Dặm đường vàng - Chương 07

Chương 7

Tiếng động lại vọng
đến, lần này to hơn, kèm theo tiếng lọc cọc. Các cô gái nhìn nhau lo lắng,
nhưng nỗi căng thẳng dịu đi khi nỗi tiếng động yếu dần và mất hẳn. Họ đều rất
khó ngủ, và ngay khi trời bên ngoài hơi rạng, Halevi đã bước ra ngoài để xem bờ
hồ đã quang chưa. Anh đi chừng trăm bộ thì một tiếng người quát phía sau:

- Đứng yên không mất
đầu bây giờ!

Halevi lạnh toát người.

- Quặt tay ra sau, và
đi tiếp thật chậm. - Tiếng ra lệnh của người nào đó bằng tiếng Ba Lan, giọng
hơi nặng, chứng tỏ không phải là người gốc Ba Lan.

Halevi đi theo con
đường mấp mô ổ gà giữa hai rặng cây, tới một bãi trống cỏ mọc xanh um, ba phía
là những cây cao. Anh ngạc nhiên nhìn thấy một cỗ xe nông dân chất đày những khúc
gỗ nằm ngay bên rìa bãi trống.

- Cho quay đầu lại
nhưng vẫn phải để tay sau gáy.

Halevi tuân theo và
thấy một người đàn ông cách anh chừng vài bước, khẩu súng săn hai nòng trên
tay. Người lạ mặc quần nhung kẻ, sơ mi không cổ và có dây thắt ngang lưng, đội
mũ rộng vành nhầu nát. Nhưng điều làm Halevi quan tâm là cặp mắt to và đen,
chăm chú nhìn anh như cặp mắt của một con thú sợ hãi. Khuôn mặt người lạ có
những nét rắn rỏi và lồi lõm, gò má rất cao, nước da đen sạm và đầy sương gió.

- Katar san tun? - Ông
ta hỏi bằng thứ ngôn ngữ mà Halevi không hiểu. - Anh từ đâu đến. - Ông ta nhắc
lại bằng tiếng Ba Lan.

- Từ thành phố. - Anh
đáp.

- Đến đây làm gì?

Halevi liếc nhìn cỗ xe
chở đầy gỗ:

- Tôi cũng đi kiếm củi
đun giống như ông.

- Kiếm củi sao chân tay
không?

- Tôi để rìu ở chỗ tôi
ngủ.

Họ nhìn nhau im lặng.
Người cầm súng ngoái lại phía sau và sau đấy vài phút, Anna, Janet, Genevieve
và Keja xuất hiện ở đó, người nào cũng quặt hai tay sau gáy. Họ bị một chàng
trai và một cậu bé dẫn đi, cả hai đều mang súng. Sau lưng họ là người đàn bà có
tuổi, tóc dài tết thành bím, đã hoa râm, nhưng dáng đi vẫn nhanh nhẹn.

Bà ta nói gì đó rất
nhanh với người đàn ông đang canh Halevi bằng thứ tiếng rất lạ mà ông ta đã nói
với anh. Giọng bà mỗi lúc một to thêm và cuối cùng bà ta càu nhàu giận dữ gì đó
một mình.

Anna thì thầm:

- Không biết họ nói gì
với nhau nhỉ?

Keja đáp:

- Bà già bảo phải giết
chúng mình, nhưng ông kia không chịu. - Sau đó cô quay lại về phía người đàn
ông. - Yekka bulisas nashi beshes pes done grstende.

Ông ta ngạc nhiên nhìn
cô gái tóc vàng, mắt xanh.

- Chị nói gì vậy, Keja?
- Genevieve lo lắng hỏi.

Keja đáp:

- Tôi bảo ông ta rằng
nếu có một người đằng sau thì ông ta không thể ngồi trên lưng hai con ngựa
được.

Người đàn ông lạ hỏi
bằng tiếng digan:

- San tu rom?

Keja đáp bằng tiếng Ba
Lan:

- Cha mẹ tôi thuộc bộ
tộc Gitanus đều bị bọn Đức quốc xã giết cả rồi.

- Chúng tôi thuộc bộ
tộc Lowara. - Ông ta nói và hạ thấp nòng súng xuống. - Tên tôi là Tibere. Cô
nói về các bạn của cô đi.

- Gadzo. - Keja đáp.

Người đàn ông lạ nhìn
Halevi, rồi đưa mắt sang ba cô gái đứng bên cạnh Keja:

- Họ là Do Thái à?

- Chỉ có một Do Thái
thôi, còn lại chúng từ Vacsava tới.

- Tôi có nghe kể về
tình hình ở đấy. Thật khủng khiếp. Bọn Đức muốn không còn người Do Thái nào ở
Châu Âu.

- Và cả người digan
nữa. - Keja nói.

- Đúng thế. - Người đàn
ông đáp, gật đầu buồn bã. - Rất nhiều người thuộc bộ tộc tôi đã chết trong trại
tập trung Dachau avf Ravensbrueck.

Keja tiếp:

- Bất hạnh chung sẽ làm
chúng ta thành bạn. Tôi đề nghị ông che chở chúng tôi.

Bà già digan đứng cách
hơi xa, chỗ rìa bãi trống, hét lên bằng tiếng dân tộc của bà, bảo rằng có họa
điên mới tin đứa con gái da trắng kia là người bộ tộc Gitanus.

Tibere đáp lại, cặp mắt
đen long lên giận dữ:

- Tôi bắt được họ, phải
để tôi quyết định.

- Vậy thì mày sẽ phải
chịu hậu quả đấy! - Bà già nhắc.

Bà ta vẫn còn lầu bầu
mãi, trong khi những người khác ôm củi đến chất và châm lửa đốt thành ngọn lửa
trại. Janet mệt rã rời, cố nghĩ xem tại sao những người digan kia lại phải nhặt
củi trên mặt đất để đốt trong khi trên xe đang chất đầy củi mới đẵn. Điều khó
hiểu này được giải đáp ngay, khi người đàn ông lúc nãy nói chuyện với Keja bước
đến chỗ giữa hai đống gỗ và khi ông ta quay lại, mọi người thấy một cánh cửa
lúc trước bị lấp nay mở toang ra. Thì ra đó là một khoang xe. Bên trong khá
rộng, chất một chồng chăn dạ màu sặc sỡ, nồi niêu, củi khô và cỗ yên cương bằng
da để dùng cho con ngựa đang đứng bình thản gặm cỏ.

Anna đứng nhìn người
đàn ông digan lấy một cái xoong to treo lên chạc cây bên trên ngon lửa. Và sau
một lúc tranh cãi sôi nổi bằng tiếng digan, bà già đột nhiên quay sang lấy thức
ăn cho họ. Bữa ăn được bày ra có hành nướng, cà chua, ớt và một thứ thịt gì đó
mềm mềm, rất nhiều gia vị lạ và rất béo. Đói quá, cho nên Anna ăn ngấu nghiến,
không kịp hỏi đó là thịt con gì. Sau này nàng mới biết đó là thịt nhím.

- Ngon không? - Tibere
hỏi bằng tiếng Balan.

- Lạ miệng lắm! - Anna
đáp.

Trong lúc mọi người
ngồi ăn, Tibere giới thiệu những thành viên khác trong gia đình ông ta: Latso,
một chàng trai gày gò trạc hai mươi tuổi, Andrey, cậu bé lên mười nhanh nhẹn,
lúc nào cũng cười và có mái tóc quăn màu đen, cậu bé Zonitza lên chín và bà già
Phuro, mẹ ông ta.

Tibere là chủ gia đình.
Ông ta kết thúc bữa ăn bằng một câu chửi tục rất to. Có vẻ việc đó làm bà già
thích thú, bởi bà bật cười rồi thu dọn đĩa bát đem ra một góc, lấy đất cọ cho
hết nhờn. Trong lúc ấy, Latso - cậu trai gầy gò, luồn dây cương lên đầu con
ngựa.

Tibere tiếp tục ngồi
ngồi bên đống lửa nói chuyện với khách. Ông ta cho biết nguyên nhân tại sao
trong tốp ông không có phụ nữ, ngoài bà già Phuro, vì tất cả đàn bà con gái đều
đã bị bọn Đức giết tại Kielce cách đây chừng một năm.

Trong số đó có vợ ông.
Tibere còn kể về cuộc tàn sát khác, khiến bộ tộc của ông và các bộ tộc digan
khác, trên 600.000 phải bỏ mạng.

Trong khi nghe,
Genevieve ngắm người đứng đầu gia đình digan này và càng thấy mến ông ta.
Tibere toát ra một sức mạnh đàn ông rất hấp dẫn cô. Khi ông dập tắt đống lửa và
dẫn các cô gái đến cỗ xe ngựa, Genevieve sỗ sàng đến mức dám khoác vào cánh tay
ông ta chặt đến nỗi cặp vú của cô ép vào bắp tay nổi cuồn cuộn của Tibere khiến
ông ta lúng túng.

Lúc các cô gái chui vào
khoang xe được ngăn bằng những khúc gỗ, Halevi định vào theo, nhưng Tibere cản
lại, bảo theo tục lệ digan, nam nữ không được ở chung. Và tục lệ này phải được
tuân theo một cách nghiêm ngặt, bất cứ hoàn cảnh nào.

- Nhưng tôi không phải
người digan…

Halevi chưa kịp nói hết
câu, Tibere đã nâng khẩu súng lên, chĩa vào anh, ngón tay đặt sẵn vào cò súng.
Ông ta lạnh lùng nói:

- Digan hay không,
trong trại của tôi anh phải tuân lệnh tôi.

Halevi nhìn họng súng,
tưởng như anh làm chuyện gì đó, nhưng anh chỉ nhún vai rồi lên nằm trên ghế
băng trong cỗ xe ngựa. Genevieve linh cảm thấy giữa hai người đàn ông này sẽ
xảy ra xung đột lớn và nghĩ rằng tốt nhất là cô phải tranh thủ tình cảm của
Tibere. Ông ta là loại đàn ông giống như Kandalman, rất biết cách tự vệ và che
chở cho những người nào họ quý. Khi cỗ xe chuyển bánh, cô quay sang Keja hỏi:

- Dân digan nghiêm đến
thế cơ à?

Keja đáp:

- Bộ tộc Lowari coi
danh dự của phụ nữ hơn sắc đẹp.

Genevieve không trả
lời, lắng nghe tiếng vó ngựa đập đều đều trên nền đất bẩn, khẽ mỉm cười.

Chặng đường vẫn tiếp
tục, hết ngày này sang ngày khác. Hình như chính Tibere cũng chỉ có dự định
chung chung về nơi họ sẽ đến, mặc dù thỉnh thoảng ông ta lại tuyên bố rằng điều
quan trọng nhất là phải vượt qua rặng Pyrenees sang Tây Ban Nha. Ông ta kể về
những người dân buôn lậu qua biên giới, những người sẵn sàng nhận tiền để dẫn
bất cứ ai vượt qua những khe núi hiểm trở, nhưng phải đi ít nhất một ngàn dặm
đường mới tới khu vực đó và tính chuyện nhờ những dân buôn lậu kia được.

Trong khi ông ta cho cỗ
xe chạy theo hướng Đông Nam, Janet bảo bạn bè rằng, nếu theo hướng này họ sẽ
tới biên giới Thụy Sỹ. Các cô gái quyết định tạm thời đi cùng với gia đình
Tibere cho đến khi nào thuận tiện hãy chia tay với họ.

Dần dần họ quen với
nhịp điệu cuộc sống của Tibere và gia đình ông ta, mặc dù hầu như toàn bộ thời
gian chỉ là ngồi trong cỗ xe. Con ngựa rất yếu cho nên phải nghỉ chân luôn. Họ
lại phải nhiều lần quay ngược đường vì vấp phải những khu rừng quá rậm rạp, xe
không lách qua được. Nhiều lúc họ không dám dừng chân nghỉ, đốt lửa nấu ăn, sợ
bị lính tuần tra Đức phát hiện.

Cuối cùng, khi ra khỏi
vùng rừng rậm bao la gần biên giới Tiệp Khắc, họ nghỉ qua đêm tại rìa một bãi
lầy, thần kinh của đám các cô gái đã bị căng thẳng đến mức không chịu nổi. Cùng
chen chúc một ngăn hẹp trong xe ngựa, họ rất dễ va chạm nhau, nhưng các cô đều
cố gắng tự kiềm chế để khỏi xảy ra chuyện đáng tiếc. Tuy nhiên thái độ
Genevieve công khai quyế rũ Tibere làm mọi người rất khó chịu, đặc biệt là
Keja. Keja đã báo trước cho bạn rằng phong tục nghiệt ngã của dân Digan rất có
thể sẽ làm cho họ khinh bỉ đám chúng ta, nhưng cô gái Pháp không chịu nghe và
vẫn tiếp tục những cử chỉ gợi tình với Tibere.

Đến mức hễ dừng chân
nghỉ ở đâu là Genevieve bám chặt lấy ông ta, lúc thì nhờ ông ta dạy tiếng Digan
lúc thì kiếm cớ này khác. Cô đã học được nhiều từ Digan và Tibere đã giảng cho
cô rất kỹ rằng từ Mariheme, nghĩa là không trong sạch, là từ rất được coi
trọng. Và còn được dùng để chỉ những ai bị bộ tộc ruồng bỏ vì vô đạo đức.

- Như thế nào chẳng
hạn? - Genevieve hỏi.

- Như mất trinh trước
khi cưới hoặc ngoại tình. - Tibere đáp.

Mặc dù Tibere tỏ ra
thích thú khi trò chuyện với cô nhưng chưa một biểu hiện nào chứng tỏ ông ta có
đôi chút muốn làm tình với cô. Mỗi lần Genevieve đi chơi với Tibere, cậu bé
Jonitza đều bám theo, bổ sung thêm những điều ông ta nói để cô gái Pháp hiểu
thêm nghĩa các từ Digan.

Không ai nói đến mối
quan hệ giữa Tibere và cậu bé, chỉ biết họ đối xử với nhau như cha con và
Jonitza không giấu niềm thán phục và yêu quý ông.

Tình thân thiết giữa
hai người ấy trái ngược hẳn với mối lục đục ngấm ngầm trong đám cô gái ngồi
trong ngăn sau cỗ xe. Chuyến đi càng kéo dài họ càng hay bàn tán xem đến lúc
nào nên chia tay với gia đình Tibere để đi chặng đường cuối cùng của họ sang
đất Thụy Sỹ.

Genevieve tỏ ra rất
phẫn nộ:

- Có họa điên chúng ta
mới chia tay với họ trong khi chưa biết rõ tiếp đó sẽ phải đi như thế nào!

Keja tán thành:

- Đúng thế! Ông Tibere
suốt đời sống du mục cho nên rất biết làm thế nào để ra khỏi lãnh phận nước
Đức.

Anna nói:

- Nhưng ông ta nhằm
hướng biên giới Tây Ban Nha.

Janet nói thêm:

- Và ông ta cũng không
quan tâm đến chuyện bao giờ tới nơi. Nhiệm vụ trên giao cho chúng ta là phải
đem những châu báu này đến gửi ở nhà băng Thụy Sỹ. Như thế có nghĩa là chúng ta
phải tự lo lấy. Tốt nhất là bây giờ chúng ta chia tay với họ và tự lo cách đi.

Trời bắt đầu mưa, tầm
tã hết ngày này sang ngày khác, buộc họ phải trú trong ngăn xe chật chội càng
làm họ thêm căng thẳng. Áo quần ẩm ướt, trong xe bức bối ngột ngạt tưởng như
không thể chịu đựng thêm được nữa. Tất cả các cô đều thấy đầu váng vất. Khói từ
những đống lửa đốt trong những đợt nghỉ chân làm họ cay mắt và mùi nước đái
ngựa thấm vào mọi thứ. Các cô càng cố giữ im lặng bao nhiêu thì nỗi căng thẳng
càng tăng thêm bấy nhiêu.

- Tibere phải biết rõ
ông ta đang làm gì chứ.

Genevieve cay đắng khi
người lãnh đạo tốp Digan ra lệnh cho cô chui vào xe, để toán dân chạy loạn khỏi
nhìn thấy. Toán này đang đi bộ men theo bờ rừng.

- Tôi ngán cứ phải làm
mọi thứ theo lệnh ông ta rồi!

- Ông ấy bảo chỉ vì lo
cho chị. - Keja nói.

Anna thêm vào:

- Nếu chị không muốn
ông ta ra lệnh thì đừng bám ông ta suốt ngày đêm như thế.

Janet bật lên:

- Hai chị có im đi
không? Định cãi nhau đấy hả? Chúng ta còn phải đi theo ông Tibere chừng nào
chưa có điều kiện đi riêng.

Mọi người thở phào khi
nghe Tibere cho biết định vượt biên giới nước Đức trong khoảng giữa áo và Tiệp
Khắc, mặc dù ông tính sẽ thực hiện chuyến vượt biên đó vào nửa đêm, giữa lúc
trời mưa to.

Họ cho xe rời khỏi
đường cái và băng qua bãi trống mấp mộ Mọi người ra khỏi xe, đàn bà cũng giúp
đàn ông đẩy cỗ xe đi, lúc dốc cao họ gần như phải bò ra, lúc lại bì bõm trong bùn
ngập mắt cá chân, dưới trời mưa tầm tã và đêm tối đen như mực. Họ không biết
đích xác bao giờ mới vượt qua bãi đất mênh mông này để tới được đường biên giới
khốn kiếp kia. Vất vả đã tiêu hủy chút sức lực cuối cùng của họ và công việc
cực kỳ nặng nhọc chỉ được tạm thời kết thúc khi Tibere đột nhiên hạ lệnh dừng
lại và ông ta tháo yên cương ngựa ra.

Từ đó đến sáng, họ đứng
dưới tấm vải bạt. Các cô gái quần áo đầy bùn đất, nằm trên những tấm chăn dạ
thô cố ngủ nhưng không nổi. Quần áo ẩm ướt làm họ rét run.

Anna nói:

- Có các tiền tôi cũng
không thể lặp lại một chuyến đi như vừa rồi.

Janet nhắc bạn:

- Đây mới là biên giới
Thụy Sỹ.

Keja nói thêm:

- Sau đây còn vất vả
hơn, mà chúng ta lại không còn được sự giúp của Tibere nữa.

Genevieve hỏi:

- Liệu chúng ta có mua
được đám biên phòng không?

Keja đáp:

- Mua bọn chúng thì
phải tốn rất nhiều tiền.

Cô gái Pháp mở ba lô,
vốc ra một nắm châu báu rồi để cho những thứ đó lọt qua kẽ ngón tay rơi xuống
túi vải bạt:

- Chúng ta mang theo cả
một kho báu cơ mà!

Janet nhắc:

- Nhưng không phải của
chúng ta.

- Nếu không đem được
tới ngân hàng Thụy Sỹ thì cũng chẳng ai dùng được số của cải này. - Genevieve
cãi.

Anna tán thành:

- Genevieve nói đúng.
Cho nên để chắc chắn, mỗi chúng ta nên giấu trong cạp quần một ít, lỡ chuyện gì
xảy ra thì có cái mà dùng.

Khi thấy mấy cô gái đều
tán thành, Janet không nói gì. Keja tìm thấy kim chỉ và chiếc kéo trong góc xe
và họ bắt đầu tháo đường chỉ. Chút ánh sáng ở ngăn sau cỗ xe chỉ là một ngọn
nến le lói, nhưng cũng đủ làm số châu báu ánh lên.

Mỗi cô lựa lấy sáu viên
ngọc. Keja chọn bích ngọc và hồng ngọc. Janet chọn sáu hạt kim cương. Genevieve
chọn ngọc xaphia và opan. Anna chọn sáu viên ngọc trai to nhất và sáng nhất.
Trong khi khâu, nàng nhớ lại hồi nàng mười hai hoặc mười ba tuổi gì đó, mẹ nàng
đã dạy con gái tập khâu. Kỷ niệm xưa kéo theo một chuỗi kỷ niệm của những ngày
vừa qua, khi nàng nhìn thấy cha mẹ lần cuối cùng trong trạm xá, cha nàng ngồi
dựa lưng vào tường, một vết thủng lớn ở bụng, cặp mắt bất động hướng về phía mẹ
nàng nằm dưới gậm giường bị lật. Anna rùng mình, và khi khâu xong nàng thổi tắt
ngọn nến, nằm xuống, toàn thân vẫn còn run bần bật. Nàng kéo tấm chăn dạ, phủ
lên người.

Janet cũng vậy, cô
triền miên suy nghĩ. Cô phát hiện ra rằng cái lắc vàng cô lấy ở cổ Kandalman ra
hôm chữa những vết thương trên ngực anh không còn đeo ở cổ cô nữa và đoán rằng
cô đánh rơi nó trong lúc vượt qua cánh đồng. Janet đột nhiên hình dung vết sẹo
khủng khiếp trên ngực Kandalman. Cô cố gạt hình ảnh ra khỏi trí óc và thiếp
ngủ.

Một tiếng đồng hồ sau,
Genevieve vẫn còn trằn trọc. Cô cũng nghĩ đến Kandalman nhưng theo cách hoàn
toàn khác. Cô nghĩ đến thời gian cô chung sống với anh cho đến khi anh bị chính
quyền Đức bắt giam vào khu tập trung Do Thái, đến những bữa ăn hai người cùng
ngồi ăn, ly sâm panh hai người cùng ngồi uống, đến những bộ trang phục đắt tiền
anh mua cho cô và những cuộc nghỉ cuối tuần, hai người đưa nhau ra ngoại thành,
thuê phòng trong một khách sạn nhỏ. Tất cả những thứ đó sao mà xa vời, nhưng
Genevieve không quên một chi tiết nhỏ nào hết. Và bởi vì chúng trái ngược hoàn
toàn với cuộc sống hiện tại, nên cô càng luyến tiếc.

Lúc họ thức dậy mưa vẫn
chưa tạnh nhưng trời ấm hơn đôi chút. Họ lên đường và men theo con đường nhỏ,
hai bên là những hàng cây cao vút. Cuối cùng họ ra đến một bãi cỏ xanh rờn và
Tibere hạ lệnh nghỉ chân bên bờ suối chạy ngang qua thung lũng. Đám các cô gái
cậy những mảng bùn khô còn bám vào chân tay và cố cọ bớt những gì bám vào quần
áo, bởi họ không thể giặt. Trong cạp quần họ đã khâu những vật quý. Bà Phuro không
muốn nhóm lửa lên, đã dọn bữa ăn đồ nguội: bánh mì và thịt nhím khô, vậy mà mọi
người đều ăn rất ngon lành.

Giữa trưa họ lại đi
tiếp, nhưng khi thấy một đoàn xe tăng Đức tiến về phía họ để đi Linz, Tibere
bèn quyết định rời khỏi đường cái, rẽ vào con đường đất mấp mô. Họ đi qua một
cánh đồng củ cải đường đầy mùi phân chuồng, tới một cái trại.

Ngôi nhà chính của nông
trại rất rộng nhưng đổ nát. Đón họ là đàn gà đông đúc và một đàn ngỗng. Sau khi
thăm dò kỹ lưỡng, Tibere cùng mấy nam giới, trong đó có Halevi phát hiện ra nơi
đây không phải chỉ có gà ngỗng mà vẫn còn một số người, toàn là cụ già, núp
trong kho chứa cỏ khô.

Chưa đến gặp họ vội,
Tibere đẩy xe vào ngôi nhà chính để kín đáo. Phuro thì đi kiểm tra thức ăn. Sau
đó đám đàn ông vào gặp mấy thợ mỏ người Ba Lan tụ tập tại đây để nghe đài. Họ
cho biết họ bỏ quê hương trốn đến đây để khỏi bị bọn Quốc xã bắt sang Đức làm
việc cho chúng. Họ đang tìm đường sang Tây Ban Nha và hy vọng sống yên ổn ở đó
cho đến khi chiến tranh kết thúc.

Sau khi Tibere và đám
người của ông ta đến nông trại chừng nửa giờ, một xe thiết giáp chở lính Đức
chạy theo con đường đất đen đến trạm nhưng đỗ lại bên ngoài không vào sân.
Chúng chiếm vị trí để chặn không cho bất cứ ai đi qua. Lát sau một xe tăng ầm
ầm đi tới, đỗ ngay đầu sân bên kia.

- Chà, gay đấy. -
Halevi lẩm bẩm, ngó mắt qua những khe ngói của mái nhà bị sụp, quan sát đám
lính Đức.

Tibere nói:

- Có vẻ chúng không
định đến đây vây ráp.

Nhưng Halevi không tin.
Anh tập trung các cô gái lại và bảo:

- Đưa tôi các ba lô,
tôi không muốn rơi vào tay bọn Đức.

Khoác cả năm cái ba lô
lên vai, anh lẩn vào khu trung tâm của nông trại rồi chui khuất xuống dưới hầm
chứa chìm sâu trong lòng đất. Tibere nói với Keja:

- Đúng là một tay tướng
cướp điển hình. Thứ đầu tiên mà hắn ta nghĩ đến là của cải của các cô.

Keja không đáp, bởi cô
biết rằng người gia trưởng Digan chắc hẳn rất muốn biết những chiếc ba lô kia
đựng gì. Từ khi các cô nhập vào gia đình ông ta, Tibere luôn nhìn những chiếc
ba lô ấy bằng cặp mắt tò mò. Nhưng vì tôn trọng quyền riêng tư của người khác,
ông ta không dám hỏi xem trong đựng thứ gì.

Đã xẩm tối nhưng vẫn
còn đủ ánh sáng để họ nhìn thấy những tên Đức bắc loa điện trên nóc xe thiết
giáp và đàn chim đậu trên mái nhà hốt hoảng bay vụt lên khi tiếng loa đột nhiên
vang to:

- Chú ý! Chú ý! Tất cả
phải ra khỏi nhà ngay, hai tay giơ cao. Ta cho bọn mi năm phút, sau đó chúng ta
sẽ bắn!…

Báo cáo nội dung xấu