Đồng Tiền Lên Ngôi - Chương 06
Chương 6 TỪ ĐẾ QUỐC ĐẾN TRUNG-HOA-MỸ
Chỉ mới mười năm trước đây, trong cuộc Khủng hoảng châu Á 1997-98, người ta vẫn nghĩ rằng khủng hoảng tài chính dễ có khả năng xảy ra ở ngoại vi nền kinh tế thế giới - ở những nơi gọi là các thị trường mới nổi (trước đây là các nước kém phát triển) Đông Á hoặc Mỹ Latin. Song những mối đe dọa lớn nhất với hệ thống tài chính toàn cầu trong thế kỷ mới này lại không phải đến từ ngoại vi mà là từ trung tâm. Hai năm sau khi bong bóng "dot com" của Thung lũng Silicon đạt đỉnh cao vào tháng 8/2000, thị trường chứng khoán Mỹ đã sụt mất gần một nửa. Đến tận tháng 5/2007, các nhà đầu tư vào Standard & Poor's 500 mới gỡ gạc lại được thiệt hại của mình. Rồi sau đó chỉ ba tháng, một cơn bão tài chính mới lại nổ ra, lần này là trên thị trường tín dụng chứ không phải thị trường chứng khoán. Như chúng ta đã thấy, cuộc khủng hoảng này cũng bắt nguồn từ Mỹ, khi hàng triệu hộ gia đình Mỹ phát hiện ra rằng họ không còn đủ khả năng trả lãi cho các hợp đồng vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn trị giá nhiều tỷ đô la. Đã có lúc các cuộc khủng hoảng của Mỹ như thế này chắc hẳn sẽ dìm phần còn lại của hệ thống tài chính toàn cầu vào vòng suy giảm, chưa nói đến suy thoái. Vậy mà vào thời điểm viết cuốn sách này, châu Á dường như không hề bị ảnh hưởng bởi vụ đổ vỡ tín dụng ở nước Mỹ. Thực vậy, một số nhà phân tích như Jim O'Neill, Trưởng Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu của Goldman Sachs, cho rằng phần còn lại của thế giới, được dẫn đầu bởi Trung Quốc, đang phát triển mạnh mẽ, đang "tách mình" ra khỏi nền kinh tế Mỹ.
Nếu như O'Neill đúng, thì hiện chúng ta đang trải qua một trong những cuộc chuyển dịch đáng kinh ngạc nhất trên cán cân sức mạnh tài chính toàn cầu; đây là đoạn kết kỷ nguyên kéo dài hơn một thế kỷ khi mà nhịp độ tài chính của nền kinh tế thế giới được thiết lập bởi những người nói tiếng Anh, đầu tiên là ở Anh, sau đó là ở Mỹ. Nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được những kỳ tích phi thường về tăng trưởng trong ba mươi năm qua, với GDP trên đầu người tăng với tốc độ trung bình hằng năm là 8,4%. Song trong thời gian gần đây, nhịp độ đó còn tăng hơn nữa. Khi O'Neill và nhóm của ông lần đầu tính toán các con số dự báo về tổng sản phẩm quốc nội của nhóm BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, hay là Các nước Lớn và Công nghiệp hóa Nhanh)[508], họ đã dự kiến là Trung Quốc có thể sẽ vượt Mỹ vào khoảng năm 2040.[509] Tuy nhiên, ước tính mới đây nhất của họ đã đưa thời điểm đó về năm 2027. [510] Các nhà kinh tế của Goldman Sachs không bỏ qua các thách thức mà Trung Quốc nhất định sẽ phải đối mặt, đặc biệt là quả bom dân số hẹn giờ là chính sách một con hà khắc của nhà nước cộng sản và những hậu quả về môi trường của cuộc cách mạng công nghiệp ở mức quá tải của Đông Á. [511] Họ cũng không quên các áp lực lạm phát ở Trung Quốc, được thể hiện bằng việc giá chứng khoán tăng vọt trong năm 2007 và giá thực phẩm leo thang trong năm 2008. Mặc dù vậy, đánh giá tổng quát vẫn là tích cực một cách ấn tượng. Và rất đơn giản, điều đó có nghĩa là lịch sử đã đổi hướng trong thời đại của chúng ta.
Ba hay bốn trăm năm trước đây, không có mấy khác biệt về thu nhập trên đầu người giữa phương Tây và phương Đông. Một thực dân thông thường ở Bắc Mỹ, người ta đã cho là vậy, có mức sống chẳng hơn bao nhiêu so với một nông dân trồng trọt thông thường ở Trung Quốc. Thực vậy, xét trên nhiều khía cạnh thì nền văn minh Trung Hoa thời nhà Minh còn tinh vi hơn cả Massachusetts thuở ban đầu. Bắc Kinh, thành phố lớn nhất thế giới trong suốt nhiều thế kỷ, khiến Boston trở nên nhỏ bé, cũng giống như con tàu chở báu vật vào đầu thế kỷ 15 của Đô đốc Trịnh Hòa khiến con tàu Santa Maria của Christopher Columbus trở nên nhỏ bé. Vùng đồng bằng châu thổ sông Dương Tử dường như cũng không thua thung lũng sông Thames trong điều kiện tạo ra những đổi mới công nghệ quan trọng thúc đẩy năng suất lao động. [512] Vậy mà từ năm 1700 đến 1950 "sự phân chia lớn" về mức sống giữa phương Đông và phương Tây đã diễn ra. Trong khi Trung Quốc có lẽ đã chịu sự suy giảm tuyệt đối về thu nhập trên đầu người trong giai đoạn này, thì các xã hội ở khu vực phía bắc của phương Tây - đặc biệt là nước Anh và các vùng thuộc địa - đã trải qua sự tăng trưởng chưa từng có, một phần lớn nhờ vào tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp. Đến năm 1820, thu nhập trên đầu người ở Mỹ đã khoảng gấp đôi Trung Quốc; đến năm 1870 là cao gấp năm lần; đến năm 1913 gấp gần mười lần; đến năm 1950 gấp gần hai mươi hai lần. Tốc độ tăng trung bình hằng năm của GDP trên đầu người ở Mỹ là 1,57% trong khoảng thời gian từ 1820 đến 1950. Con số tương ứng của Trung Quốc là -0,24%. [513] Năm 1973, thu nhập của người Trung Quốc trung bình giỏi lắm cũng chỉ bằng một phần hai mươi một người Mỹ trung bình. Nếu tính bằng đồng đô la quốc tế theo tỷ giá hối đoái, sự khác biệt còn lớn hơn nữa. Cho đến năm 2006 gần đây thôi, tỷ số giữa thu nhập đầu người của Mỹ và Trung Quốc được đo theo cách này vẫn là 22,9/1.
Sai lầm gì đã xảy ra ở Trung Quốc từ thập niên 1700 đến thập niên 1970? Một hướng lập luận cho rằng Trung Quốc đã không có được hai cơ may quan trọng về kinh tế vĩ mô, những điều không thể thiếu đối với sự cất cánh trong thế kỷ 18 của khu vực phía bắc phương Tây. Thứ nhất là sự chinh phục châu Mỹ và đặc biệt là việc biến các hòn đảo của vùng biển Caribê thành các thuộc địa sản xuất đường, "những mẫu đất ma", đã làm giảm áp lực đối với hệ thống nông nghiệp của châu Âu, tránh được thiệt hại do sự suy giảm tỷ suất lợi nhuận như kiểu Trung Quốc. Thứ hai là khoảng cách gần từ những mỏ than đến các địa điểm thích hợp phát triển công nghiệp. Thêm vào đó, sự bành trướng đế quốc, ngoài việc mang lại những nguồn nhiệt lượng rẻ hơn, gỗ rẻ hơn, len rẻ hơn và bông rẻ hơn, còn mang đến những lợi ích kinh tế không dự tính trước. Đó là việc nó đã khuyến khích phát triển các phát minh cần cho quân sự - đồng hồ, súng ống, thấu kính và các thiết bị dẫn đường - điều này hóa ra lại có tác dụng phụ rất lớn đối với sự phát triển của ngành chế tạo máy công nghiệp. [514] Chẳng cần phải nói, còn nhiều cách giải thích khác được đưa ra về sự phân chia lớn giữa phương Đông và phương Tây: sự khác biệt về địa hình, về nguồn tài nguyên vốn có, về văn hóa, quan niệm đối với khoa học và công nghệ, thậm chí cả khác biệt về sự tiến hóa của con người. [515] Song có một giả thiết vẫn luôn đáng tin cậy là các vấn đề của Trung Quốc không chỉ liên quan đến tài nguyên, mà còn mang tính chất tài chính. Một mặt, đặc tính nhất thể của Đế quốc Trung Hoa đã ngăn sự cạnh tranh tài chính, điều được xem là động lực cho cải cách tài chính ở châu Âu thời kỳ Phục hưng và sau này. Mặt khác, việc Đế quốc Trung Hoa dễ dàng tài trợ cho thâm hụt bằng cách in tiền đã không khuyến khích xuất hiện các thị trường tài chính theo kiểu châu Âu. [516] Ngoài ra, tiền kim loại cũng dễ dàng có hơn so với ở châu Âu, bởi vì Trung Quốc có thặng dư thương mại với phương Tây. Nói tóm lại, Đế quốc Trung Hoa ít có động lực phát triển các loại thương phiếu, trái phiếu, vốn cổ đông. Khi các tổ chức tài chính hiện đại cuối cùng cũng đến Trung Quốc vào cuối thế kỷ 19, họ đến với tư cách một bộ phận của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, và như chúng ta sẽ thấy, lúc nào cũng có thể bị đe dọa bởi những phản ứng yêu nước chống lại ảnh hưởng của nước ngoài. [517]
Toàn cầu hóa, nếu chỉ có nghĩa là sự hội nhập nhanh chóng của các thị trường quốc tế về hàng hóa, sản phẩm công nghiệp, nguồn lao động và vốn, thì không phải là một hiện tượng mới mẻ. Trong ba thập niên trước năm 1914, tỷ lệ thương mại hàng hóa trên sản lượng toàn cầu đã đạt tới mức của ba mươi năm gần đây. [518] Trong một thế giới mà các biên giới ít bị kiểm soát hơn, tỷ lệ di cư quốc tế hầu như chắc chắn sẽ cao hơn trong tương quan với dân số thế giới; trên 14% người dân Mỹ vốn sinh ra ở nước ngoài năm 1910 so với chưa đến 12% trong năm 2003. [519] Mặc dù nếu xét theo con số trước thuế, tổng lượng vốn quốc tế so với GDP toàn cầu trong thập niên 1990 lớn hơn một thế kỷ trước, thì xét theo con số ròng, lượng vốn đầu tư ra nước ngoài - đặc biệt là từ các quốc gia giàu có vào các quốc gia nghèo - ở thời kỳ trước lại lớn hơn nhiều. [520] Hơn một thế kỷ trước đây, các nhà kinh doanh năng động ở châu Âu và Bắc Mỹ đã nhận ra nhiều cơ hội đầy cám dỗ ở khắp châu Á. Đến giữa thế kỷ 19, các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng Công nghiệp đã có thể được chuyển giao đến bất cứ đâu. Sự chậm trễ trong thông tin liên lạc đã được rút ngắn mạnh mẽ nhờ việc đặt hệ thống cáp quốc tế dưới biển.
Họ có trong tay số vốn dư dật, và như chúng ta sẽ thấy, các nhà đầu tư Anh không hề do dự đầu tư tiền vào những vùng đất xa xôi. Thiết bị không đắt, năng lượng sẵn có và nguồn lao động phong phú khiến cho ngành dệt may ở Trung Quốc hoặc Ấn Độ lẽ ra phải trở thành một lĩnh vực kinh doanh có lợi nhuận cực kỳ cao. [521] Vậy mà bất chấp món đầu tư trên một tỷ bảng Anh từ các quỹ phương Tây, lời hứa hẹn của toàn cầu hóa thời Victoria đã hầu như không thành hiện thực ở hầu hết châu Á, chỉ còn để lại di sản là nỗi cay đắng đối với điều mà đến tận ngày hôm nay vẫn được nhớ đến như là sự bóc lột thuộc địa. Thực vậy, các phản ứng chống lại toàn cầu hóa vào thế kỷ trước mạnh tới mức mà hai quốc gia đông dân nhất châu Á rốt cuộc đã hầu như tự tách mình ra khỏi thị trường toàn cầu từ thập niên 1950 đến thập niên 1970.
Hơn thế nữa, thời đại toàn cầu hóa đầu tiên này chẳng hề có một cái kết có hậu. Ngược lại, chưa đầy 100 năm trước, vào mùa hè năm 1914, nó đã kết thúc không phải bằng một tiếng khóc thút thít, mà bằng một tiếng nổ đinh tai nhức óc, khi những kẻ hưởng lợi chính của nền kinh tế toàn cầu hóa đã lao vào một cuộc chiến tranh có mức độ tàn phá lớn nhất mà thế giới từng được chứng kiến. Chúng ta nghĩ rằng mình biết vì sao nguồn vốn quốc tế đã thất bại trong việc tạo ra tăng trưởng tự túc bền vững ở châu Á trước năm 1914. Song liệu còn có thêm mối liên quan nào đó giữa các tác động của hội nhập kinh tế toàn cầu với sự bùng nổ Thế chiến thứ nhất? Điều mới đây được nêu ra là cuộc chiến tranh ấy cần phải được hiểu như một dạng phản ứng chống lại toàn cầu hóa, được mở đầu bằng việc nâng thuế quan nhập khẩu và hạn chế nhập cư trong thập niên ngay trước 1914, và được hoan nghênh nồng nhiệt nhất bởi giới chủ ruộng đất châu Âu, những người có vị trí bị suy yếu dần trong suốt nhiều thập niên do sự sụt giảm giá nông sản và sự di cư của lao động nông nghiệp dư thừa sang Tân Thế giới.[522] Trước khi vô tâm đón nhận một thế giới đẹp đẽ, mới mẻ và được cho là "hậu Mỹ" ngày nay [523], chúng ta cần chắc chắn rằng sẽ không có những phản ứng không dự đoán trước được tương tự kéo sập nền tảng địa chính trị của phiên bản toàn cầu hóa mới nhất.
Toàn cầu hóa và trận quyết chiến cuối cùng
Trước đây người ta thường nói các thị trường mới nổi là những nơi từng dễ lâm nguy [524]. Đầu tư vào các vùng đất xa xôi có thể làm cho bạn trở thành giàu có, song khi mà tình hình trở nên rắc rối, thì đó lại là con đường nhanh nhất tiến đến sự lụi bại tài chính. Như chúng ta đã thấy trong Chương 2, cuộc khủng hoảng nợ đầu tiên ở Mỹ Latin đã xảy ra từ tận thập niên 1820. Chính một cuộc khủng hoảng thị trường mới nổi nữa ở Argentina đã suýt làm ngân hàng Barings phá sản năm 1890, cũng giống như chính nhà buôn bán hợp đồng tương lai lừa đảo ở Singapore, Nick Leeson, đã kết liễu Barings 105 năm sau đó. Cuộc khủng hoảng nợ Mỹ Latin thập niên 1980 và cuộc khủng hoảng châu Á thập niên 1990 không thể coi là những sự kiện chưa từng có tiền lệ. Lịch sử tài chính đã cho thấy rằng rất nhiều thị trường mới nổi ngày nay có lẽ tốt hơn nên được gọi là các thị trường mới nổi trở lại. [525] Còn giờ đây, thị trường mới nổi trở lại tầm cỡ nhất là Trung Quốc. Theo các nhà đầu tư thân Trung Quốc như Jim Rogers, số tiền có thể kiếm được ở đây hầu như không có một giới hạn nào. [526] Vậy mà đây không phải là lần đầu tiên các nhà đầu tư nước ngoài đổ tiền vào chứng khoán Trung Quốc với mơ ước kiếm được số tiền khổng lồ từ đất nước đông dân nhất thế giới này. Cũng nên nhớ lại là trong lần cuối cùng, họ đã mất nhiều áo sơ mi ngang mức mà tất cả các thợ may nổi tiếng của Hồng Kông có thể cùng nhau may trong một tháng trời . [527]
Vấn đề chủ chốt đối với đầu tư nước ngoài, trước kia cũng như hiện nay, là ở chỗ các nhà đầu tư ngồi tại London hay New York rất khó có thể nhìn thấy một chính phủ ngoại quốc hay một nhà quản lý ở nước ngoài đang làm gì cách đó một đại dương hoặc xa hơn. Hơn thế nữa, hầu hết các quốc gia ngoài phương Tây cho đến tận gần đây vẫn có các hệ thống pháp lý rất không đáng tin cậy và các quy định kế toán rất khác biệt. Nếu như một bên đối tác kinh doanh nước ngoài quyết định không trả nợ, thì nhà đầu tư ngồi ở phía bên kia thế giới chẳng thể làm được gì nhiều. Trong kỷ nguyên thứ nhất của toàn cầu hóa, lời giải cho vấn đề này thật đơn giản, tàn nhẫn song rất hiệu quả: áp đặt luật lệ của châu Âu.
William Jardine và James Matheson là hai người Scotland gian hùng đã thành lập một công ty kinh doanh ở thành phố cảng phía nam Trung Quốc là Quảng Châu (hồi đó được biết đến dưới tên gọi Canton) vào năm 1832. Một trong những phương án kinh doanh tốt nhất của họ là nhập khẩu thuốc phiện do chính phủ sản xuất từ Ấn Độ. Jardine nguyên là bác sĩ phẫu thuật của Công ty Đông Ấn, song thuốc phiện mà ông đưa vào Trung Quốc lại dành cho các mục đích hoàn toàn không liên quan đến y tế. Đó là việc mà Hoàng đế Ung Chính đã cấm từ hơn một thế kỷ trước, vào năm 1729, do việc nghiện thuốc phiện gây ra thiệt hại rất lớn đối với xã hội. Ngày 10/3/1839, một quan chức triều đình tên là Lâm Tắc Từ đã đến Quảng Châu theo lệnh của Hoàng đế Đạo Quang để dẹp bỏ việc kinh doanh này một lần và vĩnh viễn. Ông Lâm đã phong tỏa các kho chứa thuốc phiện ở Quảng Châu cho đến khi những thương gia người Anh phải chấp nhận đòi hỏi của ông. Tổng cộng có khoảng 20.000 hòm thuốc phiện trị giá 2 triệu bảng Anh đã bị tịch thu. Các thứ đựng trong hòm đã được pha loãng đến mức không còn dùng được nữa và bị ném xuống biển theo đúng nghĩa đen. [528] Người Trung Quốc cũng yêu cầu rằng từ nay trở đi, tất cả người dân Anh ở trên lãnh thổ của Trung Quốc đều phải tuân theo luật lệ của Trung Quốc. Điều này không hợp với ý muốn của Jardine một chút nào. Được người Trung Quốc biết đến dưới cái tên "Chuột già đầu sắt" (thiết đầu lão thử), ông ta đang ở châu Âu khi cuộc khủng hoảng xảy ra và vội vã đến London để vận động chính phủ Anh. Sau ba cuộc gặp với Bộ trưởng Ngoại giao là Tử tước Palmerston, Jardine có vẻ đã thuyết phục được ông này rằng một cuộc phô trương sức mạnh là cần thiết, và "sự thiếu sức mạnh trong đội quân chiến tranh giẻ rách của chúng" sẽ đảm bảo chiến thắng dễ dàng nếu dùng một đội quân Anh "đủ lớn". Ngày 20/2/1840, Palmerston phát lệnh. Đến tháng 6/1840, mọi sự chuẩn bị của hải quân đã được hoàn tất. Đế quốc nhà Thanh sắp nếm phải sức mạnh của nhà nước ma túy thành công nhất trong lịch sử: Đế quốc Anh.
"Chuột già đầu sắt": William Jardine, người đồng sáng lập công ty Jardine Matheson
Đúng như Jardine đã dự kiến, chính quyền Trung Quốc không phải là đối thủ tương xứng với sức mạnh của hải quân Anh. Quảng Châu bị phong tỏa; đảo Chu Sơn bị chiếm. Sau mười tháng đối đầu, lính thủy đánh bộ Anh đã chiếm được các vị trí phòng thủ bảo vệ cửa sông Châu Giang, con đường thủy nối Hồng Kông với Quảng Châu. Theo Thảo ước Xuyên Tỵ được ký vào tháng 1/1841 (song sau đó lại bị Hoàng đế bãi bỏ), Hồng Kông đã trở thành sở hữu của người Anh. Hiệp ước Nam Kinh, được ký một năm sau đó, sau một cuộc đọ sức nữa nghiêng hẳn về một phía, đã khẳng định hành động nhượng đất này và đồng thời trao quyền tự do buôn bán thuốc phiện tại năm "cảng hiệp ước": Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và Thượng Hải. Theo nguyên tắc đặc quyền ngoại giao, người Anh có thể hoạt động tại các thành phố này và được miễn trừ hoàn toàn trước luật pháp Trung Quốc.
James Matheson, đối tác của Jardine trong kinh doanh thuốc phiện
Đối với Trung Quốc, cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất đã khởi đầu cho một kỷ nguyên "quốc sỉ". Tình trạng nghiện thuốc phiện bùng nổ. Các nhà truyền đạo Thiên Chúa đã làm lung lay đức tin Khổng giáo truyền thống. Và trong cơn hỗn loạn Thái Bình Thiên Quốc - cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại một triều đại bất tín nhiệm do một người tự nhận là em của Chúa Jesus lãnh đạo - khoảng từ 20 triệu đến 40 triệu người đã thiệt mạng. Song đối với Jardine và Matheson, những người đã nhanh chóng kiếm đất ở Hồng Kông và ngay sau đó chuyển trụ sở chính đến khu Đông Cảng (East Point) của hòn đảo này, những ngày vinh quang của toàn cầu hóa thời Victoria đã đến. Trạm gác Jardine, một trong những điểm cao nhất trên hòn đảo Hồng Kông, là nơi công ty này đã duy trì một người theo dõi để quan sát các con tàu của công ty trên đường từ Bombay, Calcutta hoặc London đến. Khi Hồng Kông bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong vai trò trung tâm trung chuyển thương mại, chẳng bao lâu thuốc phiện đã không còn là lĩnh vực kinh doanh duy nhất của công ty. Cho đến đầu thập niên 1900, công ty Jardine Matheson đã có xưởng nấu rượu bia, các xưởng bông riêng, một công ty bảo hiểm, một công ty vận tải và thậm chí một công ty đường sắt riêng, trong đó có tuyến đường từ Cửu Long đến Quảng Châu được xây dựng trong thời gian từ năm 1907 đến 1911.
Còn ở London, một nhà đầu tư có vô số cơ hội đầu tư ra nước ngoài. Không gì có thể minh họa thực tế đó tốt hơn là các cuốn sổ kế toán của công ty N. M. Rothschild & Sons, cho thấy sự đa dạng phi thường của các chứng khoán mà thành viên của Rothschild đã nắm giữ trong danh mục đầu tư hàng triệu bảng của họ. Chỉ một trang đã liệt kê không dưới hai mươi loại chứng khoán khác nhau, bao gồm cả các trái phiếu được phát hành bởi chính phủ Chile, Ai Cập, Đức, Hungary, Italia, Nhật Bản, Na Uy, Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như các chứng khoán được phát hành bởi mười một công ty đường sắt khác nhau, trong đó có bốn công ty ở Argentina, hai ở Canada, và một ở Trung Quốc [529]. Mà không chỉ có các thành viên của giới tinh hoa tài chính đặc tuyển mới có thể tham gia vào cách thức đa dạng hóa quốc tế như vậy. Ngay từ năm 1909, chỉ với một khoản chi phí khiêm tốn là 2 shilling và 6 xu, các nhà đầu tư Anh đã có thể mua được cuốn sách Investment: An exact science (Đầu tư: một môn khoa học chính xác) của Henry Lowenfeld, trong đó khuyến nghị ''một hệ thống hợp lý các mức lãi suất trung bình, dựa trên sự phân bố vốn theo địa lý" làm một phương cách để "giảm đến mức tối thiểu dấu vết nhơ bẩn của sự đầu cơ trong hoạt động đầu tư". [530] Như Keynes sau này nhắc lại, trong một đoạn khá nổi tiếng từ cuốn Economic Consequences of the Peace (Các tác động kinh tế của hòa bình), hầu như không cần một nỗ lực nào thì một người London với tiềm lực khiêm tốn vẫn có thể "đổ của cải của mình vào tài nguyên thiên nhiên và các công nghiệp mới tại bất kỳ khu vực nào trên thế giới, và chung hưởng mà không cần ráng sức hoặc thậm chí bận tâm, những thành quả và lợi thế trong tương lai". [531]
Vào thời đó có khoảng 40 thị trường chứng khoán nước ngoài nằm rải rác khắp thế giới, trong số đó có 7 thị trường thường xuyên được báo chí tài chính Anh đưa tin. Thị trường chứng khoán London niêm yết các trái phiếu được phát hành bởi 57 chính phủ có chủ quyền hoặc chính phủ thuộc địa. Dõi theo dòng tiền từ London đến các phần còn lại của thế giới, ta thấy toàn bộ quy mô của cuộc toàn cầu hóa về tài chính lần thứ nhất này. Khoảng 45% vốn đầu tư của Anh đi đến Mỹ, Canada và Nam bán cầu, 20% đến Mỹ Latin, 16% đến châu Á, 13% đến châu Phi và 6% đến phần còn lại của châu Âu. [532] Nếu gộp toàn bộ số vốn của Anh được huy động thông qua các đợt phát hành chứng khoán ra công chúng trong khoảng thời gian từ năm 1865 đến 1914, bạn sẽ thấy rằng phần lớn số vốn đó đi ra nước ngoài; chỉ có chưa đến một phần ba là được đầu tư ngay tại nước Anh. [533] Tính đến năm 1913, khoảng 158 tỷ đô la dưới dạng chứng khoán đã hiện diện khắp thế giới, trong đó khoảng 45 tỷ đô la (28%) được nắm giữ ở phạm vi quốc tế. Trong số tất cả các chứng khoán được đăng ký ở Sàn Giao dịch Chứng khoán London năm 1913, khoảng một nửa (48%) là trái phiếu nước ngoài. [534] Tổng tài sản nước ngoài năm 1913 tương đương với khoảng 150% GDP của Anh và thặng dư tài khoản vãng lai hằng năm lên đến 9% GDP năm 1913 - bằng chứng của cái lúc này có thể gọi là sự tràn ngập tiết kiệm ở Anh. Điều quan trọng là một tỷ lệ rất lớn xuất khẩu tư bản thời kỳ trước năm 1914 đi sang các nước tương đối nghèo, khác với thời gian gần đây. Năm 1913, 25% lượng vốn nước ngoài trên toàn thế giới được đầu tư vào các quốc gia có thu nhập bình quân bằng hoặc thấp hơn một phần năm mức GDP trên đầu người của Mỹ; năm 1997, tỷ lệ đó chỉ có 5%. [535]
Có thể các nhà đầu tư Anh chỉ bị lôi cuốn vào các thị trường nước ngoài bởi triển vọng có được lợi nhuận cao hơn tại những khu vực thiếu vốn. [536] Cũng có thể họ được khuyến khích bởi sự lan rộng của bản vị vàng, hoặc bởi trách nhiệm về tài khóa ngày càng cao của các chính phủ nước ngoài. Song thật khó tin được rằng mức đầu tư ra nước ngoài có thể lên cao đến thế trước năm 1914 nếu như không có sự tăng cường sức mạnh của đế quốc Anh. Đâu đó trong khoảng từ hai phần năm đến một nửa số đầu tư ra nước ngoài của Anh là tới các thuộc địa do Anh kiểm soát. Một tỷ lệ khá lớn cũng tới các quốc gia như Argentina và Brazil, những nơi mà Anh có ảnh hưởng không chính thức khá lớn. Và sự đầu tư ra nước ngoài của Anh đã tập trung hầu hết vào các tài sản có thể tăng cường lợi thế chính trị của Anh: không chỉ các trái phiếu chính phủ mà cả chứng khoán huy động vốn cho việc xây dựng các tuyến đường sắt, bến cảng và hầm mỏ. Một phần sức hấp dẫn của các chứng khoán ở thuộc địa là sự bảo lãnh rõ ràng mà một số chứng khoán có được. [537] Đạo luật Cho vay Thuộc địa (1899) và Đạo luật Chứng khoán Thuộc địa (1900) đã trao cho các trái phiếu thuộc địa cùng một quy chế ký thác như đối với trái phiếu hợp nhất vô thời hạn của chính phủ Anh (consol), khiến cho chúng trở thành các món đầu tư khả dĩ đối với các Ngân hàng Tiết kiệm Ký thác. [538] Song sự hấp dẫn thực sự của các chứng khoán thuộc địa mang tính ngầm ẩn hơn là rõ ràng.
Những người thời Victoria áp đặt một bộ định chế đặc biệt lên các thuộc địa của họ, nhiều khả năng điều này đã nâng cao mức độ hấp dẫn của các vùng thuộc địa đối với các nhà đầu tư. Bộ định chế đó không chỉ gói gọn trong bộ ba thần thánh của Gladstone là tiền nhiều, ngân sách cân bằng và thương mại tự do, mà bao gồm thêm cai trị bằng pháp luật (cụ thể là quyền sở hữu tài sản theo kiểu Anh) và một chính quyền tương đối không tham nhũng - nằm trong những thứ "hàng hóa công" quan trọng nhất của chủ nghĩa đế quốc tự do cuối thế kỷ 19. Các hợp đồng nợ với những người vay thuộc địa đơn giản là dễ được chế tài hơn các hợp đồng nợ ký với các nhà nước độc lập. Đó chính là lý do vì sao, như Keynes sau này đã nhận xét, "Nam Rhodesia - một nơi nằm giữa châu Phi với vài nghìn người da trắng định cư và chưa đến một triệu người da đen - có thể đặt một khoản vay không cần bảo đảm, theo những điều kiện không khác gì lắm so với khoản Cho vay Chiến tranh [Anh quốc] của chính chúng ta," trong khi các nhà đầu tư có lẽ ưa thích "chứng khoán Nigeria (là cái không được bảo đảm bởi chính phủ Anh) hơn là các giấy nợ của Công ty Đường sắt London và Đông Bắc". [539] Việc áp đặt luật lệ Anh (như ở Ai Cập năm 1882) trên thực tế cũng ngang như là một sự bảo đảm "không vỡ nợ"; chỉ còn một điểm bất định duy nhất mà các nhà đầu tư phải đối mặt là sự cai trị của Anh sẽ kéo dài bao lâu. Trước năm 1914, bất chấp sự lớn mạnh của các phong trào dân tộc chủ nghĩa ở những vùng bị cai trị khác nhau như Ireland và Ấn Độ, độc lập về chính trị dường như vẫn là một viễn cảnh hoàn toàn xa vời đối với hầu hết các dân tộc bị cai trị. Vào thời điểm đó, ngay cả các khu vực định cư lớn của người da trắng cũng chỉ được trao quyền tự chủ chính trị rất hạn chế. Và không có thuộc địa nào mà triển vọng giành được độc lập lại xa vời như Hồng Kông.
Từ năm 1865 đến 1914, các nhà đầu tư Anh đã đổ ít nhất 74 triệu bảng Anh vào chứng khoán Trung Quốc, chỉ là một phần nhỏ bé trong tổng số 4 tỷ bảng mà họ nắm giữ ở nước ngoài vào thời điểm năm 1914, song đó lại là một số tiền đáng kể đối với đất nước Trung Quốc nghèo khổ. [540] Hẳn nhiên một sự bảo đảm cho các nhà đầu tư là ở chỗ, từ năm 1854 nước Anh không chỉ cai trị Hồng Kông như một thuộc địa, mà còn kiểm soát toàn bộ hệ thống Hải quan Hàng hải Triều đình của Trung Quốc, khiến ít nhất một phần thuế nhập khẩu tại các cảng của Trung Quốc được để dành riêng nhằm trả lãi cho các trái phiếu do Anh sở hữu. Vậy mà ngay cả tại những khu phố Âu của các cảng hiệp ước, nơi quốc kỳ Anh bay phấp phới còn taipan (đại ban, tức thương nhân nước ngoài) nhấp gin và tonic, vẫn có những mối nguy hiểm. Bất kể là người Anh kiểm soát Hồng Kông chặt đến mức độ nào, họ cũng không thể làm gì để ngăn Trung Quốc khỏi lâm vào chiến tranh với Nhật Bản năm 1894-95, sau đó là bạo loạn Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900 và cuối cùng là cuộc cách mạng lật đổ triều đại nhà Thanh năm 1911 - một cuộc cách mạng được châm ngòi một phần bởi sự căm phẫn của người Trung Quốc trước quy mô thống trị của nước ngoài đối với nền kinh tế trong nước. Mỗi lần thời cuộc chính trị đảo điên như vậy, là một lần các nhà đầu tư nước ngoài lại trúng thương vào tử huyệt, túi tiền của họ. Cũng như trong các cuộc khủng hoảng sau đó - cuộc xâm lược của Nhật Bản năm 1941, hay sự tiếp quản của Trung Quốc năm 1997 - các nhà đầu tư ở Hồng Kông đều chứng kiến sự sụt giảm mạnh mẽ giá trị các trái phiếu và chứng khoán Trung Quốc trong tay họ. [541] Tính dễ tổn thương bởi chiến tranh và cách mạng của toàn cầu hóa ở giai đoạn đầu không phải là một đặc điểm riêng của Trung Quốc. Điều đó hóa ra đúng với toàn bộ hệ thống tài chính thế giới.
Ba thập niên trước 1914 là những năm vàng đối với các nhà đầu tư quốc tế, theo đúng nghĩa đen. Thông tin liên lạc với các thị trường ở nước ngoài đã được cải thiện mạnh mẽ: đến năm 1911, một bức điện báo chỉ mất có 30 giây để đi từ New York đến London, và chi phí chuyển nó đi chỉ bằng có 0,5% mức của năm 1866. Các ngân hàng trung ương của châu Âu hầu như đều chuyển sang sử dụng bản vị vàng vào năm 1908; điều đó có nghĩa là hầu như tất cả các ngân hàng đó phải đưa ra mục tiêu đối với dự trữ vàng của họ và nâng lãi suất (hoặc can thiệp bằng cách khác) nếu họ đang chịu sự chảy máu tiền vàng. Dù sao điều đó cũng làm cho cuộc sống đơn giản hơn đối với các nhà đầu tư, do nó giảm thiểu mức độ rủi ro dao động lớn về tỷ giá hối đoái. [542] Các chính phủ trên khắp thế giới dường như cũng cải thiện được tình hình ngân sách khi mà sự giảm phát của các thập niên 1870 và 1880 đã nhường chỗ cho mức độ lạm phát nhẹ kể từ giữa thập niên 1890, giúp giảm gánh nặng nợ nần tính theo mức thực tế. Mức tăng trưởng cao hơn cũng làm tiền thu thuế tăng lên. [543] Dù vậy, lãi suất tiết kiệm dài hạn vẫn nằm ở mức thấp. Mặc dù lãi suất của trái phiếu vô thời hạn Anh tiêu chuẩn tăng thêm hơn một điểm phần trăm từ năm 1897 đến 1914, song đó là do nó tăng từ điểm đáy thấp nhất mọi thời đại là 2,25%. Cái mà ngày nay gọi là mức chênh lệch lãi suất của thị trường mới nổi đã bị thu hẹp lại một cách mạnh mẽ, bất chấp những đợt vỡ nợ lớn trong các thập niên 1870 và 1890. Ngoại trừ các chứng khoán được phát hành bởi các quốc gia tiêu hoang là Hy Lạp và Nicaragua, không một trái phiếu nước ngoài nào được giao dịch ở London năm 1913, dù là của quốc gia độc lập hay thuộc địa, có lãi suất vượt trên 2% so với trái phiếu vô thời hạn Anh, và hầu hết có mức lãi suất thấp hơn đáng kể. Điều đó có nghĩa là bất cứ ai đã mua vào một danh mục đầu tư các trái phiếu của nước ngoài, chẳng hạn vào năm 1880, cũng được hưởng một khoản lãi trên vốn khá lớn. [544]
Lợi nhuận và độ biến động của các trái phiếu từ các cường quốc lớn khác, chiếm gần một nửa khoản nợ nước ngoài được đăng ký ở London, cũng đã đều đặn giảm từ sau năm 1880, cho thấy phí bảo hiểm rủi ro về chính trị cũng đang sụt giảm. Trước năm 1880, các trái phiếu của Áo, Pháp, Đức và Nga thường có xu hướng dao động rất dữ dội trước các tin tức chính trị; song các hoạt động ngoại giao bận rộn và náo nhiệt của một thập niên trước năm 1914, chẳng hạn liên quan đến Marocco và khu vực Balkan, đã không gây ra một chấn động nào trên thị trường trái phiếu London. Mặc dù thị trường chứng khoán Anh vẫn giữ được ổn định tương đối sau vụ sụp đổ của bong bóng Kaffir (mỏ vàng) những năm 1895-1900, mức độ biến động của tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm, ít nhất cũng có một vài bằng chứng liên hệ các xu hướng này với sự tăng dài hạn tính thanh khoản, một phần là bởi sự tăng sản lượng vàng và quan trọng hơn là bởi cải cách tài chính, khi mà các ngân hàng cổ phần mở rộng thêm bảng cân đối so với nguồn dự trữ, còn các ngân hàng tiết kiệm lôi kéo thành công được tiền gửi từ các hộ gia đình trung lưu và hạ lưu. [545]
Tất cả các xu hướng kinh tế tốt lành đó đã khuyến khích tâm trạng lạc quan. Đối với nhiều nhà kinh doanh - từ Ivan Bloch ở nước Nga Sa hoàng đến Andrew Carnegie ở nước Mỹ - một cuộc chiến tranh lớn hiển nhiên sẽ là thảm họa đối với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Năm 1898, Bloch đã công bố một công trình đồ sộ gồm 6 tập mang tên The Future of War (Tương lai của chiến tranh), trong đó ông lập luận rằng, do những tiến bộ công nghệ về sức tàn phá của vũ khí, chiến tranh nhất định là không có tương lai. Bất kỳ một âm mưu nào nhằm phát động chiến tranh trên quy mô lớn sẽ kết thúc với sự "phá sản của các quốc gia". [546] Năm 1910, cùng năm mà Carnegie thành lập Quỹ vì Hòa bình Quốc tế của ông, nhà báo Anh có khuynh hướng cánh tả Norman Angell đã công bố cuốn sách The Great Illusion (Ảo tưởng vĩ đại), trong đó lập luận rằng một cuộc chiến tranh giữa các cường quốc lớn là điều không thể làm được về mặt kinh tế chính bởi vì "tính liên thuộc phức tạp của nền tài chính được xây dựng dựa trên tín dụng của chúng ta". [547] Vào mùa xuân năm 1914, một ủy ban quốc tế đã công bố báo cáo về những tội ác trong thời gian diễn ra các cuộc chiến tranh ở vùng Balkan năm 1912-1913. Bất chấp bằng chứng mà ông và các đồng nghiệp của mình gặp phải, cho thấy chiến tranh có thể nảy sinh từ thù hận giữa các dân tộc, vị chủ tịch ủy ban này vẫn nhận xét trong lời mở đầu cuốn sách là các cường quốc lớn ở châu Âu (không giống như các quốc gia hèn mọn của vùng Balkan) "đã phát hiện ra một sự thật hiển nhiên, là nước giàu có thì có nhiều thứ để mất nhất trong chiến tranh, và mỗi quốc gia đều ước muốn hòa bình trên hết". Một trong những thành viên người Anh của ủy ban này là Henry Noel Brailsford - người ủng hộ trung thành đảng Lao động Độc lập và tác giả cuốn sách chỉ trích mạnh mẽ ngành công nghiệp vũ trang (cuốn The War of Steel and Gold [Cuộc chiến tranh của thép và vàng]) - đã tuyên bố:
Ở châu Âu, thời đại của chinh phục đã qua rồi và ngoại trừ ở Balkan, cùng ở vùng ven rìa các đế quốc Áo và Nga, có lẽ, một điều chắc chắn trong chính trị là biên giới các quốc gia dân tộc của chúng ta cuối cùng đã được vẽ xong. Cá nhân tôi tin tưởng rằng sẽ không còn có thêm cuộc chiến tranh nào nữa giữa sáu cường quốc [548]. [549]
Các thị trường tài chính lúc đầu đã nhún vai bỏ qua vụ Gavrilo Princip ám sát người thừa kế ngai vàng Áo là Thái tử Franz Ferdinand tại thủ đô Sarajevo của Bosnia ngày 28/6/1914. Chỉ đến ngày 22/7 thì báo chí tài chính mới bày tỏ một nỗi lo ngại thực sự nào đó, là cuộc khủng hoảng Balkan có thể sẽ leo thang thành cái gì đó lớn hơn và nguy hiểm hơn về kinh tế. Tuy nhiên, khi các nhà đầu tư hiểu ra một cách muộn màng về khả năng có thể xảy ra một cuộc chiến tranh trên quy mô toàn châu Âu thì thanh khoản đã bị hút sạch khỏi nền kinh tế thế giới như thể cái bồn tắm bung mất đáy. Triệu chứng đầu tiên của cuộc khủng hoảng là việc tăng phí bảo hiểm vận tải đường biển tiếp sau tối hậu thư của Áo cho Serbia (trong đó đòi hỏi, ngoài những thứ khác, rằng các quan chức Áo phải được phép đến Serbia để tìm kiếm chứng cứ về sự đồng lõa của Belgrade trong vụ ám sát). Giá trái phiếu và cổ phiếu bắt đầu trượt xuống khi các nhà đầu tư thận trọng tìm cách tăng tính thanh khoản cho mình bằng cách chuyển dịch sang tiền mặt. Các nhà đầu tư châu Âu đã nhanh chóng đi đầu bán các chứng khoán Nga, tiếp theo sau họ là các nhà đầu tư Mỹ. Tỷ giá hối đoái diễn biến rối loạn trước việc các nhà cho vay xuyên biên giới tìm cách hồi hương tiền của mình: đồng bảng Anh và franc Pháp thì lên giá, trong khi đồng rúp Nga và đô la Mỹ thì mất giá. [550] Đến ngày 30/7 sự hỗn loạn đã ngự trị trên hầu hết các thị trường tài chính. [551] Các công ty đầu tiên bắt đầu chịu áp lực ở London là những kẻ đầu cơ tại Sở Giao dịch Chứng khoán, vốn dựa chủ yếu vào việc vay tiền để huy động tài chính mua cổ phiếu. Khi lệnh bán bắt đầu ập đến, giá trị các cổ phiếu họ nắm giữ đã tụt xuống dưới giá trị nợ của họ, điều đã buộc một số công ty (đáng chú ý nhất là Derenberg & Co.) phải tuyên bố phá sản. Cũng chịu áp lực còn có các nhà môi giới thương phiếu ở London, trong số đó nhiều công ty là chủ nợ những khoản tiền lớn với các đối tác ở châu Âu lục địa hiện không có khả năng hoặc không muốn trả nợ. Những khó khăn ấy sau đó lại tác động lên các cơ sở chấp nhận hối phiếu (tức là các ngân hàng thương mại tinh hoa); họ sẽ nằm ở tuyến đầu nếu như những người nước ngoài vỡ nợ, bởi vì họ là người chấp nhận các hối phiếu. Nếu các cơ sở chấp nhận hối phiếu sụp đổ, thì các nhà môi giới hối phiếu cũng sẽ chìm xuồng cùng với họ, và có thể là cả các ngân hàng cổ phần lớn hơn, những nơi hằng ngày cho thị trường chiết khấu vay hàng triệu đồng ngắn hạn. Quyết định của các ngân hàng cổ phần đòi lại các khoản cho vay càng làm trầm trọng thêm cái mà ngày nay chúng ta gọi là sự đổ vỡ tín dụng (credit crunch). [552] Khi mà ai ai cũng tranh nhau bán tài sản và tăng thanh khoản của mình, giá chứng khoán sụt mạnh, gây tổn thương cho các nhà môi giới và những ai khác đã vay tiền bằng cách sử dụng cổ phiếu làm thế chấp. Khách hàng trong nước bắt đầu lo sợ một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Những dãy người xếp hàng dài xuất hiện khi người ta tìm cách đổi tiền giấy lấy tiền xu bằng vàng tại Ngân hàng Anh. [553] Kết quả là London tạm ngưng vai trò làm trung tâm tín dụng quốc tế, khiến cuộc khủng hoảng mở rộng từ châu Âu ra khắp thế giới.
Có lẽ đặc điểm nổi bật nhất của cuộc khủng hoảng năm 1914 là việc đóng cửa các thị trường chứng khoán lớn của thế giới trong các khoảng thời gian nhiều nhất đến năm tháng. Thị trường Vienna đóng cửa đầu tiên (27/7). Đến ngày 30/7, tất cả các thị trường chứng khoán ở châu Âu lục địa đều đóng cửa theo. Ngày hôm sau, thị trường London và New York cũng buộc phải đi theo cách đó. Mặc dù một ngày kết toán muộn màng vẫn được tiến hành khá suôn sẻ vào 18/11, Sở Giao dịch Chứng khoán London không mở cửa lại cho đến tận ngày 4/1/1915. Chưa từng có điều gì như thế xảy ra kể từ khi thị trường này được thành lập năm 1773. [554] Thị trường New York được mở lại cho giao dịch giới hạn (chỉ bán trái phiếu lấy tiền) vào ngày 28/11, song phải đến ngày 1/4/1915 mới trở lại hoạt động không giới hạn. [555] Song thị trường chứng khoán không phải là các thị trường duy nhất bị đóng cửa trong cuộc khủng hoảng này. Hầu hết các thị trường hàng hóa Mỹ cũng buộc phải ngừng giao dịch, và hầu hết các thị trường hối đoái của châu Âu cũng vậy. Chẳng hạn, Sở Giao dịch Hoàng gia London đã đóng cửa cho đến ngày 17/9. [556] Có vẻ như, nếu các thị trường không đóng cửa, thì sự sụp đổ về giá cả hẳn sẽ đến mức cực điểm như năm 1929, nếu không nói là tồi tệ hơn. Không một hành động khủng bố được nhà nước bảo trợ nào lại có hậu quả tài chính to lớn hơn là hành động của Gavrilo Princip năm 1914.
Việc áp dụng bản vị vàng hầu như khắp thế giới đã từng được xem là một thuận lợi cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng năm 1914, điều đó lại có xu hướng làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng thanh khoản. Một số ngân hàng trung ương (đặc biệt là Ngân hàng Anh) trên thực tế đã nâng lãi suất chiết khấu trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, một cố gắng vô ích nhằm ngăn người nước ngoài chuyển vốn về nhà làm cạn kiệt dự trữ vàng. Lượng dự trữ vàng liệu có đủ dùng trong các tình thế khẩn cấp hay không đã từng là đề tài tranh luận nảy lửa trước chiến tranh; thực sự thì các cuộc tranh luận đó gần như là bằng chứng duy nhất cho thấy thế giới tài chính đã từng có một mảy may suy nghĩ nào về mối nguy đang nằm phía trước. [557] Tuy vậy bản vị vàng cũng không phải cách ràng buộc chặt chẽ gì hơn so với việc neo tỷ giá theo đồng đô la một cách không chính thức ở châu Á và Trung Đông ngày nay; trong tình thế khẩn cấp của chiến tranh, một loạt nước, bắt đầu từ Nga, đã mạnh tay đình chỉ khả năng chuyển đổi đồng tiền của họ sang vàng. Ở cả Anh và Mỹ việc chuyển đổi vẫn diễn ra, nhưng hẳn nó đã bị đình chỉ nếu người ta cho là cần thiết. (Ngân hàng Anh được trao quyền đình chỉ Đạo luật Ngân hàng năm 1844, vốn áp đặt một mối tương quan không đổi giữa dự trữ của Ngân hàng Anh và lượng tiền giấy phát hành, song điều đó không tương đương với việc đình chỉ chi trả bằng tiền kim loại, việc có thể dễ dàng được duy trì ở mức dự trữ thấp hơn). Trong mỗi trường hợp, cuộc khủng hoảng đều thúc đẩy việc phát hành tiền giấy khẩn cấp: ở Anh là các tờ giấy bạc 1 bảng và 10 shilling; ở Mỹ là đồng tiền khẩn cấp mà các ngân hàng được phép phát hành theo Đạo luật Aldrich-Vreeland năm 1908. [558] Khi đó, cũng như hiện nay, giới chức chính quyền đã phản ứng lại cuộc khủng hoảng thanh khoản bằng cách in tiền.
Đó không phải là các biện pháp duy nhất được xem là cần thiết. Ở London, ngày "nghỉ lễ ngân hàng" vào thứ Hai 3/8 đã được kéo dài đến tận thứ Năm 6/8. Việc chi trả các hối phiếu đến hạn đã được hoãn lại một tháng theo tuyên bố của hoàng gia. Một lệnh hoãn trả nợ trong một tháng đối với tất cả các khoản chi đến hạn (trừ lương, thuế, lương hưu và những thứ tương tự như vậy) đã được vội vã đưa vào các pháp lệnh. (Các lệnh hoãn này sau đó được lần lượt gia hạn đến ngày 19/10 và 4/11.) Ngày 13/8 Bộ trưởng Tài chính đã trao cho Ngân hàng Anh lời bảo đảm rằng, nếu như ngân hàng này hạ giá tất cả các hối phiếu đã được chấp nhận trước ngày 4/8 (tức là khi chiến tranh được tuyên bố) "mà không truy đòi những người nắm giữ", thì Bộ Tài chính sẽ chịu phí tổn trước bất kỳ thiệt hại nào có thể gây ra cho Ngân hàng Anh. Điều này chẳng khác gì một sự giải cứu của chính phủ đối với các hãng chiết khấu; nó mở cửa cho sự mở rộng mạnh mẽ lượng tiền cơ sở, với việc các hối phiếu đổ vào ngân hàng để được giảm giá. Ngày 5/9, sự hỗ trợ này được mở rộng sang các cơ sở chấp nhận hối phiếu. [559] Cách thức có thể thay đổi ở nước này so với nước khác, song các kế sách nhìn chung là tương tự và ở một phạm vi chưa từng có tiền lệ: sự đóng cửa tạm thời các thị trường, lệnh hoãn trả các khoản nợ, việc phát hành tiền khẩn cấp của chính phủ, việc giải cứu các tổ chức dễ bị nguy hại nhất. Ở tất cả các khía cạnh này, các chính quyền đã sẵn sàng đi xa hơn nhiều so với những gì họ đã từng làm trước đây trong các cuộc khủng hoảng tài chính thuần túy. Như những gì từng xảy ra trong cuộc "chiến tranh thế giới" trước đây (chống lại nước Pháp cách mạng và sau đó là nước Pháp của Napoléon hơn một thế kỷ trước), cuộc chiến tranh năm 1914 được hiểu như một loại tình thế khẩn cấp đặc biệt, cho phép các biện pháp mà trong thời bình là không thể tưởng tượng được, kể cả việc (như một thượng nghị sĩ đảng Bảo thủ đã diễn đạt) "giải phóng cho các ngân hàng... khỏi tất cả các khoản trách nhiệm". [560]
Việc đóng cửa thị trường chứng khoán và sự can thiệp của chính quyền để cung cấp thanh khoản gần như đã ngăn chặn được tình trạng đổ xô bán rẻ tài sản. Thị trường chứng khoán London đã sụt giảm 7% giá trị vào năm xảy ra đình chỉ giao dịch, còn trước cả khi cuộc chiến bắt đầu. Các số liệu rải rác về giao dịch trái phiếu (được tiến hành trên đường phố theo đúng nghĩa đen trong thời gian thị trường chứng khoán đóng cửa) cho ta một cảm nhận về tác hại đối với các nhà đầu tư, bất chấp các nỗ lực của giới chức trách. Đến cuối năm 1914, trái phiếu Nga đã giảm 8,8%, trái phiếu vô thời hạn Anh giảm 9,3%, trái phiếu rente Pháp giảm 13,2% và trái phiếu Áo giảm 23%. [561] Theo lời Patrick Shaw-Stewart từ ngân hàng Barings, đó là "một trong những điều tệ hại nhất mà London đã gặp phải kể từ khi ngành tài chính tồn tại". [562] Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự khởi đầu. Trái với ảo tưởng về một cuộc "chiến tranh ngắn hạn" (phổ biến trong giới tài chính hơn là trong giới quân sự), còn đến 4 năm chém giết nữa, và một giai đoạn thiệt hại tài chính thậm chí còn dài hơn thế. Bất kỳ một nhà đầu tư nào quá dại dột hoặc quá yêu nước vẫn tiếp tục nắm giữ các chứng khoán viền vàng (các trái phiếu vô thời hạn của chính phủ hoặc các khoản vay chiến tranh của Anh) chắc hẳn sẽ phải chịu những thiệt hại được điều chỉnh theo lạm phát -46% vào năm 1920. Thậm chí tỷ suất lợi nhuận thực tế của các cổ phiếu cũng là con số âm (-27%). [563] Lạm phát ở Pháp và siêu lạm phát ở Đức thậm chí còn trừng phạt nặng nề hơn bất cứ ai quá liều lĩnh mà nắm giữ một lượng lớn đồng franc Pháp hoặc đồng mác Đức. Đến năm 1923, những người nắm giữ bất kỳ loại chứng khoán nào của Đức đã mất hết mọi thứ, mặc dù đạo luật định giá lại sau đó đã khôi phục một phần vốn ban đầu của họ. Những ai nắm giữ một lượng đáng kể các trái phiếu của Áo, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga cũng bị thiệt hại nặng nề - ngay cả khi các trái phiếu đó được định giá theo vàng - khi mà các đế chế Habsburg, Ottoman và Romanov tan vỡ dưới sức ép của một cuộc chiến tranh tổng lực. Các thiệt hại xảy đến đặc biệt bất ngờ và nặng nề đối với trường hợp trái phiếu Nga mà chế độ Bolshevik tuyên bố không trả nợ vào tháng 2/1918. Vào thời điểm đó, các trái phiếu 5% của Nga năm 1906 được giao dịch ở mức dưới 45% mệnh giá của chúng. Hy vọng về một sự dàn xếp nào đó với các nhà cho vay nước ngoài vẫn lởn vởn suốt trong thập niên 1920, thời kỳ các trái phiếu được giao dịch ở mức khoảng 20% giá trị danh nghĩa. Đến thập niên 1930 thì chúng trở thành vô giá trị. [564]
Bất chấp các nỗ lực hết sức mình của các chủ ngân hàng, những người vẫn cho ra mắt không biết mệt mỏi các khoản vay không có triển vọng nào, chẳng hạn như chi trả bồi thường chiến phí của Đức, rõ ràng là không còn có thể khôi phục lại trật tự cũ giữa hai cuộc chiến tranh về tính lưu động của vốn tự do. Các cuộc khủng hoảng tiền tệ, vỡ nợ, tranh cãi về chiến phí và nợ chiến tranh, và sau đó là sự bắt đầu cuộc Đại Suy thoái đã buộc ngày càng nhiều quốc gia phải áp đặt kiểm soát ngoại tệ và vốn cũng như đặt các mức thuế quan bảo hộ cùng các hạn chế thương mại khác, trong một nỗ lực vô ích nhằm bảo toàn tài sản quốc gia, hy sinh hối đoái quốc tế. Chẳng hạn, ngày 19/10/1921, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố phá sản, và bắt đầu vỡ nợ đối với hầu như toàn bộ các khoản nợ nước ngoài. Đây là câu chuyện được lặp lại trên khắp thế giới, từ Thượng Hải đến Santiago, từ Moskva đến Mexico City. Đến cuối thập niên 1930, hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước giữ được tự do về chính trị, đã áp đặt các hạn chế lên thương mại, di cư và đầu tư như một chuyện tất nhiên. Một số quốc gia đã đạt tới sự tự cung tự cấp hầu như hoàn toàn về kinh tế (autarky), mẫu hình lý tưởng của một xã hội giải toàn cầu hóa. Một cách có ý thức hay vô ý thức, tất cả các chính phủ đều áp dụng trong thời bình các hạn chế về kinh tế đã được áp đặt lần đầu tiên trong khoảng thời gian từ năm 1914 đến 1918.
Những căn nguyên của Thế chiến thứ nhất đã trở nên rõ nét - chẳng bao lâu sau khi nó nổ ra. Chỉ đến khi đó thì lãnh tụ Bolshevik là Lenin mới nhận thấy rằng chiến tranh là hệ quả không thể tránh khỏi của cạnh tranh đế quốc. Chỉ đến khi đó những người theo chủ nghĩa tự do Mỹ mới hiểu ra rằng ngoại giao kín và tình trạng rối ren của các đồng minh châu Âu là những nguyên nhân chủ yếu gây ra xung đột. Người Pháp và người Anh hiển nhiên đổ tội cho người Đức; người Đức lại buộc tội người Pháp và người Anh. Đến nay, đã hơn chín mươi năm, các sử gia vẫn đang soi xét và sửa đổi các lập luận đó. Một số người đã truy lại nguồn gốc của cuộc chiến tranh là từ cuộc chạy đua hải quân vào giữa thập niên 1890; một số khác thì đổ cho các sự kiện ở Balkan sau năm 1907. Vậy thì tại sao, khi các nguyên nhân của cuộc chiến tranh đó ngày nay dường như nhiều và rõ ràng đến vậy, những người đương thời lúc đó lại không hề hay biết gì mãi cho đến tận vài ngày trước khi trận quyết chiến cuối cùng nổ ra? Một câu trả lời khả dĩ là tầm nhìn của họ bị mờ đi trước sự thừa thãi thanh khoản và sự trôi qua của thời gian. Kết hợp giữa toàn cầu hóa và cải cách tài chính đã làm thế giới dường như trở nên an toàn một cách chắc chắn đối với các nhà đầu tư. Hơn thế nữa, khi đó đã ba mươi tư năm trôi qua kể từ cuộc chiến tranh lớn cuối cùng ở châu Âu, giữa Đức và Pháp, và cuộc chiến tranh đó lại ngắn một cách nhân từ. Tất nhiên, xét về mặt địa chính trị, thế giới chưa hề là một nơi an toàn. Bất cứ bạn đọc nào của tờ lá cải Daily Mail cũng có thể thấy rằng cuộc chạy đua vũ trang ở châu Âu và sự cạnh tranh đế quốc một ngày nào đó có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh lớn; thực sự, có cả một tiểu loại văn học hư cấu được ưa chuộng miêu tả những cuộc chiến tranh tưởng tượng giữa Anh và Đức. Tuy vậy những ngọn đèn trong các thị trường tài chính vẫn nhấp nháy màu xanh, chứ không phải màu đỏ, cho đến tận trước ngày xảy ra cuộc hủy diệt.
Ở đây cũng có một bài học cho thời đại của chúng ta. Kỷ nguyên thứ nhất của toàn cầu hóa đã mất ít nhất là một thế hệ mới đạt được. Song nó đã bị vỡ tan chỉ trong vài ngày. Và phải mất hơn hai thế hệ để sửa chữa lại những thiệt hại do súng đạn gây ra vào tháng 8/1914.
Các sát thủ kinh tế
Từ thập niên 1930 đến cuối thập niên 1960, tài chính quốc tế và ý tưởng toàn cầu hóa đã chìm vào giấc ngủ - một số người thậm chí còn coi là nó đã cáo chung. [565] Nói theo lời của nhà kinh tế người Mỹ Arthur Bloomfield trong một bài viết năm 1946:
Học thuyết hiện được đánh giá cao trong giới khoa học cũng như giới ngân hàng, cho rằng một biện pháp kiểm soát trực tiếp mạnh mẽ đối với luồng di chuyển vốn tư nhân, đặc biệt là các hình thức vẫn được gọi là tiền nóng, sẽ là điều cần thiết đối với hầu hết các quốc gia không chỉ trong những năm trước mắt, mà cả trong dài hạn... Sự trở mặt mang tính lý luận này thể hiện nỗi thất vọng lan rộng trước hành vi mang tính hủy hoại của các luồng chuyển động vốn đó trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. [566]
Tại vùng Bretton Woods, trên dãy White Mountains thuộc bang New Hampshire, các nước Đồng minh mà chẳng bao lâu nữa sẽ chiến thắng đã gặp nhau vào tháng 7/1944 để đề ra một kiến trúc tài chính mới cho thế giới hậu chiến. Trong trật tự mới này, thương mại sẽ được tự do hóa ngày càng mạnh, song những hạn chế đối với luồng di chuyển vốn thì sẽ phải giữ nguyên. Các tỷ giá hối đoái sẽ được giữ cố định, cũng giống như dưới thời bản vị vàng, nhưng bây giờ cái neo - một đồng tiền dự trữ quốc tế - sẽ phải là đồng đô la chứ không phải vàng (mặc dù bản thân đồng đô la trên lý thuyết sẽ vẫn có thể chuyển đổi thành vàng, và một lượng vàng lớn sẽ được giữ yên như một vật thiêng liêng tại Fort Knox). Nói theo lời của Keynes, một trong những kiến trúc sư chủ chốt của hệ thống Bretton Woods, "kiểm soát luồng di chuyển vốn" sẽ phải là "một đặc điểm thường trực của hệ thống tài chính sau chiến tranh". [567] Thậm chí những người đi du lịch cũng bị cấm mang quá một số tiền nhất định ra nước ngoài nếu các chính phủ cảm thấy không thể cho đồng nội tệ của mình chuyển đổi thành vàng được. Khi các lượng vốn di chuyển qua biên giới quốc gia, chúng sẽ phải di chuyển từ chính phủ này sang chính phủ khác, giống như Viện trợ Marshall [568] từ năm 1948 đến 1952 đã giúp hồi sinh Tây Âu bị tàn phá nặng nề. [569] Hai "chị em" đứng bảo vệ cho trật tự mới được thành lập ở Washington D.C., thủ đô của "thế giới tự do": Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế, sau này (kết hợp với Hiệp hội Phát triển Quốc tế) được biết đến với cái tên Ngân hàng Thế giới. Theo lời của Chủ tịch Ngân hàng Thế giới hiện nay là Robert Zoellick, "IMF được xem là nơi điều tiết tỷ giá trao đổi ngoại tệ. Còn Ngân hàng Thế giới ban đầu được xem là nơi giúp xây dựng lại các quốc gia đã bị chiến tranh tàn phá. Thương mại tự do sẽ được hồi sinh. Song luồng di chuyển vốn tự do bị khai trừ." Đây là cách trong một phần tư thế kỷ sau đó, các chính phủ đã giải quyết cái gọi là "bộ ba vấn đề đối nghịch", theo đó một quốc gia chỉ có thể lựa chọn hai trong số ba phương án chính sách sau:
1. tự do hoàn toàn cho các luồng di chuyển vốn qua biên giới;
2. một tỷ giá trao đổi ngoại tệ cố định;
3. một chính sách tiền tệ độc lập hướng vào các mục tiêu trong nước. [570]
Dưới hệ thống Bretton Woods, các quốc gia phương Tây đã lựa chọn phương án 2 và 3. Trên thực tế, xu hướng là kiểm soát vốn sẽ ngày càng chặt chẽ hơn chứ không phải là dễ dãi hơn. Một ví dụ phù hợp là Đạo luật Cân bằng Quyền lợi được Mỹ thông qua năm 1963, một đạo luật được thiết kế rõ ràng để không khuyến khích người Mỹ đầu tư vào các chứng khoán nước ngoài.
Tuy nhiên, vẫn luôn tồn tại sự không bền vững ở hệ thống Bretton Woods. Đối với Thế giới thứ ba, nhiều nỗ lực khác nhau nhằm bắt chước Kế hoạch Marshall thông qua các chương trình viện trợ liên chính phủ đã cho những kết quả thực sự đáng thất vọng. Dần dần, viện trợ - đặc biệt là của Mỹ - đã đi kèm các điều kiện về chính trị và quân sự mà không phải lúc nào cũng bảo vệ quyền lợi của các quốc gia tiếp nhận viện trợ. Thậm chí ngay cả khi không xảy ra điều đó, người ta cũng nghi ngại rằng liệu việc bơm vốn theo cách thức của các nhà kinh tế Mỹ như Walt Rostow [571] có phải là lời giải cho các vấn đề của hầu hết các nền kinh tế châu Phi, châu Á và Mỹ Latin hay không. Hầu hết viện trợ được giải ngân cho các quốc gia nghèo khổ, song phần lớn trong số đó hoặc là bị lãng phí vô ích, hoặc là bị rút ruột. [572] Trong khi Bretton Woods đã thành công trong việc tạo ra sự giàu có mới bằng cách hỗ trợ cho sự phục hồi của Tây Âu, thì nó chỉ làm các nhà đầu tư thất vọng khi họ thấy mức độ rủi ro nằm trong sự "thiên vị nhà" quá mức. Và trong khi nó đã cho phép các quốc gia buộc chính sách tiền tệ phải phục vụ mục tiêu lao động toàn dụng (full employment), thì hệ thống này lại tạo ra những xung đột tiềm tàng giữa phương án 2 và 3 của bộ ba đối nghịch. Vào cuối thập niên 1960 thâm hụt của khu vực công ở Mỹ tuy còn rất nhỏ bé so với mức ngày nay, song cũng đủ lớn để gây ra những lời than phiền từ Pháp, rằng Washington đang khai thác vị thế đồng tiền dự trữ của mình nhằm thu chênh lệch những chủ nợ nước ngoài của Mỹ bằng cách in thêm đồng đô la, chẳng khác gì các lãnh chúa thời Trung cổ đã khai thác vị thế độc quyền đúc tiền của họ để hạ thấp giá trị đồng tiền. Quyết định của chính quyền Nixon cắt đứt mối liên hệ cuối cùng với bản vị vàng (bằng việc chấm dứt chuyển đổi đô la ra vàng) vang lên như một hồi chuông báo tử cho Bretton Woods năm 1971. [573] Khi cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel và cuộc cấm vận dầu mỏ của Ả Rập nổ ra năm 1973, hầu hết các ngân hàng trung ương tìm cách giảm nhẹ cơn sốc về giá bằng việc nới lỏng tín dụng, dẫn đến một cuộc khủng hoảng lạm phát đúng như cố vấn của Tướng de Gaulle là Jacques Rueff đã từng lo ngại. [574]
Với việc các đồng tiền lại được thả nổi và các thị trường ở nước ngoài như thị trường trái phiếu châu Âu (Eurobond) lại bừng lên, thập niên 1970 đã chứng kiến sự hồi sinh của xuất khẩu vốn phi chính phủ. Đặc biệt, các ngân hàng phương Tây đã mau chóng quay vòng thặng dư hiện tăng lên một cách nhanh chóng của các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ. Khu vực mà các ngân hàng lựa chọn để cho vay những đồng đô la dầu mỏ của Trung Đông chính là khu vực ưa thích trước đây. Từ năm 1975 đến 1982, Mỹ Latin đã tăng gấp bốn lần các khoản vay nước ngoài từ 75 tỷ đô la lên trên 315 tỷ đô la. (Các quốc gia Đông Âu cũng bước vào thị trường vay vốn, một dấu hiệu chắc chắn về sự sụp đổ không thể tránh khỏi của khối Cộng sản này.) Sau đó, tháng 8/1982, Mexico tuyên bố rằng họ không còn có khả năng trả nợ nữa. Toàn bộ lục địa nằm chênh vênh trên bờ vực phá sản. Song đã qua rồi những ngày mà các nhà đầu tư có thể trông đợi các chính phủ của họ sẽ gửi pháo hạm đến khi chính phủ nước ngoài hành xử không đúng mực. Giờ đây, vai trò cảnh sát tài chính thuộc về hai nhà ngân hàng không vũ trang là Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Khẩu lệnh mới của hai tổ chức này là "có điều kiện": không có cải cách thì sẽ không có tiền. Cơ chế ưa thích của các tổ chức này là chương trình điều chỉnh cơ cấu. Và bộ chính sách mà các nước vay nợ buộc phải chấp nhận được mang tên gọi là Đồng thuận Washington, một danh mục mong muốn gồm mười chính sách kinh tế chắc hẳn sẽ làm cho cả chính quyền đế quốc Anh cách đó một trăm năm cũng phải vui sướng. [575] Chính sách thứ nhất là áp đặt quy tắc tài khóa để giảm thiểu hoặc chấm dứt thâm hụt ngân sách. Cơ sở tính thuế cần được mở rộng, còn mức thuế cần được hạ xuống. Phải để thị trường thiết lập lãi suất và tỷ giá. Thương mại, và nhất là các luồng vốn, phải được tự do hóa. Thế là bỗng nhiên đồng tiền "nóng", từng bị khai trừ thời Bretton Woods, lại nóng hổi trở lại.
Tuy nhiên, đối với một số nhà phê bình thì Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế chẳng hơn gì nhân viên của chủ nghĩa đế quốc Mỹ muôn thuở. Bất cứ khoản vay nào từ IMF hoặc từ Ngân hàng Thế giới, họ bảo, rồi sẽ lại chỉ dùng để mua hàng hóa Mỹ từ các công ty của Mỹ - mà thường là vũ khí để duy trì các chế độ độc tài tàn bạo hoặc các tập đoàn đầu sỏ tham nhũng đang nắm quyền. Phí tổn từ "điều chỉnh cơ cấu" sẽ do chính các đối tượng không may nằm dưới những chính quyền này gánh chịu. Và lãnh đạo nào ở Thế giới thứ ba bước chệch ra khỏi đường lối này sẽ nhanh chóng nhận ra mình gặp phải khó khăn. Những điều đó đã trở thành các luận điểm phổ biến, đặc biệt là vào thập niên 1990, khi các cuộc biểu tình phản đối toàn cầu hóa đã trở thành một đặc điểm thường thấy bên lề các hội nghị quốc tế. Khi xuất hiện trên các biểu ngữ hoặc trong tiếng la hét ầm ĩ của các đám đông thanh niên phương Tây béo tốt, những quan điểm như vậy có thể dễ dàng bị bác bỏ. Song khi mà lời buộc tội tương tự nhằm vào các định chế của Bretton Woods xuất phát từ chính những người trong cuộc trước đây, thì các vấn đề xứng đáng được xem xét thận trọng hơn.
Khi là kinh tế gia trưởng của công ty Chas. T. Main, Inc. có trụ sở ở Boston, John Perkins nói vậy, ông được thuê để đảm bảo rằng tiền mà IMF và Ngân hàng Thế giới cho các quốc gia như Ecuador và Panama vay sẽ được dùng để mua hàng hóa do các công ty Mỹ cung cấp. Theo Perkins, "các sát thủ kinh tế" như ông "được huấn luyện... để gây dựng nên đế chế Mỹ... để tạo ra các tình thế trong đó càng nhiều tài nguyên chảy vào đất nước này, vào các tập đoàn của chúng ta, vào các chính quyền của chúng ta càng tốt":
Đế chế này, không giống như bất kỳ đế chế nào khác trong lịch sử thế giới, được xây dựng chủ yếu thông qua sự thao túng kinh tế, thông qua lừa đảo, gian lận, thông qua việc dụ dỗ người khác vào lối sống của chúng ta, thông qua những sát thủ kinh tế... Công việc thực sự của tôi... là đưa các khoản cho vay tới các quốc gia, những khoản cho vay khổng lồ, lớn hơn rất nhiều so với mức họ có thể trả lại được... Khoản cho vay lớn này phần lớn quay trở lại nước Mỹ, còn quốc gia đi vay thì phải gánh khoản nợ cộng với lãi rất lớn, và thực tế họ trở thành đầy tớ của chúng ta, nô lệ của chúng ta. Đây là một đế chế. Không có cách diễn đạt nào khác. Đây là một đế chế khổng lồ. [576]
Theo cuốn sách The Confessions of an Economic Hit Man (Lời thú tội của một sát thủ kinh tế) của Perkins, hai lãnh tụ Mỹ Latin là Jaime Roldós Aguilera của Ecuador và Omar Torrijos của Panama đã bị ám sát năm 1981 vì đã chống lại cái mà tác giả gọi là "hội đồng môn những người đứng đầu tập đoàn, chính phủ và ngân hàng, có chung mục tiêu là đế chế toàn cầu". [577] Phải thú thực là có một cái gì đó trong câu chuyện mà mới nhìn qua đã thấy có vẻ hơi khác thường. Không phải là Mỹ đã cho Ecuador và Panama vay rất nhiều tiền. Trong thập niên 1970, tổng số tiền các nước này vay chỉ là 96 triệu đô la và 197 triệu đô la, chưa đến 0,4% tổng số viện trợ và cho vay của Mỹ. Và cũng không phải Ecuador và Panama là những khách hàng lớn của Mỹ. Năm 1990, hai quốc gia này chỉ chiếm tương ứng 0,17% và 0,22% tổng xuất khẩu của Mỹ. Những con số này có lẽ không đáng phải chém giết. Như Bob Zoellick đã diễn đạt, "Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới chọn các quốc gia đang bị khủng hoảng để cho vay tiền, chứ không phải các quốc gia mang lại các cơ hội khổng lồ cho doanh nghiệp Mỹ."
Jaime Roldós Aguilera của Ecuador...
...và Omar Torrijos của Panama: được cho là các nạn nhân của những "sát thủ kinh tế"
Mặc dù vậy, lời buộc tội chủ nghĩa đế quốc mới không chịu biến mất. Theo nhà kinh tế học được giải Nobel là Joseph Stiglitz, nguyên kinh tế gia trưởng tại Ngân hàng Thế giới từ năm 1997 đến 2000, thì IMF trong thập niên 1980 không chỉ "bảo vệ cho tính ưu việt của thị trường với một sự hăng hái về tư tưởng hệ" mà còn "có quan điểm khá đế quốc" về vai trò của mình. Hơn thế nữa, như Stiglitz lập luận, "rất nhiều trong số các chính sách mà IMF đã ép buộc, đặc biệt là việc tự do hóa thị trường vốn quá sớm, đã góp phần tạo ra sự bất ổn định trên toàn cầu... Công ăn việc làm bị hủy hoại một cách có hệ thống... [bởi vì] luồng chảy của dòng tiền nóng vào và ra khỏi quốc gia, thường diễn ra sau khi thị trường vốn được tự do hóa, luôn để lại sự tàn phá sau lưng... Thậm chí ngay cả những nước đã đạt được mức tăng trưởng giới hạn cũng đã chứng kiến những lợi ích ấy tập trung vào những người khá giả hoặc rất khá giả." [578] Trong sự oán giận của ông đối với IMF (và Phố Wall), Stiglitz đã bỏ qua một thực tế là, không chỉ có các tổ chức đó đã ủng hộ cho sự trở lại của luồng vốn tự do trong thập niên 1980. Thực ra chính Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã san ủi để mở ra con đường tự do hóa, và tiếp theo sau (sau sự đổi màu của những người Pháp theo chủ nghĩa xã hội như Jacques Delors và Michel Camdessus) là ủy ban châu Âu và Hội đồng châu Âu. Trên thực tế, dường như đã có Đồng thuận Paris còn trước cả Đồng thuận Washington (mặc dù trên nhiều khía cạnh, nó được xây dựng dựa trên Đồng thuận Bonn có từ sớm hơn nhiều, ủng hộ các thị trường vốn tự do). [579] Ở London cũng vậy, chính phủ của Margaret Thatcher đã hối thúc việc đơn phương tự do hóa tài khoản vốn mà không hề có sự thúc ép nào từ phía Mỹ. Đúng hơn, chính chính quyền Reagan đã bước theo sự dẫn đường của Thatcher.
Lời than phiền lớn nhất của Stiglitz đối với IMF là tổ chức này đã phản ứng một cách sai lầm trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 khi cho vay tổng cộng là 95 tỷ đô la tới các quốc gia đang gặp khó khăn, song lại gắn với các điều kiện theo kiểu Đồng thuận Washington (như lãi suất cao hơn, thâm hụt ngân sách chính phủ thấp hơn), những thứ trên thực tế là nguyên nhân làm tồi tệ thêm cuộc Khủng hoảng đó. Quan điểm được nhắc lại phần nào bởi nhà kinh tế học và nhà bình luận Paul Krugman [580]. Không ai còn nghi ngờ về mức độ khốc liệt của cuộc Khủng hoảng 1997-1998. Ở những quốc gia như Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan, suy thoái nghiêm trọng đã xảy ra năm 1998. Song cả Stiglitz lẫn Krugman đều không đưa ra được một đề xuất nào thuyết phục để kiểm soát tốt hơn cuộc khủng hoảng Đông Á dựa trên các đường lối tiêu chuẩn trên tinh thần Keynes, trong đó các đồng tiền được phép thả nổi còn thâm hụt của chính phủ được phép tăng lên. Theo những lời lẽ gay gắt trong bức thư ngỏ gửi Stiglitz của Kenneth Rogoff, người đã trở thành kinh tế gia trưởng của IMF sau cuộc khủng hoảng châu Á:
Các chính phủ thường tìm đến sự hỗ trợ tài chính của IMF khi họ gặp khó khăn không tìm được những người mua khoản nợ của họ và khi giá trị đồng tiền của họ sụt giảm. Đơn thuốc của Stiglitz là tăng... thâm hụt ngân sách, có nghĩa là phát hành nhiều nợ hơn nữa và in nhiều tiền hơn nữa. Ông dường như tin rằng nếu một chính phủ đương cơn khốn quẫn phát hành thêm tiền giấy, tiền ấy sẽ đột nhiên có thêm giá trị trong mắt người dân. Ông dường như tin tưởng rằng một khi các nhà đầu tư không còn mong muốn nắm giữ nợ của chính phủ, tất cả những gì cần làm là chỉ việc tăng cung lên và trái phiếu sẽ bán chạy như là bánh mì nóng hổi. Chúng tôi tại IMF - không, hãy hiểu là chúng tôi trên hành tinh Trái đất này - có kinh nghiệm dày dặn hơn để đề xuất một điều khác. Chúng tôi, những kẻ trần tục, đã phát hiện ra rằng khi một quốc gia đang trong tình trạng nguy khốn về ngân sách tìm cách thoát ra bằng việc in thêm tiền thì lạm phát sẽ tăng lên, mà thường là không thể kiểm soát nổi... Các định luật của kinh tế học có thể khác biệt ở góc vũ trụ của các ông, song ở đây, chúng tôi phát hiện ra rằng nếu một chính phủ hầu như đã phá sản không có khả năng giới hạn một cách đáng tin cậy lịch trình thâm hụt ngân sách, sự việc thường là sẽ trở nên tồi tệ hơn chứ không phải tốt đẹp hơn. [581]
Một điều chưa rõ ràng nữa là liệu việc Malaysia tạm thời áp đặt sự kiểm soát luồng vốn vào năm 1997 có tạo ra khác biệt đáng kể nào đối với nền kinh tế này trong thời gian khủng hoảng hay không. Krugman ít nhất cũng thừa nhận rằng các tổ chức tài chính của Đông Á, những người đã vay ngắn hạn bằng đồng đô la song lại cho vay dài hạn bằng đồng nội tệ của mình (thường là cho nhóm lợi ích), phải chịu phần lớn trách nhiệm về cuộc khủng hoảng này. Tuy nhiên, việc ông nói về sự quay trở lại của kinh tế học thời Đại Suy thoái lúc này xem ra có vẻ quá trớn. Chưa bao giờ xảy ra một cuộc Đại Suy thoái ở Đông Á (có lẽ ngoại trừ ở Nhật Bản, một nước khó có thể được xem là nạn nhân thói bất lương của IMF). Sau cú sốc năm 1998, tất cả các nền kinh tế bị ảnh hưởng đã nhanh chóng quay lại với tốc độ tăng trưởng nhanh - thực sự là tăng trưởng nhanh đến nỗi mà đến năm 2004 một số nhà bình luận đã đặt câu hỏi là liệu "hai chị em" của Bretton Woods có còn đóng bất kỳ một vai trò nào với tư cách là những nhà cho vay quốc tế. [582]
Thực ra, thập niên 1980 đã chứng kiến sự phát triển của một loại sát thủ kinh tế hoàn toàn khác, còn khủng khiếp hơn nhiều so với những kẻ mà Perkins đã mô tả, chính là bởi vì những kẻ đó thậm chí không bao giờ cần phải tìm cách dùng bạo lực để đạt được mục đích của mình. Đối với thế hệ mới này, "bắn trúng đích" có nghĩa là kiếm được một tỷ đô la từ một vụ đầu cơ đơn lẻ thành công. Với việc Chiến tranh Lạnh đang tiến dần đến điểm kết thúc, những tay sát thủ đó không có lợi ích thiết thực nào để phải theo đuổi chương trình nghị sự của chủ nghĩa đế quốc Mỹ; ngược lại, họ thường tuyên bố khuynh hướng chính trị thiên về tự do hơn là bảo thủ. Họ không làm việc cho các tổ chức thuộc khu vực công như IMF hoặc Ngân hàng Thế giới. Ngược lại, họ điều hành các doanh nghiệp hoàn toàn mang tính chất tư nhân, kín đáo đến nỗi thậm chí không có tên trên thị trường chứng khoán. Các doanh nghiệp này được gọi là các quỹ phòng hộ, thứ chúng ta đã gặp với tư cách là một hình thức quản trị rủi ro khác trong Chương 4. Cũng giống như sự nổi lên của Trung Quốc, sự nổi lên thậm chí còn nhanh hơn nhiều của các quỹ phòng hộ là một trong những thay đổi lớn nhất mà nền kinh tế toàn cầu đã chứng kiến kể từ sau Thế chiến thứ hai. Là những nguồn tập trung vốn điều tiết thấp [583], mang tính di động cao, các quỹ phòng hộ là hiện thân cho sự trở lại của đồng tiền nóng sau cơn lạnh trầm kha ngự trị suốt từ lúc bắt đầu cuộc Đại Suy thoái cho tới khi kết thúc hệ thống Bretton Woods. Và thủ lĩnh trong các thủ lĩnh (capo dei capi) được thừa nhận trong số những sát thủ kinh tế mới là George Soros. Không phải ngẫu nhiên mà khi thủ tướng Malaysia là Mahathir Bin Mohamad muốn đổ lỗi cho một ai đó ngoài ông ta về cuộc khủng hoảng đã giáng xuống đồng ringgit vào tháng 8/1997, đó chính là Soros chứ không phải IMF, người mà ông ta đã gọi là "kẻ to xác bé đầu".
Là một người Do Thái sinh tại Hungary song được giáo dục ở London, George Soros đã di cư sang Mỹ năm 1956. Tại đây ông đã làm nên tiếng tăm của mình với tư cách nhà phân tích và sau đó là người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại một ngân hàng tên tuổi là Arnhold & S. Bleichroeder (hậu duệ trực tiếp của một ngân hàng tư nhân ở Berlin đã từng quản lý tiền bạc của Bismarck). [584] Như người ta có thể kỳ vọng từ một nhà trí thức Trung Âu, người đã đặt tên cho quỹ của mình là Quỹ Quantum (Lượng tử) để vinh danh Nguyên lý Bất định của nhà vật lý Werner Heisenberg, Soros tự xem mình là một triết gia hơn là một sát thủ. Cuốn sách của ông The Alchemy of Finance (Giả kim thuật tài chính, 1987) mở đầu bằng sự phê phán mạnh mẽ các giả định nền tảng của bộ môn kinh tế học, cho thấy ảnh hưởng của triết gia Karl Popper trong giai đoạn hình thành tư tưởng ban đầu của ông. [585] Theo lý thuyết ưu chuộng nhất của Soros về tính phản hồi (reflection), các thị trường tài chính không thể được xem là hiệu quả một cách hoàn hảo, bởi giá cả luôn phản chiếu sự vô minh cùng những thiên kiến, mà thường là thiếu lý trí, của hàng triệu nhà đầu tư. "Không chỉ đơn giản là những người tham gia vào thị trường mang thiên kiến," Soros lập luận, "mà thiên kiến của họ cũng có thể ảnh hưởng đến đường đi của các sự kiện. Điều đó có thể tạo ra cảm tưởng rằng các thị trường dự báo được chính xác những diễn biến trong tương lai, song trên thực tế không phải là các kỳ vọng hiện tại tương ứng với các sự kiện tương lai, mà các sự kiện tương lai được định hình bởi các kỳ vọng hiện tại." [586] Chính hiệu ứng ấy - thiên kiến của các nhà đầu tư ảnh hưởng đến kết quả của thị trường, kết quả của thị trường đến lượt nó lại thay đổi thiên kiến của các nhà đầu tư, rồi đến lượt nó lại ảnh hưởng đến kết quả của thị trường - là điều mà Soros gọi là tính phản hồi. Như ông đã diễn tả điều này trong cuốn sách mới đây nhất:
"... thị trường không bao giờ đạt đến điểm cân bằng như trong giả thuyết của lý thuyết kinh tế. Ở đây có một mối liên hệ phản hồi hai chiều giữa nhận thức và thực tế, gây ra các quá trình bùng-vỡ, hay các bong bóng, lúc ban đầu thì tự mạnh lên song cuối cùng sẽ tự thủ tiêu. Mỗi một bong bóng đều bao gồm một xu thế và một nhận thức sai lầm có tác động qua lại với nhau theo một cách có tính phản hồi ." [587]
George Soros: thủ lĩnh của quỹ phòng hộ và bậc thầy của thuyết phản hồi
Ban đầu được sáng chế ra để phòng hộ trước các rủi ro của thị trường bằng các vị thế bán [588], giúp kiếm được tiền nếu như một chứng khoán xuống giá, quỹ phòng hộ đã tạo ra một cỗ máy hoàn hảo cho Soros tận dụng sự hiểu biết sâu sắc của mình về các thị trường có tính phản hồi. Điều cần được nhấn mạnh là Soros cũng biết cách kiếm tiền từ các vị thế mua, tức là từ việc mua các tài sản với kỳ vọng là giá sẽ lên trong tương lai. Năm 1969, ông là một người mua bất động sản. Ba năm sau đó, ông cho các chứng khoán ngân hàng cất cánh. Năm 1971, ông là người mua chứng khoán Nhật Bản. Năm 1972, ông là người mua dầu mỏ. Một năm sau, khi tất cả các vụ đánh cược đó đã thành công, ông nhận ra từ những lời than phiền của người Israel về chất lượng các thiết bị chiến tranh do Mỹ cung cấp trong Chiến tranh Yom Kippur, rằng sẽ cần có sự đầu tư lớn vào ngành công nghiệp quốc phòng của Mỹ. Và do vậy ông cũng đã mua các chứng khoán quốc phòng. [589] Trúng, trúng, trúng, trúng và lại trúng. Song những vụ làm ăn táo bạo nhất của Soros đến từ việc ông đã đoán trúng người thua chứ không phải kẻ thắng: chẳng hạn, công ty điện tín Western Union năm 1985, khi mà công nghệ fax đe dọa phá hủy công việc kinh doanh của hãng này, cũng như đồng đô la đã mất giá đúng ý ông sau Hiệp định Plaza của nhóm G5 ngày 22/9/1985. [590] Năm đó là một năm kỳ diệu đối với Soros, ông đã chứng kiến quỹ của mình tăng tới 122%. Song vụ lớn nhất trong tất cả các vụ bán của ông đã trở thành một trong những vụ đánh cược lừng lẫy nhất trong lịch sử tài chính Anh.
Phải thú thực là tôi có mối quan tâm cá nhân tới các sự kiện xảy ra vào ngày thứ Tư 16/9/1992. Hồi đó, tôi là trợ giảng tại Đại học Cambridge, đồng thời làm thêm ngoài giờ với tư cách là người viết xã luận cho báo. Tôi đã kết luận rằng một người đầu cơ như Soros có thể hạ gục Ngân hàng Anh nếu như diễn ra một cuộc thách đấu. Đây đơn giản là phép tính số học: một nghìn tỷ đô la được giao dịch hằng ngày trên các thị trường trao đổi ngoại hối đấu với lượng dự trữ tiền kim loại còm cõi của Ngân hàng Anh. Soros đã suy luận rằng phí tổn tăng cao của việc thống nhất nước Đức sẽ đẩy lãi suất lên, và do đó đẩy giá thị trường đồng mác Đức lên. Điều đó sẽ khiến cho chính sách của chính phủ đảng Bảo thủ là theo đuôi đồng tiền của Đức - được chính thức hóa khi Anh gia nhập Cơ chế Tỷ giá châu Âu (ERM) năm 1990 - trở nên không thể thực hiện nổi. Khi lãi suất tăng lên, nền kinh tế Anh chắc hẳn sẽ lao đao. Sớm hay muộn, chính phủ cũng sẽ buộc phải rút ra khỏi Cơ chế Tỷ giá châu Âu và phá giá đồng bảng Anh. Soros tin chắc rằng đồng bảng Anh sẽ mất giá, đến mức cuối cùng, ông đã đánh cược 10 tỷ đô la, nhiều hơn toàn bộ số vốn của quỹ ông, vào một loạt các giao dịch, trong đó thực chất là ông vay đồng bảng ở Anh và đầu tư vào đồng mác ở Đức (tại mức tỷ giá trước ngày 16/9 là khoảng 2,95 mác Đức đổi lấy một bảng). [591] Tôi cũng đồng tình rằng đồng bảng Anh sẽ bị phá giá, mặc dù tất cả những gì mà tôi có thể đánh cược chỉ là uy tín của bản thân. Câu chuyện tiếp theo là, tổng biên tập của tờ báo khu City mà tôi viết bài đã không đồng ý như vậy. Đêm hôm đó, sau khi được một vụ xạc ra trò trong cuộc họp buổi sáng của những người viết xã luận cho tờ báo với trưởng ban biên tập, tôi đã đến Nhà hát Quốc gia Anh để nghe vở kịch của Verdi Sức mạnh của số phận. Đây đúng là một lựa chọn cực kỳ thích hợp. Trong lúc giải lao một ai đó thông báo là Anh đã rút ra khỏi Cơ chế Tỷ giá châu Âu. Tất cả chúng tôi đã vui mừng hỉ hả, và không có ai ầm ĩ hơn tôi (có lẽ chỉ trừ George Soros). Quỹ của ông đã kiếm thêm trên một tỷ đô la khi đồng bảng Anh sụt giá - cuối cùng đã sụt tới 20% - và điều đó đã cho phép Soros hoàn trả lại đồng bảng Anh mà ông đã vay trước đó song lúc này ở mức tỷ giá mới thấp hơn, và bỏ túi phần chênh lệch. Và vụ giao dịch đó cũng chỉ chiếm 40% toàn bộ lợi nhuận của ông trong năm đó. [592]
Thành công của Quỹ Quantum thật đáng kinh ngạc. Nếu một người nào đó đầu tư 100.000 đô la với Soros khi ông thành lập quỹ thứ hai của mình (Double Eagle, tên gọi ban đầu của Quantum) vào năm 1969 và sau đó tái đầu tư toàn bộ cổ tức thì người đó chắc hẳn sẽ có được một tài sản trị giá 130 triệu đô la vào năm 1994, với tốc độ tăng trưởng trung bình năm là 35%. [593] Sự khác biệt cơ bản giữa những sát thủ trước kia và ngày nay nằm ở hai điểm: thứ nhất là sự thiếu vắng, một cách lạnh lùng và có tính toán, lòng trung thành đối với bất kỳ một tổ quốc nào - đồng đô la Mỹ hay đồng bảng Anh đều có thể bị bán khống mà không sợ bị trừng phạt; thứ hai là quy mô lớn của lượng tiền mà những kẻ sát thủ thời nay đem ra đùa bỡn. "Vị thế mà ông hiện đang có lớn đến mức nào?" Có lần Soros hỏi đối tác của ông là Stanley Druckenmiller. "Một tỷ đô la," Druckenmiller trả lời. "Ông gọi đó là một vị thế ư?" là câu đáp trả đầy nhạo báng của Soros. [594] Đối với Soros, nếu một vụ đánh cược có vẻ khả quan như phi vụ của ông với đồng bảng Anh năm 1992, thì cần phải dùng một đòn bẩy tối đa cho nó. Quỹ phòng hộ của ông đã đi tiên phong trong việc dùng kỹ thuật vay từ các ngân hàng đầu tư nhằm đầu cơ cho vị thế bán hoặc mua vượt xa số vốn mà chính quỹ hiện đang có.
Sức mạnh của số phận: Bộ trưởng Tài chính Norman Lamont tuyên bố rút đồng bảng Anh ra khỏi Cơ chế Tỷ giá châu Âu, ngày 16/9/1992.
Song vẫn có các giới hạn nhất định đối với sức mạnh của các quỹ phòng hộ. Xét ở một khía cạnh, Soros và những người như ông đã cho thấy rằng thị trường có sức mạnh lớn hơn nhiều so với bất kỳ một chính phủ hay một ngân hàng trung ương nào. Song điều đó không có nghĩa là các quỹ phòng hộ luôn luôn có thể điều khiển được thị trường. Thành công của Soros có được là nhờ bản năng nhạy bén về hướng đi của "bầy đàn điện tử". Tuy nhiên, thậm chí ngay cả bản năng này của ông (thường phát tín hiệu bằng một cơn đau lưng) đôi khi cũng có thể nhầm lẫn. Tính phản hồi, như chính ông đã thừa nhận, là một trường hợp đặc biệt; nó không thống lĩnh thị trường trong tất cả các tuần của năm. Vậy nếu bản năng có thể được thay thế bằng toán học theo một cách nào đó thì sao? Nếu như bạn có thể viết một công thức số học không thể sai được để tính ra tỷ suất lợi nhuận hai chữ số thì sao? Ở phía bên kia của thế giới - thực ra là ở phía bên kia của thiên hà tài chính - dường như công thức đó vừa mới được tìm ra.
Quản lý tồi vốn ngắn hạn
Hãy hình dung một hành tinh khác - một hành tinh không có tất cả những va chạm rắc rối do những con người đầy tính chủ quan và đôi khi rất thiếu lý trí gây nên. Đó là hành tinh nơi mọi người dân đều toàn tri như Thượng đế và hoàn toàn lý trí; nơi họ hấp thụ ngay lập tức mọi thông tin mới và sử dụng chúng để đạt được lợi nhuận cao nhất; nơi mà họ không bao giờ ngừng giao dịch làm ăn; nơi mà các thị trường hoạt động liên tục, không có ma sát (friction, tức chi phí giao dịch) và thanh khoản tuyệt đối. Các thị trường tài chính trên hành tinh đó sẽ đi theo "bước ngẫu nhiên", tức là giá cả của mỗi một ngày sẽ không liên quan gì đến giá cả của ngày hôm trước, nhưng lại phản ánh tất cả thông tin liên quan hiện có. Lợi nhuận của thị trường chứng khoán trên hành tinh đó sẽ được phân bố chuẩn dọc theo đường cong hình chuông (xem Chương 3), trong đó phần lớn các năm sẽ nằm quanh trị số trung bình, và hai phần ba số năm sẽ phân tán quanh trị trung bình trong vòng một độ lệch chuẩn. Trong một thế giới như vậy, việc bán ra chứng khoán với lợi nhuận "sáu độ lệch chuẩn" cũng hiếm hoi như việc ta gặp được những người cao khoảng 45 xăng ti mét trong thế giới của chúng ta vậy. Điều này sẽ chỉ xảy ra với xác suất một lần trong bốn triệu năm giao dịch. [595] Đây là một hành tinh do vài người trong số những nhà kinh tế học tài chính sáng láng nhất của thời đại ngày nay tưởng tượng ra. Có lẽ cũng chẳng đáng ngạc nhiên lắm, nếu hành tinh đó hóa ra lại trông giống Greenwich ở bang Connecticut, một trong những nơi tẻ nhạt nhất trên Trái đất này.
Năm 1993, hai thiên tài toán học đã tới Greenwich với một ý tưởng lớn. Cùng hợp tác chặt chẽ với Fisher Black đến từ tập đoàn Goldman Sachs, Myron Scholes của Đại học Stanford đã phát triển một lý thuyết mới có tính cách mạng về việc định giá quyền chọn. Giờ đây ông và nhà kinh tế học thứ ba là Robert Merton từ Trường Kinh doanh Harvard hy vọng sẽ biến cái gọi là mô hình Black-Scholes thành một cỗ máy kiếm tiền. Điểm xuất phát cho công trình học thuật của họ là một công cụ tài chính đã được thiết lập từ lâu dưới tên gọi hợp đồng quyền chọn, cách hoạt động (như chúng ta đã thấy ở Chương 4) là như thế này. Nếu chẳng hạn một chứng khoán nào đó có giá trị 100 đô la vào hôm nay và tôi tin tưởng rằng nó sẽ có giá trị cao hơn trong tương lai, ví dụ sau một năm nữa sẽ là 200 đô la, thì hẳn sẽ rất tốt nếu như ta có một lựa chọn được mua chứng khoán này tại thời điểm tương lai đó với giá chẳng hạn là 150 đô la. Nếu tôi dự đoán đúng, tôi sẽ kiếm được lợi nhuận. Nếu không, thì chẳng sao cả, đó chỉ là một phương án lựa chọn thôi, hãy quên nó đi. Chi phí duy nhất là giá trị của hợp đồng đó mà người bán bỏ túi. Một câu hỏi lớn là giá đó sẽ phải là bao nhiêu.
"Các nhà lượng hóa" (quant) - tức là các nhà phân tích có trình độ tiến sĩ về toán - đôi khi gọi mô hình định giá quyền chọn Black-Scholes là một cái hộp đen. Cũng rất đáng nhìn vào bên trong cái hộp này xem sao. Câu hỏi, xin nhắc lại, là làm thế nào để định giá một quyền chọn cho phép mua một chứng khoán nào đó tại một thời điểm nhất định trong tương lai, có tính đến sự biến động không thể dự đoán được của giá chứng khoán đó trong giai đoạn từ giờ đến lúc ấy. Hãy tính toán giá của quyền chọn đó một cách chính xác, chứ không chỉ dựa vào việc đoán mò, và khi đó bạn thực sự xứng đáng với danh hiệu "nhà khoa học tên lửa". Black và Scholes đã lập luận rằng giá trị của quyền chọn phụ thuộc vào năm biến số: thị giá hiện tại của chứng khoán (S), giá thỏa thuận trong tương lai tại thời điểm hợp đồng có thể được thực hiện (X), ngày đến hạn của hợp đồng (T), mức lợi nhuận không chịu rủi ro (risk-free) trong toàn bộ nền kinh tế nói chung (r), và - biến số quyết định - mức độ biến động kỳ vọng hằng năm của chứng khoán đó, tức là sự biến động có thể xảy ra của giá chứng khoán đó trong khoảng thời gian từ khi mua cho đến kỳ hạn (σ). Dùng ma thuật tuyệt diệu bằng toán học, Black và Scholes đã lập được giá của quyền chọn (C) theo công thức sau:
Bạn cảm thấy hơi rối rắm ư? Không thể hiểu được phép tính số học ư? Thành thực mà nói, tôi cũng cảm thấy rối rắm. Song đối với các nhà lượng hóa nó hoàn toàn bình thường. Để kiếm được tiền từ sự hiểu biết này, họ cần có các thị trường đầy ắp những người chẳng hiểu mô tê gì về việc định giá quyền chọn mà chỉ dựa vào dự đoán bản năng của họ (rất ít khi chính xác). Họ cũng cần rất nhiều sức mạnh máy tính, một sức mạnh đã biến đổi các thị trường tài chính kể từ đầu thập niên 1980. Tất cả những gì họ yêu cầu giờ đây là một đối tác với sự khôn khéo nhất định về thị trường, và họ có thể nhảy từ câu lạc bộ các nhà khoa học sang sàn giao dịch. Gục ngã bởi căn bệnh ung thư, Fisher Black đã không thể trở thành một đối tác như vậy. Thay vào đó, Merton và Scholes đã quay sang John Meriwether, nguyên là người đứng đầu nhóm buôn trái phiếu dựa vào chênh lệch giá tại Salomon Brothers, và là người đã làm nên cơ đồ đầu tiên từ sự sụp đổ các quỹ Tiết kiệm và Cho vay vào cuối thập niên 1980. Công ty mà họ lập ra năm 1994 được gọi là Quỹ Quản lý Vốn Dài hạn (LTCM).
Đây giống như một đội hình trong mơ: hai nhà lượng hóa nóng bỏng nhất của giới học thuật liên kết với một cựu siêu sao của Salomon cộng thêm với một cựu phó chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang là David Mullins, một cựu giáo sư khác của Harvard là Eric.Rosenfeld và một nhóm các cựu giao dịch viên của Salomon (Victor Haghani, Larry Hilibrand và Hans Hufschmid). Các nhà đầu tư mà LTCM lôi kéo đến quỹ của mình chủ yếu là các ngân hàng lớn, trong đó có ngân hàng đầu tư Merrill Lynch ở New York và ngân hàng tư nhân Thụy Sĩ Julius Baer. Kẻ gia nhập bữa tiệc muộn hơn là một ngân hàng Thụy Sĩ khác, UBS. [596] Mức đầu tư tối thiểu là 10 triệu đô la. Đổi lại, các đối tác sẽ nhận được 2% của các tài sản được đặt dưới sự quản lý của quỹ và 25% lợi nhuận (hầu hết các quỹ phòng hộ hiện nay yêu cầu 2 và 20, chứ không phải 2 và 25%). [597] Các nhà đầu tư sẽ bị giữ chân trong ba năm trước khi họ có thể rút ra. Một hãng khác ở Phố Wall là Bear Stearns cũng sẵn sàng thực hiện bất cứ giao dịch nào mà Quỹ Dài hạn muốn họ thực hiện.
Trong hai năm đầu tiên của mình, quỹ do LTCM quản lý đã kiếm được số tiền khổng lồ, cho tỷ suất lợi nhuận (thậm chí sau khi đã trừ đi các khoản phí nặng nề của quỹ) là 43% và 41%. Nếu như bạn đầu tư 10 triệu đô la vào Quỹ Dài hạn tháng 3/1994, khoản đầu tư ấy sẽ có giá trị trên 40 triệu đô la sau đó bốn năm. Đến tháng 9/1997, số vốn ròng của quỹ đứng ở con số 6,7 tỷ đô la. Tiền đầu tư của các đối tác đã tăng hơn 10 lần. Thật ra mà nói, để tạo ra các món lợi nhuận khổng lồ đó từ tập hợp các tài sản được quản lý đang không ngừng tăng lên, Quỹ Dài hạn đã phải đi vay, cũng giống George Soros vậy. Đòn bẩy bổ trợ này cho phép họ đánh cược nhiều hơn số tiền mà họ có. Vào cuối tháng 8/1997, số vốn của quỹ là 6,7 tỷ đô la, song số tài sản từ vay nợ trên bảng cân đối của quỹ lên đến 126,4 tỷ đô la, tức là tỷ lệ tài sản trên vốn là 19/1. [598] Đến tháng 4/1998, bảng cân đối đã đạt tới con số 134 tỷ đô la. Khi chúng ta nói về việc sang số (gear) lớn, hầu hết các học giả đều liên tưởng đến chiếc xe đạp của họ. Song khi Merton và Scholes nói như vậy thì họ ngụ ý rằng Quỹ Dài hạn đã vay hầu hết số tiền mà nó dùng để kinh doanh. Song núi nợ này không làm họ lo ngại. Các mô hình toán học của hai ông đã nói lên rằng hầu như không có rủi ro gì ở đây. Một lý do là quỹ đồng thời theo đuổi nhiều chiến lược kinh doanh đa dạng và không liên quan lẫn nhau: khoảng 100 chiến lược cả thảy, với tổng cộng 7.600 vị thế mua-bán khác nhau. [599] Một chiến lược có thể sai lầm, hoặc thậm chí là hai. Song tất cả các kiểu đánh cược khác nhau đó không thể nào cùng sai. Đó chính là vẻ đẹp của một danh mục đầu tư đa dạng hóa - một nhận định quan trọng khác của lý thuyết tài chính hiện đại, được xây dựng bởi Harry M. Markowitz, một nhà kinh tế học được đào tạo tại Chicago và làm việc cho Tập đoàn Rand vào đầu thập niên 1950, sau đó ý tưởng này được tiếp tục phát triển trong Mô hình Định giá Tài sản vốn (CAPM) của William Sharpe. [600]
Quỹ Dài hạn đã kiếm tiền bằng cách khai thác sự khác biệt về giá tại nhiều thị trường khác nhau. Tại thị trường cho vay mua nhà thế chấp với lãi suất cố định; tại các thị trường trái phiếu chính phủ của Mỹ, châu Âu và Nhật Bản; tại thị trường hoán đổi lãi suất phức tạp hơn nhiều [601] - thực tế là tại bất kỳ nơi nào mà các mô hình của họ phát hiện được sự khác thường về giá, trong đó hai tài sản hoặc hai hợp đồng quyền chọn về cơ bản là tương tự nhau lại có giá khác biệt nhau chút ít. Song vụ đánh cược lớn nhất mà công ty đã thực hiện, và là vụ đánh cược hầu như chắc chắn dựa trên công thức Black-Scholes, là bán các hợp đồng quyền chọn dài hạn tại các thị trường chứng khoán Mỹ và châu Âu; nói cách khác là trao cho những người khác các quyền chọn mà họ có thể thực hiện nếu như trong tương lai có những thay đổi lớn về giá. Mức giá mà các quyền chọn này được bán năm 1998 cho thấy, theo công thức Black-Scholes, mức độ biến động trong tương lai cao một cách bất thường, tới 22% một năm. Do tin tưởng rằng mức độ biến động sẽ thực sự tiến về mức trung bình gần đây của nó là từ 10% đến 13%, Quỹ Dài hạn đã gom các quyền chọn này ở mức giá cao và bán chúng ở mức giá thấp. Các ngân hàng muốn tự bảo vệ mình trước biến động lớn hơn - chẳng hạn một vụ bán tháo của thị trường chứng khoán theo kiểu năm 1987 - là những người mua vào một cách sung sướng. Quỹ Dài hạn đã bán ra nhiều hợp đồng như vậy đến nỗi có một số người đã bắt đầu gọi quỹ bằng cái tên Ngân hàng Biến động Trung ương. [602] Tại mức đỉnh, quỹ đã kiếm được 40 triệu đô la trên mỗi điểm phần trăm thay đổi của độ biến động cổ phiếu Mỹ. [603]
Nghe có vẻ rất mạo hiểm chăng? Các nhà lượng hóa tại Quỹ Dài hạn thì không nghĩ như vậy. Trong số những điểm hấp dẫn của Quỹ Dài hạn là lời khẳng định rằng họ là một quỹ điều hòa theo thị trường - nói cách khác, họ không bị tổn hại bởi các biến động đáng kể trên bất kỳ một thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu hoặc thị trường tiền tệ chủ chốt nào. Cái gọi là sự phòng hộ động này đã cho phép họ bán ra các quyền chọn theo một chỉ số chứng khoán nào đó trong khi tránh được sự rủi ro với chính chỉ số đó. Hơn thế nữa, quỹ hầu như hoàn toàn không chịu rủi ro nào đối với các thị trường mới nổi. Điều này giống như thể Quỹ Dài hạn thực sự đang nằm trên một hành tinh khác, cách xa những dao động lên và xuống trần tục của ngành tài chính trên hành tinh Trái đất này. Trên thực tế, các đối tác của quỹ đã bắt đầu lo ngại rằng họ chưa lao vào đủ rủi ro [và bởi vậy chưa tối đa hóa lợi nhuận - ND]. Mục tiêu của họ là mức rủi ro tương ứng với mức dao động hằng năm (tức là độ lệch chuẩn) bằng 20% giá trị tài sản của họ. Trên thực tế, họ đã hoạt động ở mức gần bằng nửa mức đó (có nghĩa là tài sản của họ biến động lên và xuống trong khoảng không quá 10%). [604] Theo các mô hình Giá trị Rủi ro (Value at Risk) của công ty này, sẽ phải xảy ra một biến cố ở mức 10 σ (nói cách khác, 10 độ lệch chuẩn) thì mới có thể làm cho công ty bị mất toàn bộ vốn của mình chỉ trong một năm. Song xác suất xảy ra một sự kiện như vậy, như các nhà lượng hóa đã tính toán, là 1/1024 - hầu như là bằng không. [605]
Vào tháng 10/1997, như thể để chứng tỏ rằng LTCM thực sự là Quỹ Chuyên Gia, Merton và Scholes đã được tặng Giải thưởng Nobel về Kinh tế học. Ngày 31/12/1997, họ cùng các đối tác của mình đã tự tin đến mức trả lại 2,7 tỷ đô la cho các nhà đầu tư bên ngoài (ám chỉ một cách mạnh mẽ rằng như vậy họ muốn tập trung nhiều hơn vào việc đầu tư bằng chính tiền của mình). [606] Điều đó dường như cho thấy rằng trí tuệ đã chiến thắng trực giác, khoa học tên lửa đã chiến thắng sự chấp nhận mạo hiểm. Được trang bị cái hộp đen kỳ diệu đó, các thành viên hợp danh tại LTCM dường như đã sắp làm giàu vượt xa cả những giấc mơ cuồng dại nhất của George Soros. Và sau đó, chỉ 5 tháng sau đó thôi, một điều đã xảy ra và đe dọa làm nổ tung hộp đen của những người được giải Nobel. Do những nguyên nhân hầu như chẳng ai thấy ngay được, các thị trường cổ phiếu bắt đầu lao xuống, và vì vậy mức biến động đã tăng lên thay vì giảm xuống. Và khi mức độ biến động càng lên cao - đạt tới đỉnh 27% vào tháng 6, gần gấp đôi mức dự kiến của Quỹ Dài hạn - thì số tiền bị mất càng lớn. Tháng 5/1998 là tháng tồi tệ chưa từng thấy của Quỹ Dài hạn: quỹ bị giảm mất 6,7%. Song đó mới chỉ là sự khởi đầu. Tháng 6/1998, quỹ bị giảm thêm 10,1%. Và khi giá trị tài sản của quỹ càng giảm đi thì đòn bẩy - tỷ lệ nợ trên vốn - càng tăng lên. Vào tháng 6/1998, tỷ lệ này lên đến 31/1. [607]
Trong tiến hóa, các vụ tuyệt chủng lớn thường do những cú va chạm từ bên ngoài, chẳng hạn như các thiên thạch đâm vào Trái đất. Một thiên thạch lớn đã đâm vào Greenwich tháng 7/1998, khi có tin rằng Salomon Smith Barney (chính là Salomon Brothers nhưng đã được đổi tên sau khi Travelers tiếp quản) đóng cửa nhóm kinh doanh trái phiếu Mỹ dựa vào chênh lệch giá. Đây là nơi mà Meriwether đã làm nên danh tiếng của mình tại Phố Wall và là hãng hầu như bắt chước nguyên xi các chiến lược kinh doanh của LTCM. Rõ ràng, các ông chủ mới của công ty không thích thú gì với thiệt hại mà họ phải chứng kiến kể từ tháng 5. Sau đó, vào ngày thứ Hai, 17/8/1998, tổn thất tiếp tục bởi một thiên thạch khổng lồ - không phải từ vũ trụ bên ngoài, mà từ một trong những thị trường mới nổi lên mong manh nhất Trái đất này - khi mà hệ thống tài chính ốm yếu của nước Nga sụp đổ, do bị suy yếu bởi các biến động về chính trị, sự sụt giảm các nguồn thu từ dầu mỏ và quá trình tư nhân hóa quá vụng về. Chính phủ Nga tuyệt vọng buộc phải tuyên bố không thanh toán mọi khoản nợ của mình (kể cả các trái phiếu trong nước được định giá bằng đồng rúp), và do vậy đã đổ thêm dầu vào ngọn lửa biến động đang cháy trên khắp các thị trường tài chính thế giới. [608] Xuất hiện tiếp ngay sau cuộc khủng hoảng châu Á vừa nổ ra năm trước đó, sự vỡ nợ của nước Nga đã có tác động lây lan sang các thị trường mới nổi khác, và cả một số thị trường ở nước phát triển nữa. Những chênh lệch có lãi (credit spread) bị thổi lên. [609] Các thị trường chứng khoán bị chìm xuống. Mức biến động của cổ phiếu lên đến 29%. Tại mức đỉnh nó đạt tới 45%, ám chỉ các chỉ số sẽ biến động 3% mỗi ngày trong năm năm tiếp theo đó. [610] Điều đó đáng lẽ không thể xảy ra, ít ra là theo mô hình rủi ro của Quỹ Dài hạn. Các nhà lượng hóa đã từng nói rằng Quỹ Dài hạn khó có thể mất quá 45 triệu đô la chỉ trong một ngày. [611] Thứ Sáu, 21/8/1998, quỹ đã mất 550 triệu đô la, tức là 15% toàn bộ vốn của mình, đẩy tỷ lệ đòn bẩy của quỹ lên đến 42:1. [612] Các nhà giao dịch ở Greenwich đã nhìn vào màn hình với cái mồm há hốc và đôi mắt đờ đẫn. Điều đó không thể xảy ra được. Song nó đã xảy ra. Bổng nhiên tất cả các thị trường khác nhau nơi mà Quỹ Dài hạn có thể gặp rủi ro đã cùng chuyển động theo một chiều, do vậy đã vô hiệu hóa sự phòng hộ được tạo ra từ việc đa dạng hóa. Nói theo ngôn ngữ của các nhà lượng hóa, các hệ số tương quan đã đều bằng một. Đến cuối tháng đó, Quỹ Dài hạn giảm 44%: thiệt hại trên 1,8 tỷ đô la. [613]
Tháng 8 thường là thời điểm thưa thớt giao dịch trên các thị trường tài chính. Hầu hết mọi người đều đã đi khỏi thành phố. John Meriwether khi đó đang ở phía bên kia thế giới, Bắc Kinh. Nhanh chóng quay về nhà, ông và các đối tác của mình đã tìm kiếm một cách tuyệt vọng một hiệp sĩ áo trắng đến cứu họ. Họ đã thử tìm đến Warren Buffett ở Omaha, Nebraska - bất chấp thực tế là mới chỉ vài tháng trước đó thôi, LTCM đã mạnh bạo bán khống các cổ phiếu của công ty của Buffett là Berkshire Hathaway. Ông ta đã từ chối. Ngày 21/8, họ đã miễn cưỡng hẹn gặp không ai khác ngoài George Soros. [614] Đây là sự hạ mình tối hậu: các nhà lượng hóa từ Hành tinh Tài chính đến cầu xin sự giải cứu từ một kẻ phàm tục đề xướng thuyết phản hồi thiếu lý trí và phi lượng hóa. Soros nhớ lại rằng ông đã "đồng ý sẽ cho Meriwether vay 500 triệu đô la nếu ông ta có thể tìm được thêm 500 triệu đô la nữa từ một người khác. Điều này dường như không có khả năng xảy ra..." JP Morgan đề nghị 200 triệu đô la. Goldman Sachs cũng đề nghị giúp. Song những người khác thì từ chối. Các bàn giao dịch của họ đã đánh hơi thấy máu. Nếu như Quỹ Dài hạn bị phá sản, họ chỉ muốn lấy tài sản thế chấp chứ không phải muốn mua các vị thế của Quỹ Dài hạn. Và họ cũng không thèm quan tâm nếu mức độ biến động có bùng nổ chăng nữa. Cuối cùng, do lo sợ rằng sự sụp đổ của Quỹ Dài hạn có thể châm ngòi cho một cuộc đổ vỡ toàn bộ Phố Wall, Ngân hàng Dự trữ Liên bang chi nhánh New York đã vội vàng làm môi giới cho một vụ giải cứu 3.625 tỷ đô la từ mười bốn ngân hàng trên Phố Wall. [615] Song các nhà đầu tư ban đầu - trong đó có một số ngân hàng chính trong số giải cứu và cả một số tay chơi nhỏ hơn như trường Đại học Pittsburgh - trong khi đó đã chứng kiến cổ phần của mình sụt giảm từ 4,9 tỷ đô la xuống chỉ còn 400 triệu đô la.
Cả mười sáu thành viên hợp doanh chỉ còn lại có 30 triệu, một phần nhỏ của số tài sản mà họ đã dự báo.
Điều gì đã xảy ra? Vì sao Soros lại dự đoán đúng đến vậy còn các bộ óc vĩ đại ở Quỹ Dài hạn lại sai lầm đến vậy? Một phần của vấn đề chính là việc các nhà sáng lập quỹ LTCM ở hành tinh khác đã quay trở lại Hành tinh Trái đất với một cú va đập mạnh. Bạn có nhớ các giả định cơ bản của công thức Black-Scholes không? Các thị trường phải hiệu quả, nghĩa là sự biến động về giá chứng khoán là không thể dự báo được; các thị trường đó hoạt động liên tục, không ma sát và có tính thanh khoản tuyệt đối; và lợi nhuận từ các chứng khoán tuân theo phân bố chuẩn hình chuông. Người ta có thể cho rằng, càng có nhiều nhà kinh doanh học được cách vận dụng công thức Black-Scholes thì các thị trường tài chính sẽ trở nên càng hiệu quả hơn. [616] Song như John Maynard Keynes đã từng nhận định, trong một cuộc khủng hoảng "các thị trường có thể hoạt động thiếu lý trí lâu hơn thời gian bạn có thể còn khả năng trả nợ", về dài hạn, thế giới có lẽ sẽ ngày càng giống Hành tinh Tài chính hơn, tức là luôn logic một cách lạnh lùng. Song về ngắn hạn, đây vẫn là Hành tình Trái đất thân yêu của chúng ta mà sống trên đó là những con người đầy cảm xúc, hoàn toàn có khả năng đột nhiên nhảy từ tham lam sang sợ hãi. Khi mà thiệt hại bắt đầu tăng cao thì nhiều người tham gia thị trường đã rút lui ngay khỏi thị trường, để lại cho quỹ LTCM một danh mục các tài sản khó thanh tiêu, không thể bán được ở bất kỳ mức giá nào. Hơn thế nữa, đó là một Hành tinh Trái đất chưa bao giờ hội nhập sâu sắc đến vậy, làm cho một vụ vỡ nợ ở nước Nga có thể gây ra mức biến động dữ dội trên toàn thế giới. "Có lẽ sai lầm của Quỹ Dài hạn," Myron Scholes trầm ngâm trong một cuộc phỏng vấn, "là đã... không nghĩ rằng thế giới đang ngày càng toàn cầu hóa." Meriwether cũng chia sẻ quan điểm này: "Bản chất của thế giới đã thay đổi, và chúng tôi đã không nhận ra điều đó." [617] Đặc biệt, do nhiều công ty khác đã bắt đầu tìm cách sao chép các chiến lược của Quỹ Dài hạn, nên khi mà tình hình trở nên trục trặc thì không chỉ có danh mục đầu tư của Quỹ Dài hạn bị tác động, "mà cứ như thể là toàn bộ siêu danh mục đầu tư bị chảy máu vậy". [618] Có một dạng hành động hoảng loạn theo kiểu bầy đàn để rút lui, trong đó các nhà quản lý cao cấp tại các ngân hàng lớn đòi hỏi các vị thế bị đóng lại ở bất kỳ mức giá nào.
Lập tức mọi thứ bỗng nhiên lao xuống. Như một nhà quản lý quỹ phòng hộ hàng đầu ở London đã diễn tả điều đó với Meriwether: "John, ông mới chính là hệ số tương quan."
Tuy nhiên, còn có một nguyên nhân khác giải thích vì sao LTCM lại sụp đổ. Các mô hình Giá trị Rủi ro (VaR) của hãng đã chỉ ra rằng thiệt hại mà Quỹ Dài hạn phải chịu trong tháng 8 là khó có thể xảy ra, đến mức có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra trong toàn bộ thời gian tồn tại của vũ trụ. Song đó là bởi vì mô hình này chỉ tính trên số liệu của 5 năm. Nếu như mô hình quay ngược trở lại thêm 11 năm nữa, chắc hẳn là số liệu đã ghi nhận vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1987. Nếu quay ngược lại 80 năm nữa, chắc hẳn là số liệu đã ghi nhận vụ vỡ nợ lớn cuối cùng của nước Nga xảy ra sau cuộc cách mạng năm 1917. Bản thân Meriwether, sinh ra năm 1947, đã buồn rầu nhận xét: "Nếu như tôi sống qua cuộc Đại Suy thoái, tôi chắc hẳn sẽ có điều kiện hiểu các sự kiện tốt hơn." [619] Nói một cách thẳng thừng, các nhà đoạt giải Nobel biết rất nhiều thứ về toán học, song biết chưa đủ về lịch sử. Họ hiểu lý thuyết tuyệt diệu của Hành tinh Tài chính, song đã bỏ qua mất quá khứ hỗn độn của Hành tinh Trái đất. Và, nói một cách đơn giản, đó chính là lý do khiến Quỹ Quản lý Vốn Dài hạn rốt cuộc trở thành Quỹ Quản lý tồi Vốn Ngắn hạn.
Có thể giả định rằng sau sự sụp đổ thảm họa của LTCM, các quỹ phòng hộ định lượng chắc hẳn sẽ biến mất khỏi sân khấu tài chính. Bất luận thế nào thì sự sụp đổ đó, mặc dù rất ngoạn mục về quy mô, cũng không phải là quá bất bình thường. Trong số 1.308 quỹ phòng hộ được hình thành từ năm 1989 đến năm 1996, trên một phần ba (36,7%) đã chấm dứt tồn tại vào cuối giai đoạn đó. Trong giai đoạn đó, tuổi thọ trung bình của một quỹ phòng hộ chỉ có 40 tháng. [620] Vậy mà điều hoàn toàn ngược lại đã xảy ra. Không những không giảm đi, mà trong 10 năm gần đây các quỹ phòng hộ thuộc đủ mọi dạng đã bùng nổ về số lượng và về quy mô tài sản mà họ quản lý. Theo Nghiên cứu về Quỹ phòng hộ, năm 1990 chỉ có trên 600 quỹ phòng hộ nhưng lại quản lý tới khoảng 39 tỷ đô la giá trị tài sản. Đến năm 2000 có 3.873 quỹ với 490 tỷ đô la giá trị tài sản. Kể từ năm 1998 đã có một cuộc đổ xô đầu tư vào các quỹ phòng hộ (và vào các "quỹ của các quỹ" là các tổ chức gộp hoạt động của nhiều công ty). Nếu như trước đây các quỹ phòng hộ là nơi bảo vệ cho các cá nhân "có giá trị ròng cao" và các ngân hàng đầu tư, thì ngày nay chúng thu hút một số lượng ngày càng nhiều các quỹ lương hưu và quỹ đóng góp cho các trường đại học. [621] Xu thế này càng trở nên đáng chú ý hơn ở chỗ tỷ lệ mất khách vẫn cao; chỉ có một phần tư trong số có báo cáo năm 1996 là vẫn tồn tại vào cuối năm 2004. Năm 2006, 717 quỹ ngừng hoạt động, trong 9 tháng đầu năm 2007 thêm 409 quỹ. [622] Điều không được thừa nhận một cách rộng rãi là một số lượng lớn các quỹ phòng hộ lặng lẽ xịt hơi sau khi rầm rộ khai trương và không có khả năng đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư.
Lời giải thích dễ thấy về sự bùng nổ số lượng quỹ phòng hộ này là chúng hoạt động tương đối tốt với tư cách là một lớp tài sản, với mức biến động tương đối thấp và độ tương quan với các cỗ máy đầu tư khác cũng thấp. Song lợi nhuận của các quỹ phòng hộ, theo Nghiên cứu về Quỹ phòng hộ cho biết, đang giảm xuống, từ 18% trong thập niên 1990 xuống còn 7,5% trong thời gian từ năm 2000 đến 2006. Hơn thế nữa, càng ngày quỹ phòng hộ càng bị nghi ngờ rằng lợi nhuận của chúng thực chất là sự phản ánh "alpha" (trình độ quản lý tài sản), chứ không phải "beta" (sự biến động chung của thị trường có thể nắm được thông qua một tập hợp các chỉ số thích hợp). [623] Một cách giải thích khác là các quỹ phòng hộ trong thời gian tồn tại đã làm giàu cho các nhà quản lý của chúng theo một cách đặc biệt quyến rũ. Năm 2007, George Soros kiếm được 2,9 tỷ đô la, đứng trên Ken Griffin của Citadel và James Simons của Renaissance, song đứng sau John Paulson là người đã kiếm được số tiền đáng kinh ngạc 3,7 tỷ đô la từ các vụ đánh cược cho vay mua nhà thế chấp dưới chuẩn. Như John Kay đã chỉ ra, nếu Warren Buffett yêu cầu mức phí đối với các nhà đầu tư vào Berkshire Hathaway là "2 và 20", ông ta chắc hẳn đã giữ lại cho mình 57 tỷ đô la trong số 62 tỷ đô la mà công ty của ông đã kiếm cho các cổ đông trong vòng 45 năm qua. [624] Soros, Griffin và Simons rõ ràng là những nhà quản lý ngoại hạng (mặc dù chắc chắn là không hơn được Buffett). Điều này giải thích vì sao các quỹ của họ, cùng với những kẻ vượt trội khác, đã phất lên một cách nhanh chóng trong thập niên vừa qua. Ngày nay, khoảng 390 quỹ đang quản lý số tài sản vượt quá 1 tỷ đô la. Một trăm quỹ đứng đầu hiện chiếm 75% toàn bộ tài sản của các quỹ phòng hộ; chỉ riêng mười quỹ đứng đầu đã quản lý 324 tỷ đô la. [625] Song chỉ cần một kẻ lừa đảo thuộc loại tầm thường cũng có thể kiếm được một đống tiền bằng cách lập ra một quỹ phòng hộ, để nhận 100 triệu đô la từ những nhà đầu tư cả tín và tuân theo chiến lược đơn giản nhất có thể sau:
1. Anh ta đem 100 triệu đô la mua các trái phiếu Kho bạc một năm với lãi suất 4%.
2. Điều đó cho phép anh ta bán ăn 10 xu trên mỗi đô la các quyền chọn có bảo đảm trị giá 100 triệu đô la, sẽ mang lại lợi nhuận nếu S&P 500 tụt mất hơn 20% trong năm tới.
3. Anh ta nhận được 10 triệu đô la từ việc bán các quyền chọn và mua thêm trái phiếu Kho bạc, cho phép anh ta bán thêm các quyền chọn trị giá 10 triệu đô la nữa, và mang lại thêm cho anh ta 1 triệu đô la.
4. Sau đó anh ta đi nghỉ một chuyến dài.
5. Đến cuối năm, xác suất S&P 500 không giảm 20% là bằng 90%, như vậy anh ta không nợ nần gì với những người nắm giữ hợp đồng.
6. Anh ta thêm vào số tiền kiếm được của mình -11 triệu đô la từ việc bán các quyền chọn cộng với 4% lãi từ 110 triệu đô la của trái phiếu Kho bạc - một lợi nhuận ngon lành 15,4% trước khi khai trừ chi phí.
7. Anh ta bỏ túi 2% số vốn do mình quản lý (2 triệu đô la) và 20% lợi nhuận nêu trên, chẳng hạn mức chuẩn là 4%, mang lại trên 4 triệu đô la lãi thực.
8. Xác suất gần 60% là quỹ sẽ hoạt động một cách trơn tru trên cơ sở này trong hơn năm năm mà không sợ S&P 500 giảm đến 20%, mà nếu trong trường hợp đó thì anh ta sẽ kiếm được 15 triệu đô la ngay cả khi không có thêm tiền mới chảy vào quỹ của anh ta, và thậm chí không cần phải tạo đòn bẩy cho các vị thế của mình. [626]
Liệu một cuộc khủng hoảng theo kiểu LTCM có tái diễn vào ngày nay, mười năm sau - mà lần này trên một quy mô lớn và với sự dính líu của nhiều quỹ phòng hộ mà đến mức không có khả năng giải cứu? Liệu các ngân hàng của thế giới phương Tây ngày nay có bị ảnh hưởng bởi thiệt hại của các quỹ phòng hộ, và bởi những rủi ro ở bên đối tác liên quan, nhiều hơn so với thời điểm năm 1998? [627] Và nếu như vậy, thì ai sẽ đến để giải cứu họ lần này? Câu trả lời cho các câu hỏi đó không phải nằm ở một hành tinh khác, mà nằm ở phía bên kia của hành tinh này.
Chimerica - Trung-Hoa-Mỹ
Đối với nhiều người, lịch sử tài chính chỉ là nước chảy mây trôi trong trang sử ngày xưa, giống như lịch sử của Đế quốc Trung Hoa. Các thị trường đều có trí nhớ ngắn. Nhiều nhà kinh doanh trẻ hôm nay thậm chí còn chưa từng trải nghiệm cuộc Khủng hoảng châu Á giai đoạn 1997-98. Những ai bước vào ngành tài chính sau năm 2000 thì mới chỉ trải qua bảy năm lâng lâng (tính đến thời điểm viết cuốn sách). Các thị trường chứng khoán trên thế giới đang bùng nổ. Tương tự là các thị trường trái phiếu, thị trường hàng hóa và thị trường phái sinh. Trên thực tế, tất cả các lớp tài sản đều bùng nổ như vậy - đấy là chưa nói đến các tài sản được lợi khi các khoản lợi tức lên cao, từ rượu Bordeaux lâu năm đến các du thuyền sang trọng. Song những năm bùng nổ hiện thời cũng chính là những năm bí ẩn, khi mà thị trường vọt lên bất kể lãi suất tiết kiệm ngắn hạn tăng, mất cân đối thương mại rành rành và các rủi ro về chính trị tăng lên, đặc biệt là tại các khu vực xuất khẩu dầu mỏ quan trọng về kinh tế của thế giới. Chiếc chìa khóa để dẫn tới điều dường như là nghịch lý đó nằm ở Trung Quốc. [628]
Trùng Khánh, một tỉnh nằm trên hai bờ mấp mô của con sông Dương Tử hùng vĩ ngập màu phù sa, nằm sâu trong lòng Trung Quốc, cách các đặc khu kinh tế ven biển mà hầu hết người phương Tây thường ghé thăm tới trên một nghìn dặm. Song 32 triệu người dân của tỉnh này cũng được bắt kịp với sự kỳ diệu về kinh tế của thời đại ngang với những ai sống ở Hồng Kông hay Thượng Hải. Ở một mức độ nào đó, quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra với tốc độ quá nhanh ở Trùng Khánh là kỳ công mới nhất và vĩ đại nhất của nền kinh tế kế hoạch hóa theo kiểu cộng sản. Ba mươi cây cầu, mười tuyến đường sắt hạng nhẹ và vô số tòa nhà cao tầng, tất cả đều hiện lên dưới làn sương lẫn khói như những đài tôn vinh quyền lực của nhà nước một đảng tập trung này. Song sự phát triển của Trùng Khánh còn là kết quả của việc kinh doanh tư nhân được giải phóng. Xét ở nhiều khía cạnh, bà Ngô Á Quân là hiện thân của sự giàu có mới xuất hiện ở Trung Quốc. Với tư cách là một trong những nhà xây dựng bất động sản hàng đầu Trùng Khánh, bà là một trong những phụ nữ giàu có nhất ở Trung Quốc, với tài sản trên 9 tỷ đô la - một sự tương phản sống với những người Scotland đã lập nên cơ nghiệp của họ ở Hồng Kông một thế kỷ trước. Hoặc hãy xem Doãn Minh Thiện. Bị cầm tù trong thời gian Đại Cách mạng Văn hóa, ông Doãn đã phát hiện ra thiên hướng thực sự của mình vào đầu thập niên 1990, sau khi nền kinh tế Trung Quốc được cải cách mở cửa. Chỉ trong vòng có mười lăm năm, ông đã xây dựng nên một doanh nghiệp 900 triệu đô la. Năm 2007, công ty Lợi Phàm (Lifan) của ông đã bán được trên 1,5 triệu động cơ xe máy và xe; hiện nay ông đang xuất khẩu sang Mỹ và châu Âu. Bà Ngô và ông Doãn chỉ là hai trong số hơn 345.000 triệu phú đô la hiện đang sống ở Trung Quốc.
Trung Quốc không chỉ đã bỏ xa quá khứ đế quốc của mình. Cho đến nay, nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới này còn tìm cách tránh được kiểu khủng hoảng đã định kỳ làm vỡ tung các thị trường mới nổi khác. Bằng cách phá giá đồng nhân dân tệ năm 1994 và duy trì sự kiểm soát các luồng vốn trong suốt giai đoạn cải cách kinh tế, Trung Quốc đã tránh khỏi bị thiệt hại bởi cuộc khủng hoảng tiền tệ trong các năm 1997-98. Khi người Trung Quốc muốn lôi kéo vốn nước ngoài, họ yêu cầu vốn đó phải dưới dạng đầu tư trực tiếp. Điều đó có nghĩa là thay vì vay từ các ngân hàng phương Tây để tài trợ cho sự phát triển công nghiệp của mình, như nhiều thị trường mới nổi khác đã làm, họ cho người nước ngoài xây dựng nhà máy tại các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc - những khối tài sản lớn khó có thể rút ra một cách dễ dàng trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là ở chỗ phần lớn đầu tư của Trung Quốc được tài trợ từ tiền tiết kiệm của chính Trung Quốc (và từ cộng đồng người Trung Quốc ở nước ngoài). Rất thận trọng sau nhiều năm bất ổn và chưa quen với vô vàn phương tiện tín dụng mà chúng ta đang có ở phương Tây, các hộ gia đình Trung Quốc tiết kiệm với tỷ lệ cao một cách bất bình thường từ thu nhập đang tăng lên của họ, tương phản rõ rệt với người Mỹ là những người mà trong những năm gần đây hầu như không tiết kiệm một chút nào. Các công ty của Trung Quốc gửi tiết kiệm một tỷ lệ còn lớn hơn từ lợi nhuận tăng vọt của họ. Tiết kiệm đã dư dả đến nỗi lần đầu tiên sau nhiều thế kỷ, hướng di chuyển của luồng vốn giờ đây không phải từ Tây sang Đông, mà từ Đông sang Tây. Và đó là một luồng vốn khổng lồ. Năm 2007, nước Mỹ cần phải vay khoảng 800 tỷ đô la từ các nước khác; tức là trên 4 tỷ đô la mỗi một ngày làm việc. Ngược lại, Trung Quốc đã tạo ra một thặng dư cán cân vãng lai là 262 tỷ đô la, tương đương với hơn một phần tư thâm hụt của Mỹ. Và một phần tương đối lớn từ thặng dư đó cuối cùng lại được cho nước Mỹ vay. Thực sự thì nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã trở thành ngân hàng của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Mới thoáng nhìn, điều đó trông có vẻ thật kỳ quặc. Ngày nay một người Mỹ trung bình kiếm được 34.000 đô la một năm. Bất chấp sự giàu có của những người như Ngô Á Quân và Doãn Minh Thiện, một người Trung Quốc trung bình đang sống với chưa đầy 2.000 đô la một năm. Vì sao, về thực chất, người Trung Quốc lại muốn cho người giàu hơn mình 22 lần vay tiền? Câu trả lời là, cho đến tận gần đây cách tốt nhất để Trung Quốc có thể sử dụng lao động từ dân số khổng lồ của mình là thông qua việc xuất khẩu hàng chế tác tới người tiêu dùng chi tiêu vô độ ở Mỹ. Để đảm bảo rằng các hàng hóa xuất khẩu đó được bán rẻ tới mức khó có thể cưỡng lại được, Trung Quốc đã phải vật lộn với xu thế đồng tiền Trung Quốc đang trở nên mạnh thêm so với đồng đô la, bằng cách mua vào hàng tỷ đô la theo đúng nghĩa đen trên các thị trường quốc tế - một phần hệ thống neo tiền tệ châu Á mà một số nhà bình luận đã gán cho cái tên là Bretton Woods II. [629] Năm 2006, số đô la mà Trung Quốc nắm giữ đã hầu như chắc chắn vượt qua mốc 1.000 tỷ đô la. (Đáng lưu ý, mức tăng ròng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc hầu như đúng bằng mức phát hành ròng trái phiếu của Bộ Tài chính Mỹ và các cơ quan chính phủ khác của Mỹ.) Trong khi đó, xét từ quan điểm của Mỹ, cách tốt nhất để tiếp tục duy trì tình hình tốt đẹp trong những năm gần đây là nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc với giá rẻ. Hơn thế nữa, bằng cách chuyển nguồn sản xuất hàng chế tác sang Trung Quốc, các công ty Mỹ còn có thể thu lợi từ lao động giá rẻ. Và, điều quan trọng nữa, là bằng cách bán hàng tỷ đô la trái phiếu cho Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa, nước Mỹ đã có thể tận hưởng mức lãi suất tiết kiệm thấp hơn đáng kể so với những tình huống khác.
Tỷ lệ tiết kiệm quốc gia ròng (%) trên tổng thu nhập quốc dân, 1970-2006
Xin kính chào cặp đôi quốc gia tuyệt diệu "Chimerica" - Trung Hoa cộng với Mỹ - một cặp chiếm trên một phần mười diện tích mặt đất của thế giới, một phần tư dân số thế giới, một phần ba tổng sản lượng kinh tế thế giới và trên một nửa tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong tám năm gần đây. Có lúc điều này dường như là một cuộc hôn nhân do trời sắp đặt. Nửa bên Đông Trung-Hoa-Mỹ thì tiết kiệm. Nửa bên Tây thì tiêu xài. Nhập khẩu từ Trung Quốc giữ cho lạm phát Mỹ ở mức thấp. Tiết kiệm của Trung Quốc giữ cho lãi suất Mỹ ở mức thấp. Lao động Trung Quốc giữ cho chi phí tiền công Mỹ ở mức thấp. Kết quả là rẻ hơn rất nhiều khi vay tiền và có lãi rất lớn khi vận hành một doanh nghiệp. Nhờ có Trung-Hoa-Mỹ mà lãi suất tiết kiệm thực toàn cầu - chi phí vay tiền sau khi đã điều chỉnh theo lạm phát - giảm hơn một phần ba so với mức trung bình trong vòng mười lăm năm gần đây. Nhờ có Trung-Hoa-Mỹ mà lợi nhuận doanh nghiệp của Mỹ năm 2006 cũng tăng khoảng chừng ấy lần so với tỷ trọng trên GDP trung bình của nó. Song có một cái bẫy ở đây. Trung Quốc muốn cho Mỹ vay bao nhiêu thì Mỹ vay bấy nhiêu. Nói cách khác, Trung-Hoa-Mỹ là nguyên nhân của sự tăng vọt về vay ngân hàng, phát hành trái phiếu và các hợp đồng phái sinh mới mà Hành tinh Tài chính đã chứng kiến kể từ năm 2000. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu của sự bùng nổ số lượng các quỹ phòng hộ. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu giải thích vì sao các công ty vốn tư nhân lại có thể vay tiền từ khắp nơi để tài trợ cho các vụ mua đứt bằng vốn vay. Và Trung-Hoa-Mỹ - hay là "sự thừa thãi tiết kiệm" châu Á, như Ben Bernanke đã gọi [630] - chính là nguyên nhân chủ yếu giải thích vì sao thị trường cho vay mua nhà thế chấp Mỹ lại tràn ngập tiền vào năm 2006 đến mức bạn có thể nhận được hợp đồng vay mua nhà thế chấp 100% mà không cần có thu nhập, việc làm hay tài sản.
Cuộc khủng hoảng vay mua nhà dưới chuẩn năm 2007 không quá khó dự báo, như chúng ta đã thấy. Điều khó dự đoán hơn nhiều là tại sao cuộc chấn động gây nên bởi cơn lũ các vụ vỡ nợ hợp đồng vay mua nhà tại một thị trường mới nổi của chính nước Mỹ, phát sinh trong lòng nước Mỹ, lại có thể gây ra cơn động đất tài chính lan qua khắp cả hệ thống tài chính phương Tây. Không có nhiều người hiểu được rằng sự vỡ nợ các hợp đồng vay mua nhà dưới chuẩn lại có thể phá hủy giá trị của các công cụ được bảo đảm bằng tài sản mới mẻ hấp dẫn, như các cam kết nợ có thế chấp (CDO). Không có nhiều người nhìn thấy rằng, khi quy mô của các thiệt hại đó tăng vọt thì cho vay liên ngân hàng đơn giản là bị khóa cứng lại và lãi suất yêu cầu đối với các nhà phát hành thương phiếu ngắn hạn và trái phiếu công ty sẽ nhảy vọt lên, dẫn đến sự bóp nghẹt hết sức đau đớn đối với tất cả các loại người vay của khu vực tư nhân. Không có nhiều người nhìn trước được rằng, sự sụp đổ tín dụng này sẽ làm cho một ngân hàng Anh phải hứng chịu vụ khách hàng đổ xô đến rút tiền lần đầu tiên kể từ năm 1866 và kết cuộc là bị quốc hữu hóa. Ngược trở lại tháng 7/2007, trước khi khó khăn bắt đầu xảy ra, một nhà quản lý quỹ phòng hộ Mỹ đã đánh cược với tôi 7 ăn 1 là sẽ không xảy ra suy thoái ở Mỹ trong vòng năm năm tới đây. "Tôi đã cược là thế giới này sẽ không tiến đến sự cáo chung" ông ta thừa nhận sáu tháng sau đó. "Chúng tôi thua rồi." Hẳn rồi, ở thời điểm cuối tháng 5/2008, cuộc suy thoái của Mỹ có vẻ đã bắt đầu. Thế còn sự cáo chung của thế giới thì sao?
Đúng là khó có thể hình dung vào tháng 5/2008 là Trung Quốc (chưa nói gì tới các nước khác trong nhóm BRIC) lại sẽ có thể hoàn toàn không bị tổn hại gì bởi cuộc suy thoái ở Mỹ. Nước Mỹ vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, chiếm khoảng một phần năm tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Nhưng mặt khác, tầm quan trọng của xuất khẩu ròng đối với tăng trưởng của Trung Quốc đã giảm một cách đáng kể trong những năm gần đây. [631] Hơn thế nữa, việc tích lũy dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã đưa Bắc Kinh lên vị trí đầy sức mạnh là có thể đề nghị bơm vốn vào các ngân hàng đang vật lộn của Mỹ. Sự phát triển của các quỹ phòng hộ chỉ là một phần câu chuyện về sự chuyển hướng sau năm 1998 của nền tài chính toàn cầu. Điều thậm chí còn quan trọng hơn là sự phát triển của các quỹ lợi ích quốc gia (sovereign wealth fund), đơn vị pháp nhân được các quốc gia có thặng dư thương mại lớn thành lập để quản lý số của cải đang được tích tụ của họ. Đến cuối năm 2007, các quỹ lợi ích quốc gia đã quản lý khoảng 2.600 tỷ đô la, nhiều hơn tất cả các quỹ phòng hộ trên thế giới cộng lại, và không kém bao nhiêu so với các quỹ lương hưu chính phủ và dự trữ của các ngân hàng trung ương. Theo một dự báo của Morgan Stanley, trong vòng 15 năm các quỹ này có thể chạm mức tài sản 27.000 tỷ đô la - nhiều hơn 9% toàn bộ tài sản tài chính toàn cầu. Ngay từ năm 2007, các quỹ lợi ích quốc gia châu Á và Trung Đông đã chuyển sang đầu tư vào các công ty tài chính phương Tây, trong đó có Barclays, Bear Stearns, Citigroup, Merrill Lynch, Morgan Stanley, UBS và các công ty vốn cổ phần tư nhân Blackstone và Carlyle. Đã có lúc người ta cảm thấy như thể các quỹ lợi ích quốc gia sắp đạo diễn một cú giải cứu trên phạm vi toàn cầu đối với nền tài chính phương Tây; một sự đảo ngược vai trò tối hậu trong lịch sử tài chính. Đối với những người ủng hộ cái mà George Soros đã từng gọi một cách khinh bỉ là "tư tưởng chính thống về thị trường", có một điểm khác thường đau đớn ở đây: trong số những kẻ chiến thắng lớn nhất của cuộc khủng hoảng mới đây có các đơn vị doanh nghiệp do nhà nước sở hữu. [632]
Song vẫn có nhiều nguyên nhân khác giải thích vì sao mà cái giải pháp gọn đẹp mang tính Trung-Hoa-Mỹ cho cuộc khủng hoảng của Mỹ lại không xảy ra. Một phần đơn giản là vì những cuộc đột kích ban đầu của Trung Quốc vào thị trường chứng khoán Mỹ đã mang lại các kết quả dưới mức xuất sắc. [633] Có những mối lo ngại không phải là không có căn cứ ở Bắc Kinh, rằng điều tồi tệ nhất đối với các ngân hàng phương Tây có lẽ còn chờ phía trước, đặc biệt là trong bối cảnh vẫn còn chưa rõ tác động của cuộc suy thoái ở Mỹ đối với các hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng chưa chi trả với trị giá ước tính là 62 nghìn tỷ đô la. Ngoài ra còn có căng thẳng về chính trị nghiêm trọng hiện bắt đầu rõ nét ở ngay trung tâm Trung-Hoa-Mỹ. Đã có lúc, sự quan ngại đã lên đến đỉnh cao tại Quốc hội Mỹ trước cái được nhìn nhận như là sự cạnh tranh không công bằng và sự thao túng đồng nội tệ từ phía Trung Quốc, và khi cuộc suy thoái ngày càng trở nên tồi tệ tại nước Mỹ thì những lời than vãn chắc sẽ càng trở nên ầm ĩ hơn. Thế nhưng chính sự nới lỏng tiền tệ của Mỹ kể từ tháng 8/2007 - việc cắt giảm mạnh mẽ các quỹ của liên bang và lãi suất chiết khấu, các "phương cách" đấu thầu và cho vay khác nhau đã đưa hơn 150 tỷ đô la vào hệ thống ngân hàng, việc bảo lãnh cho vụ mua Bear Stearns của JP Morgan - cũng có thể coi như sự thao túng đồng nội tệ theo cách của Mỹ. [634] Kể từ khi bắt đầu xảy ra cuộc khủng hoảng ở Mỹ, đồng đô la đã mất giá khoảng 25% so với đồng nhân dân tệ. Do điều này xảy ra cùng lúc với các áp lực đồng thời về cung và cầu trên hầu như tất cả các thị trường hàng hóa, nên kết quả là sự tăng khá mạnh về giá lương thực, nhiên liệu và nguyên liệu thô. Giá hàng hóa tăng cao đến lượt nó lại làm tăng áp lực lạm phát đối với Trung Quốc, làm nảy sinh sự cần thiết phải áp đặt kiểm soát giá, cấm xuất khẩu và khuyến khích một cuộc giành giật chưa từng có nhằm vào tài nguyên thiên nhiên ở châu Phi và ở mọi nơi khác, điều mà dưới con mắt của phương Tây mang sắc thái đế quốc đáng sợ. [635] Có thể như cái tên của nó luôn ám chỉ, Chimerica chẳng hơn gì một chimera - con quái vật huyền thoại mình dê đầu sư tử đuôi thằn lằn - trong truyền thuyết cổ đại.
Có lẽ, ngẫm nghĩ kỹ lại, chúng ta trước đây đã từng trải qua việc này. Một trăm năm trước, vào kỷ nguyên toàn cầu hóa lần đầu tiên, nhiều nhà đầu tư đã nghĩ rằng có một mối quan hệ cộng sinh tương tự giữa trung tâm tài chính của thế giới là nước Anh với nền kinh tế công nghiệp năng động nhất trên lục địa châu Âu. Nền kinh tế đó là Đức. Khi đó, cũng như ngày nay, có một đường phân định rất mập mờ giữa sự cộng sinh và ganh đua. [636] Liệu có bất cứ điều gì có thể châm ngòi cho sự sụp đổ lần hai của toàn cầu hóa giống như điều đã xảy ra vào năm 1914? Câu trả lời rõ ràng là sự xấu đi trong các mối quan hệ chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc, dù là về phương diện thương mại, Đài Loan, Tây Tạng hay một vấn đề nào khác còn nằm trong tiềm thức. [637] Kịch bản này trông có vẻ khó thành sự thực. Song điều dễ thấy là các nhà sử học tương lai có thể xây dựng một cách hồi cố các chuỗi quan hệ nhân quả hợp lý để giải thích cho một diễn tiến như vậy. Những người ưa tố cáo "tội gây chiến" hẳn sẽ buộc tội cho một nước Trung Quốc mỗi lúc một năng nổ, nhường cho những người khác rên rỉ trách tội chểnh mảng của kẻ khổng lồ Mỹ đang rệu rã. Các học giả trong lĩnh vực quan hệ quốc tế chắc hẳn sẽ quy các căn nguyên mang tính hệ thống của chiến tranh cho việc phá bỏ tự do thương mại, sự cạnh tranh giành nguồn tài nguyên thiên nhiên, hoặc sự xung đột giữa các nền văn minh. Diễn đạt bằng ngôn ngữ lý giải lịch sử, người ta có thể đọc ra khả năng cao đến rợn người về một tai họa lớn vào thời đại chúng ta, như kiểu năm 1914. Một số người thậm chí có thể còn đi đến kết luận rằng sự tăng vọt của giá hàng hóa trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2008 đã phản ánh một dự đoán vô thức nào đó trên thị trường, về một cuộc xung đột sắp diễn ra.
Một bài học quan trọng của lịch sử là các cuộc chiến tranh lớn có thể xuất hiện kể cả khi toàn cầu hóa về kinh tế đã phát triển rất cao và vị thế bá chủ của đế chế nói tiếng Anh dường như đã khá vững chắc. Bài học quan trọng thứ hai là thế giới càng tồn tại lâu mà không xảy ra xung đột lớn nào thì người ta càng khó hình dung ra một cuộc xung đột như vậy (và có lẽ là càng dễ dàng khiến một cuộc xung đột bắt đầu). Bài học thứ ba và cuối cùng là một cuộc khủng hoảng giáng xuống các nhà đầu tư tự mãn sẽ gây ra nhiều đổ vỡ hơn so với khi nó giáng xuống các nhà đầu tư đã dày dạn kinh nghiệm chiến đấu. Như chúng ta đã thấy nhiều lần, các cuộc khủng hoảng lớn thực sự ít khi xảy ra đến nỗi chúng nằm ngoài ký ức của các vị lãnh đạo ngân hàng, các nhà quản lý quỹ và các nhà kinh doanh của thời nay. Độ dài trung bình sự nghiệp của một tổng giám đốc điều hành trên Phố Wall là hai nhăm năm [638], có nghĩa là ký ức trực tiếp của giới lãnh đạo hệ thống ngân hàng Mỹ không đi xa quá năm 1983 - mười năm sau khi bắt đầu cuộc nhảy vọt lớn gần đây nhất về dầu mỏ và giá vàng. Chỉ riêng thực tế này thôi đã cung cấp một lý do hết sức thuyết phục để phải nghiên cứu lịch sử tài chính.