đến tháng 7.1787), MEP 691, tr. 899-900; Thư Jean Labartette gửi Denis Boiret, 22.3.1787, trong: Nouvelles lettres (Những lá thư mới), tập 6, tr. 2; Thư de Gortyne gửi Pierre-Antoine Blandin, 21.12.1792, MEP 692, tr. 405.

"Journal de ce qui s’est passe de pius remarquable dans la mission du Tong-king, depuis le mois de mai 1785 jusqu'à mois de juin 1786" (Nhật ký về những gì đáng lưu ý nhất trong sứ bộ Đông Kinh, từ tháng 5.1785 đến tháng 6.1786), MSP 691, tr. 668, 899-900, miêu tả việc người giàu cố thủ trong nhà trong thời điểm xảy ra nạn đói để tránh việc bị đòi nộp lương thực.

Sau khi Võ vương qua đời, người con thứ hai của ông là Chương Võ được chỉ định kế nghiệp. Tuy nhiên, có lẽ do sự can thiệp của Trương Phúc Loan, người con thứ 16 của chúa là Định vương được kế nghiệp. Sự chọn lựa này loại ra ngoài một người có khả năng kế nghiệp khác tên Hiệu, khi Chương Võ qua đời chỉ một thời gian ngắn sau cái chết của Võ vương. Khi Nguyễn Nhạc nổi dậy, ông ta ủng hộ Đông cung Dương, là con của Thế tử Hiệu, được chỉ định làm người kế nghiệp. Alistair Lamb, Mandarin Road to Old Hue, tr. 88-89, ghi chú 2.

Tức Nguyễn Phúc Dương, con trai thế tử Nguyên Phúc Hiệu (con thứ chín Võ vương Nguyễn Phúc Khoát), mất năm 1760, được Võ vương truy tặng tước Thái Bảo Quận công - ND.

Tư liệu của nhà Nguyễn ghi rằng chính Hiến đã thúc giục Nguyễn Nhạc tự coi mình là người đang thực hiện lời tiên tri nhắm đến “một cuộc nổi dậy ở phía tây”, vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy có liên quan đến mưu lược đề ra các khẩu hiệu chính trị hoặc các mục tiêu trong thời kỳ đầu của cuộc nổi dậy.

Khá thú vị là điều này phản ánh hoàn toàn những hành động của Trương Phúc Loan, vì Loan đã gả con gái cho vị đông cung trẻ tuổi mà ông ta mưu định đưa lên ngôi chúa.

Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 148; tác giả P. Lorenzo Pérez (trong; "La Révolte et la guerre des Tayson d'après les Pranciscains Espagnols de Cochinchme”, tlđd, tr. 85) kể về trường hợp một giáo sĩ Tây Ban Nha đã viết rằng: "Dương không muốn lấy người được giới thiệu với ông làm vợ, song vốn là một người cẩn trọng, để tránh rắc rối lớn cho mình, ông đã giữ con gái Nhạc trong nhà trong sáu tháng, mà không hề sống chung với cô ta, cũng không cho cô ta được lên giường của ông hay ngồi chung bàn với ông".

Minh Đô sử, sđđ, quyển 5, tờ 75a; xin xem thêm: Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, sđd, tr. 108- Có vẻ như điều này cho thấy đây là lần duy nhất trong lịch sử Việt Nam có một chữ bị cấm kỵ do ác cảm với một cá nhân, thay vì bảo vệ tính bất khả xâm phạm của danh tánh trong hoàng tộc.

Bình Nam thực lục (qn), DC. 79, Tras. (photocopy) Thư viện tỉnh Bình Định, Qui Nhơn, tr. 12-17. Bình Nam thực lục là tác phẩm chi tiết, cận đại của họ Trịnh đề cập đến cuộc viễn chinh của họ về phía nam. Chúa Trịnh Sâm đã ra lệnh viết cuốn này và in dưới dạng mộc bản vào cuối thập niên 1770, đầu thập niên 1780 - Dutton. Trong số những tướng Trịnh qua đời, có Hoàng Ngũ Phúc, người cầm đầu quân Trịnh đánh vào Thuận Hóa - ND.

Tôi xin cảm ơn Nola Cooke đã nêu lên rằng, đây là danh hiệu cũ của Nguyễn Hoàng. Việc sử dụng những từ như “duke”, như một cố gắng tìm từ song hành của người Âu, rõ ràng là có vấn đề. Tuy nhiên, việc sử dụng cách dịch như thế trong một thời gian dài, cũng như việc thiếu một sự lựa chọn phù hợp, cho thấy rằng cách dịch tốt nhất, cho dù không hoàn hảo, có thể là cách dịch theo tập quán.

Lịch sử Việt Nam đương đại đề cập nhiều đến mỉ quan hệ ban đầu của nhà Tây Sơn với người dân cao nguyên, được diễn tả bằng những chuyện kể dân gian thu thập được. Chẳng hạn như có thể xem: Nguyễn Dương Bình, “Vài suy nghĩ về phong trào nông dân Tây Sơn với các dân tộc ít người và căn cứ địa miền núi", trong: Tây Sơn Nguyễn Huệ (Kỷ yếu hội nghị nghiên cứu phong trào nông dân Tây Sơn), Ty Văn hóa và Thông tin Nghĩa Bình, Qui Nhơn, 25.2-28.2.1978, tr. 142-146. Tuy nhiên, các tài liệu bằng chữ viết rất ít đề cập đến những mối quan hệ ấy, do đó khó mà đưa ra những nhận định dứt khoát về mối quan hệ mà các lãnh tụ Tây Sơn đã khai triển với những nhóm người này.

Quốc sử quán triều. Nguyền, Đại Nam nhất thống chí, tập 3, Phạm Trọng Điềm dịch, Nxb. Thuận Hóa, Huế,, 1996, tr. 143. Chức Chưởng cơ ở đây hình như được sử dụng như một chức danh chính trị chung. Thời điểm của sự chuyển giao không rõ ràng, nhưng có lẽ là vào đầu thập niên 1780.

Không hiểu sao Nguyễn Nhạc lại tự xưng là cha, rồi lại là anh cả của tiểu vương Chăm, có thể là trong hai trường hợp khác nhau chăng? - ND.

Chỉ Nguyễn Nhạc - ND.

Xem: Nguyễn thị Tây Sơn ký, A.3138,sdd, tờ 4b,6a. Để hiểu chi tiết về vị trí này xin xem: Phan Huy Lê, “Di tích thành Hoàng Đế”, trong: Phan Huy Lê, tìm về cội nguồn, Nxb Thế giới, Hà nội 1998, tr 103-123 và Chiêm Thành khảo. A.970 viện Hán Nôm.

Sau khi Nguyễn Nhạc qua đời, cháu kêu ông bằng bác là vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toàn, con trai hoàng đế Quang Trung, chỉ phong người con nối đõỉ của Nhạc là Nguyền Bảo tước Hiếu công, cắt mỗi huyện Phù Ly cho làm thực ấp. Như vậy từ năm 1793, vua Cảnh Thịnh nắm hết quyền hành và đất đai từ Qui Nhơn ra đến đất bắc - ND.

Về chỉ tiết này, có lẽ tác giả đã nhầm, vì vị vua Chăm từng cưới công chúa Đại Việt (như Nguyễn Huệ) là Chế Mân, chứ không phăi Chế Bồng Nga - ND

Việc gọi Nguyễn Nhạc là Thiên Vương tìm thấy trong: Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 93; cũng có trong: Nguyễn thị Tây Sơn ký, A. 3138, sdđ, tờ 5a. Sách Đại Việt sử ký tục biên (sđd, tr. 416-421) miêu tả sự khó chịu của chúa Trịnh trước hành động của nhà Tây Sơn, và cũng ghi lại rằng triều đình nhà Lê tiếp tục ban chiếu chỉ và chức tước cho vị lãnh tụ Tây Sơn.

Cho dù các chúa Nguyễn đã công bố sự tự trị, không lệ thuộc vào nhà Lê từ năm 1744, song họ vẫn tiếp tục sử dụng niên hiệu của vua Lê trong các văn kiện và lịch.

Về việc chúa Nguyễn tiếp tục sử dụng niên hiệu của vua Lê, xin xem: Nola Cooke, “Regionalism and the Nature of Nguyên Rule in Seventeenth-Century Dang Trong (Cochinchina)'', tlđd, tr. 161, ghi chú 201.

Ý tác giả muốn nói đến kinh đô cũ của người Chăm là Vijaya - ND.

Theo lệ của các cung đình thời Lê-Trịnh, triều phục màu vàng chỉ dành cho vua; chúa Trịnh chỉ mặc trang phục màu tía - ND.

"Journal de la Procure de Macao en 1784” (Nhật ký của Quản lý tu viện Macao năm 1784), MEP 306, tr. 928-929. Sự kiện này được miêu tả chỉ tiết ở Chương IV.

“Phù Lê Diệt Trịnh". Đây không phải là lần đầu tiên một biểu ngữ có khẩn hiệu như thế được giương lên ở phía bắc. Trong một chiến địch kéo dài vào những thập niên 1730-1760, Lê Duy Mật đã dùng khẩu hiệu y như thế.

Cảnh Hưng là niên hiệu của vua Lê Hiển Tông (1740-1786) -ND.

Trên thực tế, tuy cùng danh hiệu Đại Nguyên Soái, song chúa Trịnh được phong tước Vương, còn Nguyễn Huệ chỉ được phong tước Quốc công - ND.

“Xem: Nguyễn Thu, Lê quý kỷ sự, Hoa Bằng dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, tr. 39; Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 133; Đại Việt sứ ký tục biên, sđd, tr. 468.

Vài nguồn tư liệu cho rằng Nguyễn Hữu Chỉnh đã gợi ý Nguyễn Huệ đua ra lời xin cầu hôn. Xem: Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 133. Đại Việt sử ký tục biên (sđd, tr. 468) cho rằng Chỉnh thúc giục vua Lê gả công chúa (Ngọc Hân - ND) mà không có lời cầu hôn trước của Huệ; Nguyễn Thu, trong Lê quý kỷ sự (sđd, tr. 39) thì cho rằng Huệ ra lệnh cho Chỉnh gửi lời cầu hôn nhân danh ông.

Đó là Đông cung Nguyễn Phúc Dương, về sau bị chính quân Tây Sơn bức tử - ND.

Về trường hợp này, Dutton đã nhầm giữa Chế Mân và Chế Bồng Nga, như đã lưu ý ở trên. Bà công chúa Việt ở đây là Huyền Trân công chúa - ND.

Đúng ra tên của người cháu vua Lê Hiển Tông là Lê Duy Kỳ, Mãn Đế chỉ là miếu hiệu của ông sau khi chết - ND.

Vua Lê Chiêu Thống sinh năm 1765, lúc lên ngôi cũng đã 21 tuổi - ND.

Có lẽ vì sợ sự đe dọa của quân Tây Sơn, vừa lên ngôi, vua Lê Chiêu Thống đã sử dụng trở lại người của dòng họ Trịnh, phong Trịnh Bồng làm Án Đô vương, tái lập phủ chúa Trịnh - ND.

Từ "kẻ phản bội” dùng ám chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh - ND.

Vài tài liệu của các giáo sĩ Pháp đưa ra giả thuyết là chính công chúa Ngọc Hân thúc ép Huệ ra Bắc trong chiến dịch năm 1787 chống lại Chỉnh. Xem: "Journal de ce qui s’est passe de plus remarquable dans la mission du Tong-king, depuls le mols de juiliet 1786 jusqu'il mols de juillet 1787” (Nhật ký những gì đáng nhớ diễn ra trong chuyến đi Đông Kinh, từ tháng 7.1786 đến tháng 7.1787), MEP 691, tr. 899.

Nhiều tài liệu Việt gọi Võ Văn Nhậm là phò mã (rể vua).

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđd, tr. 511. Nguồn tư liệu này đưa ra giả thuyết là Huệ đã sẵn nghi ngờ Nhậm, cho dù đã cử Nhậm ra Bắc.

Có tài liệu cho rằng một thời gian ngắn trước khi xử Nhậm, Huệ đã nói với Nhậm "về chuyện này không cần phải nói nhiều; ông có tài hơn cả tôi và là vậy, ông không phải là người mà tôi có thể dùng”. Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 2, sđd, tr. 834.

Tướng nhà Thanh tuyên bố rằng đạo quân của ông ta có 500.000 người (Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 2, sđđ, tr. 162). Theo một giáo sĩ châu Âu, con số đó là 36.000. Thư Boisserand gửi Blandin, 14-3.1789, MEP 746, tr. 237. Quách Tấn và Quách Giao (trong: Nhà Tây Sơn, sđd, tr. 122) và Đại Nam liệt truyện (tập 2, sđd, tr. 515) đưa ra con số 200.000. Charles La Mo the, trong một bức thư gửi Blandin, ước lượng quân Thanh 300.000 (Thư La Mothe gửi Blandin, 7.1789, MBP 692, tr. 135).

Vào thời điểm này, đất Gia Định đã nằm trong tay chúa Nguyễn Ánh - ND.

Dù trong chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ mô tả lãnh địa của người anh (Nguyễn Nhạc - NĐ) thu hẹp chỉ còn là phủ Qui Nhơn.

Việc Nguyễn Ánh nhất định tiếp tục sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng (của vua Lê Hiển Tông - ND) tạo được ấn tượng đến nỗi ông được một số quan sát viên đương thời người châu Âu đề cập đến ông bằng cách dùng niên hiệu “Caung Shung”. Xem: John Barrow, A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793, sđd, tr. 256ff.

Trương Bửu Lâm, Partenis of Viemamese Respome to Foreign Interưention, 1858-1900 (Những mô hình phản ứng của Việt Nam trước sự can thiệp từ bên ngoài, 1858-1900), Yale University Southeast Asian Studies, New Haven, Connecticut, 1967, tr. 63-64.

Thư từ vua Quang Trung trao đổi với nhà Thanh có thể đọc trong: Đại Việt quốc thư, sđd, tr. 67.

Đó là sự kiện quân Trịnh dưới sự chỉ huy của tướng Hoàng Ngũ Phúc đánh chiếm kinh đô Huế của nhà Nguyễn - ND.

Tức Thăng Long và Phú Xuân - ND.

Chẳng hạn như Ngô Thì Nhậm là anh vợ Phan Huy ích và học với Lê Quý Đôn. Nguyễn Du là em rể Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?). Ninh Tốn (1743-?), một nho sĩ nổi tiếng đất Bắc, đã nhận được những bài thơ tán tụng hoặc những bài viết giới thiệu tác phẩm văn chương của ông từ các cây bút Phạm Nguyễn Du, Phan Huy ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn (1749-1800), Đoán Nguyễn Tuấn, Nguyên Thế Lịch (1748-1817), và Vũ Huy Đỉnh (1730-1789). Ngoại trừ Vũ Huy Tấn, những người khác đều đã đỗ tiến sĩ. Hoàng Lê (chủ biên), Thơ văn Ninh Tốn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 17.

Khâm định Việt sử thông giám cương mục (tập 2, sđđ, tr. 835) đặc biệt lưu ý việc Huệ ép buộc các quan lại triều Lê ký tờ thỉnh nguyện ông lên ngôi vua. Sách Đại Việt sử ký tục biên (sđđ, tr. 479) chép rằng Huệ triệu tập các quan lại triều Lê lại song không nói đến tờ thỉnh nguyện có tính ép buộc kia. Một nguồn tư liệu kể rằng khi (Bùi Huy) Bích không chịu ký, Huệ lấy làm khó chịu và tìm người khác ký thay. Xem: Trúc Khê, Bùi Huy Bích: Danh nhân truyện ký, Nxb. Hà Nộí, Hà Nội, 1998, ư. 55-56.

Một quan lại có tiếng của nhà Lê là Ngô Trọng Khuê dùng câu này trong một bức thư gửi vua Quang Trung, miêu tả thái độ của nhiều quan lại triều Lê. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 4, sđđ, tr. 41.

Ngô Thì Nhậm, Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển II, sđđ, tr. 124.

Trong các nguồn tư liệu, sách ĐạiNam thực lục (tập Một, sđd, tr. 258) dù không phải là không có thiên kiến, đã viết rằng, hoàng đế nhà Thanh cảm thấy hổ thẹn vì đã bị người Việt đánh bại.

Ám chỉ việc Nguyễn Nhạc gả con gái là Thọ Hương cho hoàng tôn Nguyên Phúc Dương - ND.

Sự thúc đẩy dẫn đến yêu cầu của Nguyễn Huệ được mô tả trong Tây Sơn thuật lược (sđd, tr. 16) khi xảy ra cái chết của một trong những bà vợ chánh của ông vào năm 1791.

(MEP 746, tr. 542), gián tiếp đề cập đến kế hoạch đó, chép rằng vua Quang Trung "có thể dễ dàng làm chủ Trung Quốc”; Thư vô danh gửi Pigneau ngày 7.7.1792 (MEP 313, tr. 983), viết về vua Quang Trang rằng: “ông không tính toán gì hơn ngoài việc chiến tranh với người Tàu".

Attila (406-453) là tên ngưởi lãnh đạo đạo quân Hung Nô, một bộ tộc du mục ở châu Á vào thế kỷ V.

Trong thư, ông giáo sĩ này đã dùng từ “tyran" (bạo chúa) để nói về vua Quang Trung - ND.

Về chi tiết này xem ra tác giả bức thư nói quá đáng, vì theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, đạo quân của vua Quang Trung đã là 10 vạn người, nếu là tỷ lệ 10/1 thì đạo quân Thanh phải 100 vạn, tức 1 triệu người - ND.

Giáo sĩ này là La Mothe, thư gửi cho Blanđin, không rõ vì sao dùng từ “kinh đô của chúng ta" (our Capital). Người thay thế vua Quang Trung đi sứ nhà Thanh được cho là Phạm Công Trị - NĐ.

Thư La Mothe gửi Blandin, 20.1.1790, MEP 692, tr. 158.

Hình như Keith Taylor nhắm đến quan điểm có tính địa phương này trong bình luận của ông về “sự định hướng bề ngoài" của vùng Bình Định và ảnh hưởng của nó lên cái nhìn của anh em nhà Tây Sơn. Xem: Keith Taylor, “Surtace Orientations In Vietnam: Beyond Histories of Nation and Reglon", tlđd, tr. 965.

Thư Le Roy gửi Blandin, 6.1789, MEP692, tr. 112.

Tác giả dùng từ “Todder” (cỏ khô) - ND.

Ý nói chế độ ở Đàng Trong năm 1775 và chế độ ở Đàng Ngoài năm 1788 - ND.

Tức Nguyễn Ánh - ND.

Tất nhiên khó mà xác định qui mô và phạm vi của hành động lẩn tránh này, song sức mạnh tương đối hạn chế của chính quyền địa phương cho thấy rằng loại hành vi này thường xảy ra.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđđ, tr. 49; xem thêm: Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, 1558-1777, sđd, tr. 482. [tàng tật: Nguyên văn trong sách ghi thế (người làm ebook)]

Việc hình thành những phương thức được các cơ chế phân loại dần sử dụng ở phía bắc vào thế kỷ XIX có thể xem trong: Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3, sđd, tr. 48-53.

Thành viên những gia đình trong bộ máy hành chánh-chính trị ở địa phương của họ được miễn nghĩa vụ quân sự.

Mặc dù sự khai thác có hệ thống những người dưới 18 tuổi có vẻ như là sáng kiến của nhà Tây Sơn, có một số chỉ dấu cho thấy rằng những bên khác trong cuộc xung đột cũng sử dụng các binh lính trẻ tuổi, cho dù không thường xuyên như thế. Xem Lê quý dật sử (sđd, tr. 66) miêu tả quân Trịnh trông giống như “những trẻ trâu".

Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 2, sđd, tr. 218.

Xem: Nguyễn thị Tây Sơn ký A. 3138, sđd, tờ 38a; hoặc: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđđ, tr. 531. Tuy nhiên, một thư giáo sĩ vào mùa hè năm 1793 vẫn còn kể về những người được ghi tên trong sổ bộ làng và cấp thẻ căn cước. Thư Le Roy gửi Blandin, 12.7.1793, MEP 692, tr. 482.

Thư Jean-André Doussain gửi ?, 8.7.1787, MEP 746, tr. 205. Không hoàn toàn rõ ràng về tỷ lệ những nguời chết và bị thương và tỷ lệ số người đào ngũ trong quân đội của Nguyễn Nhạc.

Quân đội nhà Nguyễn cũng gặp phải vấn đề đào ngũ. Xem: Quốc sử quán triều Nguyên, Đại Nam thực lục, tập Một, sđđ, tr. 246.

“Joumai de ce qui s’est passe de plus remarquable dans la mission du Tong-king, depuis le mois de juillet 1786 jusqu’a mois de juillet 1787”, MEP690, tr. 899.

Thư Le Roy gửi Biandin, 3.7.1789, MEP 692, tr. 112.

Mặc dù thường được sử dụng như một hình thức trừng phạt hay áp bức trong việc tuyển mộ, việc hành hình binh lính không phải lúc nào cũng được áp dụng cho mục đích này. Thỉnh thoảng, nó được sử dụng thay vì kêu gọi người dân ủng hộ nhà Tây Sơn, như trường hợp chiến dịch năm 1786 ở Đàng Ngoài, trong đó các lãnh đạo Tây Sơn đã hành hình các thành viên trong đạo quân của họ vì những sự mạo phạm thậm chí nhỏ nhất đối với thường dân. Xem: Thư Le Roy gửi Letondal, 6.12.1786, MEP 700, tr. 1307; xem thêm: Thư Gerard gửi Blandin, 31.7.1786, MEP691, tr. 749.

Thư Louis Prançois Le Breton gửi các Giám đốc MEP, 7.1788, MEP 692, tr. 12(8).

Thư Charles - Prançois Langlois gửi ?, 1795, MEP 692, tr. 359.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 186. Sự kiện có vẻ không thật đó cũng được đề cập trong các tài liệu khác vào cuối thế kỷ XIX, kể cả trong các chuyện kể về việc quân lính Việt vào thế kỷ XX ăn các phần cơ thể của kẻ địch (thường là nội tạng).

Thư Sérard gửi Letondal, 26.7.1797, MBP 701, tr. 253 (nhấn mạnh thêm). Nhà Nguyễn cũng sử dụng những cách khích lệ như thế; vào một thời điểm của năm 1788, các quan lại của chúa Nguyễn được cử tham gia vào các chiến dịch, mang theo hàng ngàn giấy thăng thưởng để trống hầu sử dụng ngay tại trận tiền. Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thục lục, tập Một, sđd, tr. 234.

Tạm dịch lần lượt ba từ Colonel (đại tá), Lieutenant-colonel (trung tá), và Major (thiếu tá) trong nguyên tác của Dutton - ND.

Thư Barisy gửi Marquini và Letondal, 16.7.1801, MEP 801, tr. 964.

Tất nhiên việc lao dịch là điều mà người dân phải cam chịu, bất luận kẻ thống trị họ là ai. Nhà Nguyễn bắt người dân sống dưới quyền kiểm soát của họ phải lao động nặng nhọc trong việc xây dựng ngôi thành mới ở Gia Định, và trước đó, họ Trịnh “tuyển mộ” dân Thuận Hóa để làm việc tại các mỏ vàng vào giữa thập niên 1770. Xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 186, 257.

Tất nhiên việc phá hủy các cơ cấu chính quyền đã được thực hiện vì lý đo chính trị hay tượng trưng hơn là chỉ đơn thuần như những hành vi phá hoại bừa bãi. Tuy nhiên, với những người đòi xây dựng lại các kiến trúc này, lý do họ phá hủy trước đó là không phù hợp.

Lorenzo Pérez, “La Révolte et la guerre des Tayson d’après les Franciscains Espagnois de Cochinchine’', tlđd, tr. 76. Nhà Tây Sơn gần như không phải là tổ chức duy nhất có cách hành xử đặc biệt này. Nhà Nguyễn mới thành lập vào thế kỷ XIX cũng phá hủy nhiều kiến trúc có liên quan đến những người tiền nhiệm của họ rồi nhanh chóng sử dụng lao động để tái thiết chúng. Xem: Huỳnh Sanh Thông, “Folk History in Vietnam" (Lịch sử dân gian Vỉệt Nam), Vietnam Forum 5 C1985), tr. 73-74.

Charles Chapman, “Chapmarts narratlve of his mission to Vietnam”, trong: Ahstair Lamb, MandarinRoad to Oid Hue, sđd, tr. 103,105. Đại Nam nhất thống chí (tập 2, sđđ, tr. 271) có kể chuyện một cung điện của chúa Trịnh ở Thanh Hóa bị quân Tây Sơn phá hủy hoàn toàn.

Đúng phải là Lũy Thầy - ND.

Dẫn nhập bài thơ của ông, “Ghi chép công việc mùa xuân, tuần lệnh giám sát công việc đắp đê ở trấn Sơn Nam”, trong: Phan Huy ích, Thơ văn Phan Huy ích, tập II, Dụ Âm ngâm lục, Nxb- Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 147-148.

Có lẽ tác giả muốn nói đến trấn Quảng Nam - ND.

Tức Đà Nẵng - ND.

Nguyên văn của tác giả là "they railied to the soldiers of the king”, theo ngữ cảnh của đoạn vãn này thì từ "king” cần được hiểu là chúa Nguyễn Ánh - ND.

Quân đội Tây Sơn hầu như không giữ độc quyền trong việc cướp phá vào thời kỳ này, vì cuộc chiến qui mô lớn luôn mang theo nó những vấn đề như thế- Quân của chúa Nguyễn cũng phạm tội thường xuyên cướp phá như thế ở dải đất phía nam Đàng Trong, nơi họ hoạt động từ thập niên 1770 đến thập niên 1790. Theo sách Đại Nam thực lục tiền biên, Nguyễn Ánh thường ban hành các chỉ dụ trong nỗ lực ngăn chặn nạn cướp phá và quấy nhiễu dân địa phương (các chỉ dụ liên quan đến việc cướp phá được ban hành vào những năm 1788, 1792 và 1793), sự lặp đi lặp lại chứng tỏ sự tương đối kém hiệu quả của chúng.

Ở đây, tác giá dùng từ Cochinchinese (Đàng Trong) để phân biệt với Đàng Ngoài (Tonkin hay Dong Kinh) là nơi quân Tây Sơn ra đánh chiếm - ND.

Thư Eyot gửi Grinne, 5.7.1789, MEP 692, tr. 123. Những tài liệu khác về sự cướp phá của quân Tây Sơn, xem: Thư Le Breton gửi các giám đốc MEP, 7.1788, MEP 692, tr. 12(7); Nhật ký về những điều đáng chú ý nhất diễn ra trong phối bộ Đàng Ngoài, MEP 691, tr. 898.

Xem: Thư Le Roy gửi ?, 26.7.1787, MEP 691, tr. 827-828. Mỉa mai thay, một số chuông chùa được chế tạo thời Tây Sơn đã được mang đi giấu để tránh các chiến dịch sau đó của chúa Nguyễn nhằm tiêu hủy vết tích của những người đi trước. Xem: Phạm Thúy Hằng - Trần Thu Hương, “Phát hiện quả chuông Cảnh Thịnh ở chùa Phương Trì Đại Phùng", trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1985, Viện Khảo cổ học, Hà Nội, 1985, tr. 223.

Tức La Sơn phu tử (1723-1804), từng được Bắc Bình vương Nguyễn Huệ bốn lần gửi thư mời đến hội kiến, ba lần đầu cụ từ chối, không đến, lần cuối cùng cụ đến và sau đó thẳng thắn khuyên Huệ không nên lập kinh đô ở Nghệ An. Năm 1802, sau khi thống nhất đất nước, chúa Nguyễn Ánh - vua Gia Long cho cụ được về quê an dưỡng - ND.

Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, sđđ, tr. 141.

Thư Sérard gửi Letondal, 9.6.1793, MEP 700, tr. 1513.

Phan Huy Lê, “Có một bộ luật đời Tây Sơn”, trong: Nam Hà - Vũ Minh Giang – Nguyễn Đổng Chi, Góp phần tìm hiểu phong trào nông dân Tây Sơn Nguyễn Huệ, sđd, tr. 182-190. Hình như bộ luật này còn tồn tại vào thập niên 1960, được một người trong gia đình đang gìn giữ nó dùng làm giấy vấn thuốc một cách vô tâm.

Bùi Dương Lịch, Lê quý dật sử, sđd, tr. 104-106.

Thư Le Pavec gửi cha mẹ, 7.4.1797, Nouvelles lettres, tập 7, tr. 383-384.

Thư Sérard gửi Blandin, 3.12.1786, MEP691, tr. 756; Thư Sérard gửi Blandin, 20.8.1787, MBP 691, tr. 793; Thư Gerard gửi Blandin, 12.7.1789, MBP 692, tr. 137, miêu tả tình trạng hỗn loạn và sự kháng thuế nổi lên tiếp theo sự xâm chiếm của nhà Tây Sơn.

A. Richard, Histoire naturelle, civile et politique du Tonkin (Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị ở Đàng Ngoài), Chez Moutard, Paris, 1778, tr. 225.

Nhà tiên tri người Pháp (1503-1566), rất nổi tiếng ở phương Tây - ND.

Bản văn này cũng được nhắc đến vào cuối thế kỷ XIX, Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 3, sđd, tr. 68.

Cả hai sự kiện này được nhắc đến trong: Bùi Dương Lịch, Lê quý dật sử, sđd, tr. 53.

Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ, Hoa Bằng - Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr. 546; xem thêm: Ngô Gia Vãn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, tập 1, sđd, tr. 99-100. Một trượng dài gần 4m - Dutton.

Đoạn này trích từ sách Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng (hay Lê Cao Lãng), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Đoạn trích trên của sách Lịch triều tạp kỷ ở trang 546 được tác giả Dutton dịch ra tiếng Anh in trong nguyên tác. Ở đây, thay vì dịch đoạn này từ tiếng Anh ra tiếng Việt trở lại, có thể làm lệch ý phần nào, chúng tôi phục hồi toàn bộ phần tiếng Việt trong sách Lịch triều tạp kỷ, đoạn mà Dutton đã dịch ra tiếng Anh. Ngoài ra, Dutton cũng đã dịch sai từ "em rể" trong Lịch triều tạp kỷ (tr. 543-547) thành "nephew" (cháu trai) - ND.

Giải nghĩa của tác giả Dutton, không chắc đúng hoàn toàn theo ý nghĩa câu chữ Hán - ND.

Thật ra, theo Lịch triều tạp kỷ là chữ “tố" chứ không phải “tổ", kết hợp với chữ “tư" thành chữ “tế" là con rể, song Dutton đã dịch sai thành anh (em) rể. Đây là chỉ nhân vật có tên Đặng Bảo, được tướng Trịnh là Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc nhận làm con nuôi và cho đổi tên là Hoàng Tố Lý, sau được chúa Trịnh Doanh gả con gái cho – ND.

Không hiểu sao tác giả Dutton dịch chữ "diệu” là "sheep” (con cừu) - ND.

Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ sđd, tr. 465.

Có lẽ là chữ “tam” và chữ "thủy” - ND.

Có lẽ là chữ "thập tứ” và chữ “thất" - ND.

Tác giả củng dùng hai từ "Chiếu” và “Thông” - ND.

Bùi Dương Lịch, Lê quý dật sử, sđd, tr. 76.

Phạm Văn Đang, Văn học Tây Sơn, sđd, tr. 27. Thật vậy, chính quyền Trung Quốc tiếp tục sử dụng những từ đồng âm trong ngôn ngữ của họ để soạn thảo những tuyên ngôn chính trị. Trong những thập niên 1980 và 1990, người dân có thể ném đi hay làm vỡ những hình nhỏ chốn công cộng như một hình thức phản đối chính trị, vì từ “tiểu bình" đồng âm với tên (Đặng) Tiểu Bình, nhà lãnh đạo chính trị Trung Quốc lúc bấy giờ.

Charles Chapman, “Chapman’s narrative of his mission to Vietnam”, trong: Alistair Lamb, Mandarin Road to Old Hue, sđd, tr. 102.

Xem: Sử ký Đại Nam Việt quốc triều, sđđ, tr. 39, miêu tả việc cướp bóc và đốt phá bừa bãi của quân Tây Sơn, và chép rằng hai trấn bị nặng nhất là Thanh Hóa và Nghệ An.

“Trích đẫn một bức thư của Giám mục de Veren, người phụ tá của Giám mục Bá Đa Lộc, đề ngày 23,7.1788”, MEP 306, tr, 1007.

Thư Sérard gửi Descourvières, 2.5.1791, MEP 692, tr. 279-

Chúa Nguyễn ở đây là Nguyễn Phúc Ánh - ND.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 283.

Vô Danh Thị, Tây Sơn thuật lược, sđd, tr. 18 - Dutton.

Thư Le Labousse gửi ? tr 24.4.1800, MEP746, tr. 875.

Tác giả viết là Saygon, xét ra không có thành phố nào khác hơn là Sài Gòn - ND.

Xem: Nguyễn Bá Huân, Tây Sơn văn thần liệt truyện, sđd; Nguyễn Bá Huân, “Cân quắc anh hùng truyện”, trong: Phan Huy Lê, Tư liệu về Tây Sơn-Nguyễn Huệ trên đất Nghĩa Bình, sđđ. Cả hai được viết vào thế kỷ XIX để vinh danh nhà Tây Sơn. Dân chúng cũng bắt đầu xây dựng đền thờ anh em Tây Sơn, một việc đã bị các vua triều Nguyễn cấm đoán dứt khoát. Xem: Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn, sdđ, tr. 250-251.

Chẳng hạn các cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật, Nguyễn Hữu cầu, Hoàng Công Chất, tất cả đều có sự liên kết chặt chẽ giữa các lãnh tụ cuộc nổi dậy với các nhóm ở vùng cao. Xem: Lê Thành Khôi, Histoire du Viet Nam, des origines à 1858, sđd, tr. 306-308.

Để bàn thêm về mối quan hệ này, xin xem: Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, 1558- 1777, sđd, tr. 510-518; Li Tana, Nguyễn Cochinchina : Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, sđd, tr. 119-138.

Xem: Trương Hữu Quýnh (chủ biên),Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 416; Ván Tân, Cách mạng Tây Sơn, sđd, tr. 214-215; Lịch sử Vỉệl Nam, sđđ, tr 338-339.

Xem: Hoa Bằng, Quang Trung: Anh hùng dân tộc, 1788-1792, sđd, tr. 292; Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn, sđd, tr. 148; Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, sđd, tr. 167, 214.

Các quan chức Việt Nam dùng nhiều từ ngữ khác nhau để miêu tả Cơ Đốc giáo như đạo Hoa Lang, đạo Thiên Chúa, và đạo Cơ Đốc.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi giáo sĩ này tên I-nê-khu - ND.

Để xem một miêu tả ngắn về Cơ Đốc giáo trong thời kỳ đầu, và đặc biệt về vai trò của de Rhodes, xin xem: Peter Phan, Mission and Catechesis: Alexanđre de Rhndes and Inculturation in Seventeenth-Century Vietnam (Hội truyền giáo và giáo lý vấn đáp: Alexandre de Rhodes và hội nhập văn hóa tại Việt Nam thế kỷ XVII), Orbis Books, Maryknoll, New York, 1998, tr. 8-13 - Dutton.

Trên thực tế, de Rhodes chỉ ở Đàng Trong những năm 1824-1627 và 1640-1645; ở Đằng Ngoài những năm 1627-1630, khoảng thời gian từ năm 1630 đến 1640, ông sống ở Macao - ND.

Alain Forest, Les Missionaires français au Tonkin et au Siam, XVIIe-XVIIIe siècles, livre 2, Histoires du Tonkin (Các giáo sĩ Pháp ở Đàng Ngoài và ở Xiêm, thế kỷ XVII-XVIII, quyển 2, Những câu chuyện ở Đàng Ngoài), L’Harmattan, Paris, 1998, tr. I73ff.

Tác giả dùng cụm từ "Portuguese religion", song trên thực tế, triều Lê-Trịnh gọi Cơ Đốc giáo là “đạo Hoa Lang”, do họ tưởng tôn giáo này do người Hà Lan du nhập vào nước ta - ND.

Việc cấm đạo được lặp đi lặp lại vào những năm 1712,1721,1750,1754,1761,1765, và 1776 chứng tỏ sự kiên trì của một số người ủng hộ đức tin và sự quyết đoán của các giáo sĩ châu Âu. Xem: Alain Forest, Les Missionaires français au Tonkin et au Siam, XVIIe- XVIIIe siècles, livre 3, Organiser une église convertir les infidèles (Các giáo sĩ Pháp ở Đàng Ngoài và ở Xiêm, thế kỷ XVII-XVIII, quyển 3, Tổ chức một giáo hội cải đạo cho những người ngoại đạo), L’Harmattan, Paris, 1998, tr. 331.

Tác giả viết là Trịnh Dinh - ND.

Có thể tìm thấy phần tóm lược hữu ích về những giáo sĩ châu Âu quan trọng tại triều đình Việt Nam trong: Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, 1558-1777, sđd, tr. 589-590; cũng xin xem: Alain Porest, Les Missionaires français au Tonkin et au Siam, XVIIe-XVIIIe siècles, quyển 3, Organiser une église convertir les infìdèles, sđd, tr. 287ff, bao gồm một danh sách các giáo sĩ và những dòng tu họ thống thuộc.

Chúa Nguyễn Phúc Khoát ở ngôi 27 năm, từ năm 1738 đến 1765 là năm ông qua đời - ND.

Con số này có vẻ quá đáng, vì hơn 100 năm sau (1784), dân số Đàng Ngoài chỉ ước tính khoáng 10-15 triệu người- Mặt khác, nó cũng không hợp lý khi so sánh với số tín đồ Cơ Đốc giáo ở những vùng khác - ND.

Thư Mevere gửi Lacere, 9.6.1754, MEP 700, tr. 221-222. Đôỉ lúc xảy ra những cuộc tranh cãi giữa các giáo sĩ về sự ghi chép số người việt theo Cơ Đốc giáo, và các con số ước tinh rất khác biệt nhau.

Trong tác phẩm Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (sđđ, tr. 171), Li Tana ước lượng vào năm 1750, dân số Đàng Ngoài khoảng 5,6 triệu người. Ở một mức cao hơn là ước lượng ghi trong tác phẩm của Porest (Les Missionaires français au Tonkin et au Siam, XVIIe-XVIIIe siècles, quyển 2, Histoires du Tonkin, sđđ, tr. 56), biến thiên giữa con số 6 và 10 triệu người vào đầu thế kỷ XVIII. Anthony Reid cũng đưa ra con số ước lượng ở cả miền Bắc và miền Trung gần 7 triệu người vào năm 1800, cho dù đã qua 30 năm chiến tranh. Anthony Reid, Southeast Asia in the Age of Commerce (Đông Nam Á trong thời kỳ giao thương), tập I, The Lands beloiw the Winds (Đất lành dưới gió), Yale University Press, New Haven, Connecticut, 1988, tr. 14.

Thư của Haibout được kể lại trong một thư của Labartette gửi Boiret, 21.7.1775, MRP 745, tr. 751.

Để thảo luận (chủ yếu trên cơ sở Đàng Ngoài) về thái độ của giới giáo sĩ đối với người được xem là nhà cai trị “hợp pháp", xin xem: Alain Porest, Les Missionaires français au Tonkin et au Siam, XVIIe-XVIIIe siècies, quyển 2, Histoires du Tonkin, sđd, tr. 247.

P. Loienzo Pérez, "La Révoite et la guerre des Tayson d’après les Pranciscains Espagnols de Cochinchine”, tlđd, tr. 91.

Chi tiết về đoạn này có thể đọc trong: P. Lorenzo Pérez, "La Révoite et la guerre des Tayson d'aprèsles Pranciscains Espagnols de Cochmchine”, tlđd, tr. 90-91; cũng có thể xem bản sao một bức thư của Pigneau gửi cho Descourvières, viết từ Bangkok ngày 5.10.1783, MEP 800, tr. 1784-1785.

“Journal de la Procure de Macao en 1784” (Nhật ký của vị linh mục ở Macao năm 1784), MEP306, tr. 928-929 (phân đoạn thêm vào cho rõ nghĩa).

Chỉ dụ đề năm thứ 9 triều Nguyễn Nhạc, ngày 4 tháng 10; toàn văn bằng tiếng Pháp có thể tìm ở MEP 691, tr. 1035.

Được ghi lại trong một thư vô danh, không đề ngày, có lẽ vào năm 1787, MEP 691, tr. 1051,

Thư Longer gửi Dufresse, 1.5.1786, MEP 801, tr. 116, Cái cách trả tiền để đổi lấy tự do không xuất phát từ thời Tây Sơn. Luật dân sự xưa của người Việt, cũng như luật của người Trung Quốc, chứa đựng những điều khoản như thời hạn trả tiền để hình phạt được chuộc bằng một khoản tiền nhất định, về truyền thống pháp lý Việt Nam, xin xem: Nguyễn Ngọc Huy - Tạ Văn Tài, The Lê Code: Lam in Traditional Vietnam, tập 1, sđd,tr. 115,116

“Trích nhật ký của Giám mục Ceram, Khâm mạng Tòa thánh tại vùng phía tây Đàng Ngoài, từ tháng 6-1784 đến tháng 5.1785”, Noiivelles lettres, tập 6, tr. 384.

Thư Longer gửi cho Đufresse, 1.5.1786, MEP 801, tr. 11.

Thư Longer gửi Dufresse, 1.5.1786, MEP801, tr. 117.

Thư Longer gửi Letondal, 9.8.1786, MEP 801, tr. 131.

Thư Gerard gửi Blandin, 31.7.1786, MEP 891, tr, 744bis. Đoạn này rất giống với đoạn được nhắc đến trong tài liệu năm 1784, và có thể rằng chúng y như nhau, mặc dù sự cách nhau hai năm khiến người ta có thể nghĩ rằng chúng là hai sự kiện riêng biệt.

ThưLe Labousse gửi Boiret, 13.5.1795, MEP 746, tr. 473.

Le Roy có kể chuyện rằng Nguyễn Hữu Chỉnh được cho là một người Cơ Đốc giáo (Thư Le Roy gửi Alary, 10.7.1787, MEP 691, tr. 705), nhưng rồi có một thư khác xác nhận ông không phải như thế (Thư Le Roy gửi?, 27.7.1787, MEP 691, tr. 828).

Sử ký Đại Nam Việt quốc triều, sđd, tr. 56. Ông cũng khai triển kế hoạch cữ Girard làm phái viên đến tiếp xúc với các thương nhân ở Macao hoặc Manila (Philippines) để thúc giục họ buôn bán trên những lãnh thổ do nhà Tây Sơn kiểm soát.

Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản, con trai vua Quang Trung Nguyễn Huệ - ND.

La Mothe trong một thư đề ngày 31.3.1795, MEP 692, tr. 625,

Đây chỉ Bùi Đắc Tuyên - ND.

Nguyễn Triệu, “Ông Tín (1768-1799)", Trí Tân tạp chí, 11.1941, tr. 11. Trong các câu chuyện kể, ông Tín từng gợi ý chúa Nguyễn sử dụng những quả bóng đựng khí nóng thả chất gây cháy nổ xuống một thành của Tây Sơn vào đầu thập niên 1790.

Cảnh Thịnh triều công văn, Vht. 45, Viện Hán Nôm, Hà Nội

Để có thể thảo luận một cách sâu sắc và sáng tỏ về vấn đề bộ tộc trong giai đoạn này, xem: Li Tana, "The Water Prontier: An Introduction” (Biên giới nước: Dẫn nhập), trong: Nola Cooke - Li Tana (đồng chủ biên), Water prontier: Commerce and the Ckinese in the Lower MekongRegion, 1750- 1880 (Biên giới nước: Thương mạị và người Hoa ở vùng hạ lưu sông Mekong, 1750-1880), Rovraian and Littleheld, 2004, Lanham, Maryland, 2004, tr. 5-87

Để có thể thảo luận kỹ về những từ này và các nhóm người Hoa đặc biệt, có thể xem: Choi Byung Wook, Southern Vietnam under the reign of Minh Mang (1820-1841): Central Policies and Local Response (Đất Nam kỳ dưới triều Minh Mạng (1820-1841): Chính sách của triều đình và phản ứng của địa phương), Southeast Asia Program Publication, [Cornell University], Ithaca, New York, 2004, tr. 38-41.

Điều đáng ngạc nhiên là sự nghiên cứu về lịch sử người Hoa tại Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Có những tài liệu tham khảo hữu ích sau: Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteentk Centuries, sdđ; Chen Chingho (Trần Kinh Hòa), Historical notes on Hoi An (Ghi chép lịch sử về Hội An), Monograph Series 4, Center for Vỉetnamese Studies, Southern Illinois Ưniversity, Carbondale, 1973; Thomas EngeiberL, Die Chinesische Minderheit im Suden Vietnams (Hoa) als Paradigma der kolanialen und nationalistischen Nationalitatenpolitik, Peter Lang, Frankfurt, tr. 2002, trong đó các trang 110-117 trực tiếp đề cập đến người Hoa trong thời Tây Sơn; Nguyễn Thế Anh, “Limmigration chinoise et la coionisation du Delta du Mékong" (Sự di dân của người Hoa và việc định cư tại châu thổ sông Cửu Long), Vietnam Revieiu 1 (Autumn-Winter 1996), tr. 154-177; Yang, Conlribution à Vhistoire de la principauté des Nguyên au Vietnam méridional (1600-1775), Editions Olizane, Geneva, 1992, tr. 165-174. Sách của Nola Cooke và Li Tana nhan đề The Water prontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1880 cũng bao gồm nhiều nghiên cứu về người Hoa ở Việt Nam.

Li Tana trong "The Water Prontier: An Introduction" (sđd, tr. 6) cho rằng những từ này, như nhiều từ khác về người Hoa, hay thay đổi và có thể sử dụng theo nhiều cách khác nhau, trong những thời điểm khác nhau.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 91. Engelbert chép rằng vào giữa thập niên 1640, đã có sẵn nhiều khu định cư nhỏ của người Hoa ở đó rồi, đo đường sá và các cơ cấu thương mại đang tồn tại. Xem: Thomas Engelbert, Die Chinesische Minderheit im Siiden Vietnams (Hoa) als paradigma der kolonialen und nationalistischen Nationalitatenpolitik, sđđ, tr. 88.

Yang (trong: Contribution à 1’histoire de la pnncipauté des Nguyên au Vietnam méridional (1600-1775), sđđ, tr. 199) cung cấp một bản đồ những khu định cư của người Hoa ở Đàng Trong vào năm 1770, cho thấy phần lớn cộng đồng người Hoa tập trung theo nguồn gốc xuất phát của họ, chẳng hạn như người Phúc Kiến sống ở Hội An-Đà Nẵng, người Quảng Đông sống ở khu vực Gia Định-Hà Tiên ở phía nam.

P. Lorenzo Pérez, “LaRévolte et la guerre des Tayson d’après les Pranciscains Espagnois de Cochinchine”, tlđd, tr. 68.

Ý tưởng về việc các cá nhân được đưa vào quân đội “riêng” không phải tà không đúng vào thời kỳ này. Quân nhà Nguyễn cũng có sự kết hợp của những đạo quân bán tự trị được chỉ huy bởi những nhân vật quân sự nổi tiếng, hơn là một lực lượng đơn lẻ và đồng nhất.

Chẳng hạn, có thể xem: Mary Somers Heidhues, “Chinese Organixations in West Borneo and Bangka: Kongsi and Hui” (Các tổ chức của người Hoa ở Tây Bomeo và Bangka: Kongsi và Hui), trong: David Ownby - Mary Somers Heidhues (đồng chủ biên), "Secret Societies” Reconsidered; Perspectives on the Soclai History of Modem South China and Southeast Asia (Nhìn nhận lại vấn đề ‘'Hội kín”: Viễn cảnh của lịch sử xã hội vùng Tân Hoa Nam và Đông Nam Á), M.E. Sharp, Armonk, New York, 1993, tr. 68-88.

Một tiểu sử của Đỗ Thanh Nhân có thể xem: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, tập 2, sđđ, tr. 468-470; cuối cùng thì Nhân có mâu thuẫn với Nguyễn Ánh và chúa Nguyễn đã sát hại ông vào năm 1781 để nắm lấy đạo quân Đông Sơn của ông.

Thư Halbout gửi giám đốc MEP tháng 7.1775, được dẫn trong: Thư Labaiteite gửi Boiret, 21.7.1775, Nouvelles lettres, tập 6, tr. 288.

P. Lorenzo Pérez, “la Révolte et la guerre des Tayson ctaprès les Franciscalns Espagnols de Cochinchine", tlđd, tr. 85.

Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, tập Một, sđd, tr. 189. Có thể xem một cuộc thảo luận chi tiết về vai trò của Lý Tài và Tập Đình trong lực lượng Tây Sơn vào những năm đầu của cuộc nổi dậy trong: Choi Byung Wook, Southern Vietnam Under the reign of Minh Mang (1820-1841): Central Policies and Local Respome, sđd, tr. 36-37.

P. Loreiuo Pérez, “La Révolte et la guerre des Tayson d’après les Franciscains Espagnols de Cochinchine”, tlđd, tr. 80. Mặc dù thành phố này không được nêu rõ tên, song vãn cảnh cho biết đó là Tourane (Đà Nẵng). Xem thêm thư của F. Castuera trong: P. Lorenzo Pérez, "La Révolte etla guerre des Tayson d’après les Pranciscains Espagnols de Cochinchine", tlđd, tr. 91.

Lorenzo Pérez ("La Révolte et la guerre des Tayson d’après les Franciscains Espagnois de Cochmchine”, tlđd, tr. 87) đưa ra số người chết là 4.000; trong khi tài liệu có vẻ không chính xác của John Barrow vào thời kỳ này đưa ra một con số lớn hơn là 20.000 người chết (John Barrow, A Voyage từ Cochinchina in the Years 1792 and 1793, sđd, tr. 250).

Viên tướng này tên Phạm Ngạn" ND.

Một số bản văn đã bỏ quên sự kiện quan trọng này trong thời kỳ Tây Sơn, bao gồm: Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, sđđ; Đào Duy Anh, Lịch sử Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002; Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, sđd.

Tức Đồ Bàn hay Chà Bàn-ND

Bửu Cầm, “Một đoạn lịch sử Chiêm Thành”, Văn hóa nguyệt san 36, Sài Gòn, 11.1958, tr. 1247.

Tên của họ đã được nói tới và giai đọạn này được Tạ Chí Đại Trường mô tả trong: Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, sđd, tr. 239.

Ở điểm này, có vẻ như tác giả Dutton có đôi chút mâu thuẫn khi ngay trước đó, ông khẳng định rằng từ năm 1787, "điều này đánh đấu sự kết thúc của bất cứ sự tồn tại nào của nhà Tây Sơn tại vùng đất cực nam" - ND.

Dutton cũng đã nhầm ở chi tiết này khi cho rằng ốc Nha Long là tên đầy đủ của một người. Trên thực tế, “ốc nha” là một chức quan của người Khmer tương tự quan tri phù hay quan trấn thủ của ta. Như vậy, “ốc Nha Long" là quan Ốc nha (hay quan trấn thủ) tên Long. Tương tự nhu thế, khi Mạc Cửu mang quân đầu phục triều đình Chân Lạp, Ông được phong chức Ốc nha phủ Sài Mạt, sau là Hà Tiên thuộc về việt Nam - ND.

Để có một cuộc thảo luận ngắn về cách hành xử của nhà Nguyễn đối với người Khmer trong giai đoạn này và vào đầu thế kỷ XIX, xin xem: Choi Byung Wook, Southern Vietnam under the reign of Minh Mang (1820-1841): Central Policies and Local Response, sđd, tr. 33-35.

Không phải tất cả những nhóm này đều xuất thân từ vùng cao nguyên. Li Tana đã lập luận rằng một số người đã di chuyển đến những vùng xa xôi hơn để thích ứng với áp lực buộc những di dân người Việt phải đi về phương Nam trong quá trình bành trướng về mặt địa lý và dân số của nhà Nguyễn (Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centunes, sđd, tr. 34-35). Tác giả Phan Khoang trong Việt sử xứ Đàng Trong, 1558-1777 (sđd, tr. 511) có chép rằng người Chăm là một trong nhũng nhóm người đi chuyển lên cao nguyên.

Nguyên văn, không rõ vùng đất này nằm ở đâu - ND.

Thư Le Koy gửi Blandin, 6.12.1786, trong: Léopold Cadière, “Documents relatifs a tépoque de Gia-Long", tlđd, tr. 8. Một thư năm 1790 cũng chép rằng quân Tây Sơn bao gồm “người Ấn Độ, người Hoa, người Xiêm và người Bồ Đào Nha". Thư La Mothe gửi Blandin, 20.1.1790, MEP 692, tr. 158.

Một tướng giỏi của chúa Nguyễn Ánh - ND.

Thư Le Labousse gửi Boiret, 20.6.1792, MEP746, tr. 371.

Masaya Shiraishi, “State, Viilagers and Vagabonds: Vietnamese Rural Society and the Phan Bá Vành Rebellion" (Nhà nước, Dân làng và những kẻ sống lang thang; Xã hội nông thôn Việt Nam và cuộc khởi loạn của Phan Bá Vành), trong: Andrew Turton - Shigeharu Tanabe (đồng chủ biên), Hitory and Peasant Consciousness in Southeast Asia, National Museum of Ethnology, Osaka, 1984 tr. 352.

“Trích nhật ký của Giám mục Ceram, Khâm mạng Tòa thánh tại vùng phía tây Đàng Ngoài, từ tháng 6.1784 đến tháng 5.1785", Nouvelles lettres, tập 6, tr. 392-393.

Elizabeth J. Perry, Rebeb and Revolutionaries in North China, 1845-1945 (Những cuộc nổi loạn và cách mạng tại Bắc Trung Quốc những năm 1845-1945), Stanford University Press, Stanford, Calitomia, 1980, tr. 72. Xem thêm: George Dutton, “The Fat Sheep with the Precious Wool: Bandit Kidnapping of Poreigners in 1920’s China" (Cừu béo và Len quý: băng nhóm bắt cóc người nước ngoài tại Trung Quốc thập niên 1920), bản thảo, 1992, tr. 9.

Chi tiết về Nguyễn Nhạc tìm thấy trong một thư do tướng Trịnh (Hoàng Ngũ Phúc - ND) gửi cho chúa Nguyễn. Thư này được chép lại trong: Lê Quý Đôn toàn tập, tập I. Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 312.

Robert Aniony, Lite Froth Ploating on the Sea: The world of Pirates and Seafarers in Late Imperial South China (Giống như bọt váng trên biển: Thế giới của hải tặc và người đi biển trong đế quốc cuối cùng của Nam Trung Hoa), China Research Monograph, no. 56, Institute of East Asian Srndies, University of Caiifornia, Berkeley, 2003, tr. 41.

Jonathan spence, in Search of Modern China (Đi tìm một Trung Hoa hiện đại), w. w. Norton, New York, 1990, tr. 121.

Nguyên văn: Jiang-ping - ND.

Chưa rõ là địa danh nào của Việt Nam ngày nay - ND.

Dian Murray, Pirates of the South China Coast 1790-1810, sđđ, tr. 18-19. Việc phân chia lãnh thổ ở khu vực biên giới rất mơ hồ, và một vài viên chức ở vùng biên có năng lực ở cả hai cơ cấu hành chánh Việt Nam và Trung Quốc. Xin xem: Thư Gortyne gửi Boiret, 21.10.1792, MEP 692, tr. 375.

Dian Murray, Pirates of the South China Coast 1790-1810, sđd, tr. 17.

Chỉ dụ này có tên là Chiếu Dụ Giặc Tàu ô - ND.

Xem: Ngô Thì Nhậm, "Chỉ dụ thứ hai kêu gọi hải tặc”, trong: Ngô Thì Nhậm, Hàn các anh hoa, Trần Lê Hữu dịch, VT. 17, Khoa Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 17ff.

Dian Murray, Plrates ofthe South China Coast 1790-1810, sđd, tr. 35. Bà cho rằng vào lúc ấy, Thiên Bảo đang câu cá ở khu vực quanh Hà Nội. Nếu điều này đúng, thật khó mà xác định rằng nhà Tây Sơn, trong lúc còn bám chặt vùng đất phía nam Phú Xuân, lại có thể bắt giữ ông ta vào năm đó, ngoại trừ trường hợp có lúc nào đó, ông ta đi xa về phía nam.

Nguyên văn: Liang Gui-xing - ND.

Ý nói phía bắc của thủ phủ Qui Nhơn - ND.

Nguyên văn: Mo Guanfu - ND.

Nguyên văn: Wushi Er - ND.

Nguyên văn: Zheng Qi - ND.

Điều này đặc biệt quan trọng sau năm 1792, khi phần lớn thủy quân Tây Sơn bị thiêu hủy tại cảng Thị Nại trong một cuộc tấn công của quân Nguyễn.

Phải đến năm 1810, phần lớn hải tặc Trung Hoa mới bị tiêu diệt, nhờ nỗ lực phối hợp bởi các chính quyền Trung Hoa, Bồ Đào Nha ở Macao và nhà Nguyễn tân lập. Xem: Pierre-Yves Manguin, Les Nguyễn, Macau et le Portugal: Aspects politiques et commerciaux d’une relation privilégiée en Merde Chine 1773-1802, sđd, tr. 104.

Nguyên văn "the big boss of Yueh Nan", có lẽ cách gọi này có về sau, vì mãi đến năm 1804 mới có danh xưng Việt Nam - ND.

Nguyễn thị Tây Sơn ký [qn], DC. 112, sđd, tr. 45; xem thêm: Bùi Dương Lịch, Lê quý dật sử, sđd, tr. 105 - Duttors.

Xem: Văn Tân, “Quốc sử quán triều Nguyễn đối với khởi nghĩa Tây Sơn", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 65 (8.1964), tr. 14-21; Duy Minh, “Vài ý kiến về cuốn Tây Sơn thủy mạt khảo của Đào Nguyên Phổ”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 83 (2.1966), tr. 46- Việc bình phẩm về từ này cũng không được nêu rõ trong việc sử dụng một cách thận trọng các trích dẫn xoay quanh nó ở một vài bản dịch các văn bản của triều Nguyễn bằng chữ quốc ngữ. Có thể xem cách giải thích ti mỉ hơn về sự sử dụng từ này trong; Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ, sđd, tr. 486, ghi chú 7.

Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese Modeỉ: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Halfof the Nineteenth Centuiy, sđd, tr. 17.

Niên hiệu mới của vua Cảnh Thịnh từ năm 1801 - ND.

Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tập 2, sđd, tr. 170.

Lê Thành Khôi trong Histoire du Viet Nam, des origines à 1858 (sđđ, tr. 377 ff) có đề cập đến một số cuộc thảo luận về thuế khóa và những nghĩa vụ khác do triều Nguyền đặt ra và phản ứng của giới nông dân Việt Nam. Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược (tập 2. sđd, tr. 173ff) trình bày một cuộc thảo luận chi tiết hơn về vấn đề lao dịch và thuế khóa, nhưng từ cái nhìn của nhà nước.

Alexander Woodside, Vietnam and the Ckinese Model: A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century, sđd, tr. 135; Lê Thành Khôi, Histoiredu Viet Nam, des origines à 1858, sđd, tr. 382. Để có một tài liệu mô tả chi tiết về một cuộc nổi dậy chống lạỉ triều Minh Mạng, tiêu biểu cho các lực lượng chống nhà Nguyễn, xin xem: Masaya Shiraishi, “State, Villagers and Vagabonds: Vietnamese Eural Society and the Phan Bá Vành Rebellion”, tlđd, tr. 345-400.

Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese Model:A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century, sđđ, ư. 133. Alexander Woodside ghi chép rằng nhà Nguyễn đã có nhiều nhượng bộ với chính quyền phương Bắc và Thăng Long vẫn còn giữ vị trí ưu thế cho dù không còn là kinh đô nữa.

Có lẽ tác giả Dutton muốn ám chỉ những thập niên 1800 và 1810, vua Gia Long lập ra Bắc Thành gồm 11 trấn và Gia Định Thành gồm 5 trấn, đặt dưới sự cai trị của các tổng trấn có nhiều quyền uy, mà các tác giả Pháp thường ghi chức vụ của họ là “vice-roi" (phổ vương) - ND.

Alexander Woodsiđe đã lập luận rằng mặc dù có sự quan ngại về chủ nghĩa địa phương, song những điều này đã giảm sút từ năm 1802 đến những năm 1840 (Xem: Alexander Woodside, Vietnam and the Chinese Model: Á Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Centmy, sđd, tr. 135). Trong lúc các khu vực hành chánh đặc biệt ở phía nam và phía bắc bị giải thể vào năm 1831 (ý Dutton muốn nói tới hai tổ chức Bắc Thành và Gia Định Thành bị lần lượt bãi bỏ vào năm 1831 (Bắc Thành) và 1832 (Gia Định Thành) - ND), và vai trò mạnh mẽ của vua Minh Mạng đã giúp cải tiến tình hình, tinh thần địa phương vẫn còn tồn tại, và trong mọi trường hợp, nó trở thành một nhân tố đặc biệt quan trọng vào những thập niên tiếp sau nhà Tây Sơn.

VCTVEGROUP

Nguồn sách và PDF: Nhantinh

Text và Ebook: Bọ Cạp

2019

Báo cáo nội dung xấu