Đồng Tiền Lên Ngôi - Chương 07
Lời kết ĐỒNG TIỀN MẤT NGÔI
Thế giới tài chính của ngày hôm nay là kết quả của bốn thiên niên kỷ tiến hóa kinh tế. Đồng tiền - mối quan hệ được kết tinh giữa con nợ và chủ nợ - đã sinh ra các ngân hàng và các sở giao hoán, tạo điều kiện cho những khoản vay và cho vay càng ngày càng lớn hơn. Từ thế kỷ 13 trở đi, trái phiếu chính phủ đã tạo ra sự chứng khoán hóa những luồng tiền trả lãi; trong khi đó, thị trường trái phiếu cho thấy ích lợi của các thị trường đại chúng có điều tiết, chuyên buôn bán và định giá chứng khoán. Từ thế kỷ 17, cổ phần của các công ty cũng được mua bán theo những cách tương tự. Từ thế kỷ 18, các quỹ bảo hiểm và quỹ lương hưu giúp khai thác triệt để lợi thế kinh tế về quy mô và quy luật trung bình trong việc cung cấp phòng hộ tránh các rủi ro có thể dự báo được. Từ thế kỷ 19, các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn đã đưa ra nhiều công cụ chuyên môn hóa và phức tạp hơn: chúng là những công cụ phái sinh đầu tiên. Sau đó, từ thế kỷ 20 trở đi, các gia đình, vì những lý do chính trị, được khuyến khích tăng đòn bẩy và hướng danh mục đầu tư của mình vào bất động sản.
Những nền kinh tế nào kết hợp tất cả những sáng kiến về mặt định chế này - ngân hàng, thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán, bảo hiểm và nền dân chủ sở hữu nhà ở - về lâu dài sẽ hoạt động tốt hơn những nền kinh tế không được như vậy, bởi vì nhìn chung sự môi giới tài chính cho phép phân bố tài nguyên hiệu quả hơn so với chế độ phong kiến hay kế hoạch tập trung. Vì lý do này, cũng không quá ngạc nhiên khi mô hình tài chính phương Tây đã được phổ biến khắp thế giới, đầu tiên là dưới dạng chủ nghĩa đế quốc, rồi sau đó là dưới dạng toàn cầu hóa [639]. Tóm lại, từ vùng Lưỡng Hà cổ đại (nay là vùng Trung Đông) cho đến Trung Quốc ngày nay, sự lên ngôi của đồng tiền vẫn luôn là một trong những lực đẩy đằng sau sự phát triển của nhân loại: nó là một quá trình sáng tạo, môi giới và hội nhập rất phức tạp, quan trọng không kém sự phát triển của khoa học hay việc truyền bá luật pháp nhân loại thoát khỏi nỗi khổ cực của nền nông nghiệp tự cấp tự túc và cái bẫy Malthus [640]. Theo lời của cựu Thống đốc Ngân hàng Dự trữ Liên bang Frederic Mishkin: "Hệ thống tài chính là bộ não của nền kinh tế... Nó đóng vai trò cơ chế phối hợp để phân phối tiền vốn, dòng máu của các hoạt động kinh tế, sao cho các công ty và gia đình sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất. Nếu tiền vốn được dùng sai mục đích hay không lưu thông, thì nền kinh tế sẽ hoạt động một cách không hiệu quả, và hậu quả cuối cùng là kinh tế sẽ kém phát triển." [641]
Tuy vậy, sự lên ngôi của đồng tiền chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ là một quá trình suôn sẻ. Ngược lại, lịch sử tài chính vẫn liên tục lộn nhào qua những khúc lên và xuống, bùng và vỡ bong bóng, giữa điên cuồng và hoảng loạn, chấn động và sụp đổ. [642] Một nghiên cứu gần đây sử dụng dữ liệu hiện có về tổng sản lượng nội địa và tiêu thụ từ năm 1870 đã cho thấy có 148 vụ khủng hoảng trong đó một nước trải qua sự suy giảm GDP lũy tích ít nhất là 10%, và 87 vụ khủng hoảng trong đó sản lượng tiêu thụ cũng suy giảm cùng mức độ; điều này cho thấy xác suất xảy ra thảm họa tài chính là khoảng 3,6% một năm. [643] Đến nay vẫn vậy, mặc dù các tổ chức và công cụ đã trở nên tinh vi chưa từng có, Hành tinh Tài chính vẫn chịu rất nhiều nguy cơ khủng hoảng. Có vẻ như, dù chúng ta có khéo léo tới đâu thì vẫn sẽ bị "đánh lừa bởi sự ngẫu nhiên"[644] và bị bất ngờ bởi những "con thiên nga đen" [645]. Có khi chúng ta còn đang sống trong quá trình xì hơi của một "siêu bong bóng" kéo dài hàng thập niên. [646]
Có ba lý do cơ bản cho việc này. Lý do đầu tiên là tương lai - hay đúng hơn là các tương lai, vì tương lai không bao giờ chỉ có số ít - nằm trong vòng bất định, không như rủi ro có thể ước tính trước. Như Frank Knight đã lập luận vào năm 1921: "Tính bất định (uncertainty) phải được hiểu một cách khác hoàn toàn so với khái niệm rủi ro quen thuộc, hai thứ này chưa bao giờ được phân biệt một cách rõ ràng... Bất định có thể đo lường được, hay còn gọi là một 'rủi ro', khác hẳn bất định không đo lường được, đến nỗi thực tình không thể coi đấy là bất định được nữa." Nói một cách đơn giản, nhiều việc xảy ra trong cuộc sống không giống như trò súc sắc. Lần này qua lần khác sẽ có một sự kiện diễn ra "độc nhất vô nhị, hoặc không có đủ số lần xảy ra để tính toán được những trường hợp giống nó làm cơ sở đánh giá giá trị xác suất đáng tin cậy..." [647] Chính điểm này cũng được Keynes diễn đạt hết sức sáng rõ vào năm 1937. Ông viết để trả lời các nhà phê bình cuốn General Theory (Lý thuyết tổng quát) của ông rằng:
Khi nói thông tin nào đó là "bất định" tôi không chỉ muốn phân biệt giữa những gì chắc chắn và những gì chỉ là có thể. Nói theo nghĩa này thì trò chơi đánh bạc cò quay cũng không mang tính bất định... Tuổi thọ kỳ vọng của con người cũng chỉ hơi mang tính bất định. Cả thời tiết cũng chỉ tương đối bất định. Tôi dùng từ này theo nghĩa, một cuộc chiến tranh châu Âu, hoặc mức lãi suất trong hai mươi năm tới, là điều bất định... Những việc này chúng ta hoàn toàn không có cơ sở khoa học để hình thành một xác suất tính toán được. Đơn giản là ta không biết gì về nó. [648]
Keynes tiếp tục đưa ra giả thuyết về những cách mà các nhà đầu tư có thể "cố gắng hành động trong những tình huống ấy, sao cho thể hiện mình là những người có lý trí và có suy nghĩ kinh tế":
(1) Chúng ta thường cho rằng thời hiện tại là một bản chỉ dẫn dùng được cho tương lai, trong khi nếu ta xem xét kinh nghiệm quá khứ một cách thẳng thắn thì sẽ thấy không phải như vậy. Nói cách khác, chúng ta hầu như mặc kệ khả năng có những thay đổi trong tương lai mà ta thật sự không hề biết gì về chúng cả.
(2) Chúng ta cho rằng trạng thái hiện tại của đánh giá tình hình được thể hiện qua giá cả và đặc tính của sản lượng hiện tại là dựa trên sự tổng kết chính xác các khả năng tương lai...
(3) Vì biết rằng đánh giá của riêng bản thân mình thôi thì không có giá trị gì, nên chúng ta thường dựa vào đánh giá của cả thế giới, mà ta cho rằng hiểu biết tốt hơn. Nói cách khác, ta thường cố làm theo những hành vi của đám đông hoặc hành vi trung bình. [649]
Mặc dù khó có thể nói rằng Keynes nói đúng khi giải thích hành động của các nhà đầu tư theo cách hiểu của mình, nhưng ông chắc chắn là đã nghĩ đúng hướng. Thiên kiến kinh nghiệm (heuristic bias) của các cá nhân đương nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra biến động của các thị trường tài chính.
Từ đây, chúng ta đi tới lý do thứ hai dẫn tới sự bất ổn định tất yếu của hệ thống tài chính, ấy là hành vi của con người. Như chúng ta đã thấy, tất cả các tổ chức tài chính đều phụ thuộc vào thiên hướng bẩm sinh của chúng ta là đi từ chỗ cực vui đến chỗ chán nản; sự bất lực kinh niên của chúng ta trong việc bảo vệ bản thân khỏi "rủi ro đuôi" (tức các rủi ro có xác suất cực nhỏ); thất bại liên miên của chúng ta trong việc học hỏi từ lịch sử. Trong một bài ký sự nổi tiếng, Daniel Kahneman và Amos Tversky đã cho thấy qua một loạt các thí nghiệm, rằng người ta thường tính toán nhầm các khả năng khi phải đối đầu với các lựa chọn tài chính đơn giản. Đầu tiên, hai người đã cho nhóm thí nghiệm mỗi người 1.000 bảng Israel. Rồi sau đấy cho họ chọn giữa: (a) 50% cơ hội thắng thêm 1.000 bảng nữa, hoặc (b) 100% cơ hội thắng thêm 500 bảng nữa. Chỉ có 16% số người chọn a; những người còn lại (84%) đều chọn b. Sau đó, họ cho nhóm thí nghiệm tưởng tượng rằng mình đều nhận được mỗi người 2.000 bảng, và lại phải đưa ra lựa chọn khác: (c) 50% cơ hội mất 1.000 bảng, hoặc (d) 100% cơ hội mất 500 bảng. Lần này thì đa số (69%) chọn (c); chỉ có 31% chọn (d). Thế nhưng khi ta xét về khía cạnh thu lãi thì hai vấn đề này giống nhau hoàn toàn. Trong cả hai lần ta đều có sự lựa chọn giữa 50% cơ hội có được 1.000 bảng, và cơ hội có được 2.000 bảng như nhau (a và c) hoặc chắc chắn nhận được 1.500 bảng (b và d). Trong thí nghiệm này cũng như các thí nghiệm khác, Kahneman và Tversky đã ghi nhận một sự bất cân xứng đáng kinh ngạc: người ta tránh rủi trong các tình huống khả quan, nhưng lại tìm rủi ro trong các tình huống tiêu cực. Thua lỗ có sức tác động mạnh gấp 2,5 lần lợi nhuận cùng mức độ. [650]
Sự thiếu kiên định này chỉ là một trong nhiều thiên kiến kinh nghiệm (phương pháp suy nghĩ hoặc học hỏi lệch lạc) phân biệt con người thật sự với "con người kinh tế" (homo oeconomicus) của thuyết kinh tế tân cổ điển, ấy là một người luôn đưa ra những quyết định của mình một cách có lý, dựa trên tất cả những thông tin mình có và độ thỏa dụng mình kỳ vọng. Các thí nghiệm khác cho thấy chúng ta thường quá dễ dàng rơi vào các bẫy nhận thức như:
1. Thiên kiến thông tin có sẵn khiến chúng ta đưa ra quyết định dựa trên thông tin có sẵn trong ký ức chứ không phải thông tin thật sự cần thiết;
2. Thiên kiến hồi cố khiến chúng ta cho rằng xác suất một việc xảy ra là cao hơn chỉ sau khi nó đã xảy ra rồi, so với những gì ta nghĩ trước khi nó xảy ra;
3. Vấn đề suy diễn khiến chúng ta hình thành nên các quy tắc tổng quát dựa trên những thông tin không đủ;
4. Ngụy biện về kết hợp (hoặc tách biệt), nghĩa là ta thường ước tính quá xác suất để cho bảy sự kiện ở xác suất 90% đều xảy ra hết, trong khi ta lại ước tính thiếu xác suất để cho ít nhất bảy sự kiện có xác suất 10% sẽ xảy ra;
5. Thiên kiến xác nhận khiến ta đi tìm những dấu hiệu xác nhận một giả thuyết ban đầu, chứ không tìm những dấu hiệu bác bỏ nó;
6. Tác động lây nhiễm khi ta để cho những thông tin không liên quan nhưng lân cận ảnh hưởng tới quyết định của ta;
7. Phản ứng cảm xúc khi mà ta để cho những phán đoán giá trị sẵn có của mình làm nhiễu các đánh giá về chi phí và lợi ích;
8. Sự không chú ý tới phạm vi khiến chúng ta không điều chỉnh cho phù hợp những gì mình nên sẵn sàng hy sinh để tránh tác hại ở nhiều mức độ khác nhau;
9. Tự tin quá mức vào ước lượng chính xác khiến chúng ta đánh giá quá thấp những khoảng tin cậy mà trong phạm vi các khoảng đó, các ước lượng của chúng ta là rất tốt (ví dụ như đánh đồng tình huống "tốt nhất có thể" với tình huống "có khả năng xảy ra nhiều nhất");
10. Sự bàng quan của người ngoài cuộc khiến ta từ bỏ trách nhiệm cá nhân khi đứng trong đám đông. [651]
Nếu bạn vẫn còn nghi ngờ về sự dễ dàng bị nhầm lẫn đã được lập trình sẵn của con người, thì bạn hãy hỏi mình câu hỏi sau đây. Một cái vợt và một quả bóng tổng cộng là 1,10 bảng, và cái vợt thì đắt hơn quả bóng 1 bảng. Vậy quả bóng bao nhiêu tiền? Khoảng một trong hai người được hỏi sẽ buột ra câu trả lời sai: 10 xu. Câu trả lời đúng là 5 xu, vì chỉ khi cái vợt giá 1,05 bảng và quả bóng giá 5 xu thì cả hai điều kiện mới được thỏa mãn. [652]
Nếu có lĩnh vực nào có khả năng thay đổi triệt để hiểu biết của ta về cách mà các thị trường tài chính hoạt động, thì đó là lĩnh vực tài chính hành vi đang nảy nở. [653] Khó có thể nói được một phần bao nhiêu những nghiên cứu dựa trên giả thiết thị trường hiệu quả có thể sống sót được nếu đưa ra thử thách. [654] Những người đặt niềm tin vào "trí tuệ của đám đông" [655] đơn giản chỉ cho rằng một nhóm đông người thì có khả năng đưa ra lựa chọn đúng hơn là một nhóm nhỏ những người có thể được gọi là chuyên gia. Nhưng nói như vậy cũng không có nhiều ý nghĩa. Câu đùa từ xưa, "Các nhà kinh tế vĩ mô đã dự đoán đúng chín trong năm cuộc suy thoái gần đây nhất" không chỉ là đùa, mà còn là một sự thật rất đáng buồn về khó khăn trong việc dự báo kinh tế. [656] Trong khi đó, những ai nghiêm túc nghiên cứu tâm lý học con người sẽ biết rằng đám đông có khả năng điên rồ không kém gì thông minh. [657] Một trường hợp điển hình là nỗi ảo tưởng gần như toàn cầu trong giới đầu tư vào nửa đầu năm 2007, rằng một cuộc khủng hoảng thanh khoản sẽ không thể xảy ra (xem Lời giới thiệu). Nói theo cách tóm tắt văn vẻ của Eliezer Yudkowsky thì:
Con người có thể quá tự tin và quá lạc quan. Họ có thể tập trung vào vài bối cảnh tương lai quá cụ thể trong khi bỏ mặc tất cả những bối cảnh khác. Họ có thể không nhớ được [những vụ khủng hoảng thanh khoản trong] quá khứ. Họ có thể ước tính quá cao tính dự đoán được của quá khứ và do đó mà họ ước tính quá thấp những bất ngờ của tương lai. Họ có thể không nhận ra được nỗi khó khăn trong việc chuẩn bị [cho những cuộc khủng hoảng thanh khoản] nếu không có hỗ trợ từ hiểu biết do nhìn lại quá khứ. Họ có thể thích đầu cơ vào khả năng thu lãi cao hơn nhưng lại mặc kệ giá trị của những gì mình đặt cược vào đó. Họ có thể đánh đồng những thông tin lạc quan về lợi ích của công nghệ [ví dụ như bảo hiểm trái phiếu] với thông tin tiêu cực về những rủi ro của nó. Họ có thể bị tiêm nhiễm bởi những bộ phim mà trong đó thị trường tài chính rốt cuộc luôn được cứu... Cũng có thể, khả năng cực kỳ khó chịu về một vụ khủng hoảng thanh khoản sắp xảy ra khiên họ đi tìm những lý do chứng minh rằng thanh khoản sẽ không cạn, nhưng họ lại không đi tìm những lý do chứng minh rằng nó sẽ xảy ra. Nhưng nếu câu hỏi cụ thể là "Tại sao nhiều người khác không làm gì đi?" thì một yếu tố có thể là chính những người đang hỏi câu hỏi đấy lại liếc mắt nhìn xem người khác có phản ứng gì không... trong khi bản thân cố tỏ ra đĩnh đạc và không bối rối. [658]
Phần lớn sự lệch lạc trong suy nghĩ của chúng ta đương nhiên là kết quả của tiến hóa. Lý do thứ ba cho con đường lộn xộn của lịch sử tài chính cũng liên quan tới thuyết tiến hóa, mặc dù chỉ là qua phép tương tự. Người ta thường nói rằng tài chính có đặc tính giống như thuyết Darwin. "Chọn lọc tự nhiên" là một câu mà các nhà kinh doanh xông xáo thích dùng; và như ta đã thấy, các ngân hàng đầu tư thích mở những cuộc họp với những cái tên như "Sự tiến hóa của thành tựu". Nhưng cuộc khủng hoảng Mỹ năm 2007 đã khiến việc sử dụng ngôn ngữ như vậy còn tăng thêm. Trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ Anthony W. Ryan không phải người duy nhất nói về làn sóng tuyệt chủng tài chính xảy ra vào nửa sau năm 2007. Andrew Lo, Giám đốc Phòng Nghiên cứu về Toán Tài chính của trường Đại học Công nghệ Massachusetts là người đi tiên phong trong nỗ lực tái định nghĩa thị trường tài chính như là những hệ thống mang tính thích nghi. [659] Một phân tích lịch sử dài hạn về sự phát triển của các dịch vụ tài chính cũng cho thấy rằng các lực tiến hóa cũng góp mặt trong thế giới tài chính không kém gì trong thế giới tự nhiên. [660]
Ý niệm rằng có những quá trình mang tính tiến hóa đang tác động vào nền kinh tế đương nhiên không phải là mới. Ngành kinh tế học tiến hóa là một phân ngành đã có tên tuổi, nó có hẳn một tờ tạp chí riêng từ 16 năm trước [661] Thorstein Veblen đã lần đầu tiên đưa ra câu hỏi "Tại sao kinh tế học lại không phải một ngành khoa học tiến hóa?" (ý rằng nó cần phải là như vậy) từ tận năm 1898. [662] Trong một đoạn nổi tiếng trong cuốn Capitalism, Socialism and Democracy (Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ), Joseph Schumpeter đã nêu lên đặc trưng của nền tư bản công nghiệp là một "quá trình tiến hóa", điều này cũng có thể áp dụng được cho tài chính:
Tính tiến hóa này... không chỉ là do đời sống kinh tế diễn ra trong một môi trường xã hội và tự nhiên luôn thay đổi, và lúc thay đổi thì làm biến đổi dữ liệu của hành động kinh tế; đây là điều quan trọng và những thay đổi này (chiến tranh, cách mạng...) thường là điều kiện cho sự thay đổi công nghiệp, nhưng chúng không phải động lực chính. Tính tiến hóa này cũng không phải là do sự tăng dân số và vốn gần như tự động hay tính bất thường của các hệ thống tiền tệ, vai trò của chúng cũng đúng như những thay đổi trên. Động lực cơ bản giữ cho động cơ tư bản chuyển động chính là đến từ các loại hàng hóa tiêu thụ mới, các phương thức sản xuất hoặc vận chuyển mới, các thị trường mới, các hình thức tổ chức công nghiệp mới mà nền kinh doanh tư bản tạo ra... Việc mở ra những thị trường mới, kể cả trong nước hay ngoài nước, và sự phát triển về mặt tổ chức từ chỗ xưởng thủ công và nhà máy, đến những công ty như Thép Mỹ cho thấy cùng một quá trình - cho phép tôi dùng thuật ngữ sinh học - đột biến công nghiệp đã không ngừng cách mạng hóa kết cấu kinh tế ngay từ bên trong; nó không ngừng phá hủy kết cấu cũ, không ngừng tạo ra kết cấu mới. Quá hình Phá hủy Sáng tạo này là một sự thật cơ bản của chủ nghĩa tư bản. [663]
Một điểm mấu chốt được rút ra từ các nghiên cứu gần đây là quy mô lớn của sự phá hủy xảy ra trong một nền kinh tế hiện đại. Khoảng một trong số mười công ty của Mỹ biến mất mỗi năm. Chính xác từ năm 1989 đến 1997 khoảng 611.000 công ty đã biến mất mỗi năm, trong tổng số 5,73 triệu công ty. Cần chú ý rằng 10% là mức tuyệt chủng trung bình; trong một số khu vực của nền kinh tế, nó có thể lên đến 20% vào một năm tệ hại (ví dụ như ngành tài chính Quận Columbia, vào năm 1989, tại đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng Tiết kiệm và Cho vay). [664] Theo như Bộ Kinh doanh và Sản xuất Anh, 30% các công ty có đăng ký thuế biến mất sau ba năm. [665] Kể cả nếu chúng sống sót qua một vài năm đầu và tiếp tục thành công lớn thì hầu hết các công ty cuối cùng cũng sẽ thất bại. Trong 100 công ty lớn nhất thế giới vào năm 1912, đến năm 1995 đã có 29 công ty phá sản, 48 công ty bị xóa sổ, và chỉ có 19 công ty còn lưu lại trong top 100. [666] Biết rằng một phần lớn hoạt động của ngân hàng và thị trường chứng khoán là cung cấp tài chính cho các công ty, ta cũng không nên ngạc nhiên khi thế giới tài chính cũng có sự phá hủy sáng tạo tương tự. Chúng ta đã nhận thấy mức đóng cửa cao đối với các quỹ phòng hộ. (Lý do duy nhất mà các ngân hàng không bị phá sản nhiều như vậy là, như ta sắp thấy, do chúng được các chính phủ bảo vệ công khai và ngấm ngầm để khỏi sụp đổ.)
Có những đặc tính chung nào giữa thế giới tài chính và một hệ thống tiến hóa thực thụ? Có thể nghĩ ngay tới sáu đặc tính:
- "Gien": theo nghĩa là có một số tập quán kinh doanh đóng vai trò giống như gien trong sinh học, chúng cho phép thông tin được ghi vào "bộ nhớ tổ chức" và được truyền từ cá nhân này tới cá nhân khác, hay từ công ty này sang công ty khác, mỗi khi một công ty mới được thành lập.
- Khả năng đột biến ngẫu nhiên, trong thế giới kinh tế thường được gọi là sáng kiến, và nó thường nhưng không phải luôn luôn mang tính công nghệ.
- Cạnh tranh giữa các cá thể trong một loài để giành tài nguyên, kết quả tính theo tuổi đời và sự nhân giống sẽ quyết định những tập quán kinh doanh nào được di truyền.
- Cơ chế chọn lọc tự nhiên thông qua sự phân phối vốn và nguồn nhân lực dựa theo thị trường và khả năng chết đi nếu hoạt động kém, còn gọi là "sống sót chênh lệch".
- Khả năng hình thành loài giúp bảo đảm đa dạng sinh học thông qua việc hình thành những loại tổ chức tài chính hoàn toàn mới.
- Khả năng tuyệt chủng, khi mà một loài chết hết.
Lịch sử tài chính thực chất là kết quả của sự đột biến về mặt tổ chức và chọn lọc tự nhiên. Những "biến động" (drift) (các sáng kiến hoặc đột biến xảy ra ngẫu nhiên chứ không phải do chọn lọc tự nhiên) và những "dòng" (flow) (các sáng kiến hoặc đột biến xảy ra ví dụ như khi những tập quán của Mỹ được các ngân hàng Trung Quốc áp dụng) có tính tình cờ cũng góp phần vào đó. Ngoài ra còn có sự "đồng tiến hóa" khi mà các loài tài chính khác nhau làm việc và thích nghi với nhau (ví dụ như quỹ phòng hộ và những nhà môi giới chính của chúng). Nhưng sự chọn lọc của thị trường vẫn là động lực chính. Những sinh thể tài chính luôn cạnh tranh lẫn nhau để giành một nguồn tài nguyên hữu hạn. Tại một số thời điểm và địa điểm nhất định, một số loài nhất định sẽ thống trị. Nhưng những sáng kiến của các loài cạnh tranh, hoặc sự xuất hiện của một loài mới hoàn toàn, sẽ ngăn cản việc hình thành một hệ thống cấp bậc hay sự độc canh vĩnh cửu. Về tổng thể vẫn là quy luật kẻ mạnh sẽ thắng. Những tổ chức mang "gien vị kỷ" có khả năng tự nhân giống và tồn tại sẽ tăng trưởng và sinh tồn được. [667]
Phải lưu ý rằng tiến hóa chưa hẳn sẽ tạo ra một sinh thể hoàn hảo. Một đột biến "đủ tốt" sẽ đạt được vị trí thống trị nếu nó xảy ra vào đúng nơi, đúng thời điểm, do các quá trình tiến hóa rất nhạy cảm với những điều kiện ban đầu. Tức là nếu từ đầu có một thế mạnh nhỏ thôi thì sau này nó có thể dẫn đến một khoảng thống trị kéo dài, chứ không nhất thiết đấy là thế mạnh tối ưu nhất. Ta cũng nên ghi nhớ rằng trong thế giới tự nhiên, tiến hóa không hẳn là tiến bộ như người ta từng nghĩ (nhất là những môn đệ Herbert Spencer). Các sinh vật tài chính sơ đẳng như những kẻ cho vay nặng lãi không bị tuyệt chủng, cũng như các sinh vật đơn bào chỉ thấy được dưới kính hiển vi vẫn chiếm phần đa số sinh vật trên trái đất. Cấu tạo phức tạp do tiến hóa không bảo vệ một sinh vật hay một công ty tránh khỏi tuyệt chủng - đấy là định mệnh của hầu hết các loài động vật và thực vật.
Nhưng phải thừa nhận rằng sự tương đồng với tiến hóa không phải là hoàn hảo. Khi một sinh thể nuốt một sinh thể khác trong thế giới tự nhiên, đó đơn giản chỉ là ăn; nhưng trong thế giới của các dịch vụ tài chính, các vụ sáp nhập và mua lại có thể trực tiếp dẫn tới đột biến. Trong các sinh thể tài chính, không có gì tương ứng với vai trò sinh sản sinh dục như trong thế giới động vật (cho dù những từ ngữ mang tính sinh dục vẫn thường được dùng để miêu tả một số giao dịch tài chính nhất định). Hầu hết các đột biến tài chính là những sáng kiến cố ý, có ý thức chứ không phải là thay đổi ngẫu nhiên. Thật vậy, bởi vì một công ty có thể thích nghi với những thay đổi xảy ra quanh nó ngay trong thời gian sống của nó, sự tiến hóa tài chính (cũng như sự tiến hóa của văn hóa) có lẽ mang đặc tính Lamarck hơn là Darwin. Hai sự khác biệt mấu chốt nữa sẽ được thảo luận dưới đây. Dù thế nào chăng nữa thì sự tiến hóa cũng là một mô hình giúp hiểu các thay đổi tài chính tốt hơn tất cả những công cụ khác mà ta có.
Chín mươi năm trước, lý thuyết gia xã hội chủ nghĩa người Đức Rudolf Hilferding đã dự đoán sẽ có sự vận động không ngừng về hướng tập trung sở hữu thứ mà ông gọi là vốn tài chính. [668] Cách nhìn truyền thống về sự phát triển tài chính quả thật vẫn nhìn quá trình ấy từ điểm nhìn thuận lợi của các công ty lớn và thành công đã sống sót. Trong cây phả hệ chính thức của Citigroup, ta có thể thấy rằng nhiều công ty nhỏ - từ Ngân hàng Thành phố New York được thành lập vào năm 1812 - đã nhập về một thân chung, đó là tập đoàn ngày hôm nay. Tuy vậy, đây lại chính là cách nghĩ sai lệch về sự tiến hóa tài chính qua thời gian dài, bởi trong thực tế nó bắt đầu ở một thân chung. Theo định kỳ, thân cây ấy rẽ nhánh ra ngoài khi mà các hình thức ngân hàng và tổ chức tài chính mới xuất hiện. Việc một công ty nào đó nuốt chửng những công ty nhỏ hơn trong quãng thời gian ấy cũng không có ý nghĩa lắm. Trong quá trình tiến hóa, các động vật ăn thịt lẫn nhau, nhưng đấy không phải là động lực chính đằng sau sự đột biến tiến hóa và sự xuất hiện những loài mới. Điểm mấu chốt là lợi thế kinh tế về quy mô và độ lớn không phải lúc nào cũng là động lực chính trong lịch sử kinh tế. Thường xuyên hơn, quá trình hình thành loài mới là động lực chính - khi mà những hình thức công ty mới hoàn toàn được lập ra; cũng đóng vai trò ngang bằng là quá trình phá hủy sáng tạo, khi mà các công ty yếu hơn phá sản.
Lấy trường hợp các ngân hàng bán lẻ và ngân hàng thương mại, đây vẫn là một lĩnh vực có sự đa dạng sinh học tương đối. Mặc dù có những công ty khổng lồ như Citigroup và Bank of America, các thị trường Bắc Mỹ và châu Âu vẫn có khu vực ngân hàng bán lẻ tương đối phân khúc. Khu vực ngân hàng hợp tác có nhiều thay đổi nhất trong những năm gần đây, với mức độ hợp nhất cao (đặc biệt là sau vụ khủng hoảng Tiết kiệm và Cho vay vào những năm 1980), và hầu hết các ngân hàng đã chuyển sang sở hữu cổ đông. Nhưng loài duy nhất sắp tuyệt chủng trong thế giới các nước phát triển là ngân hàng quốc doanh, khi mà việc tư nhân hóa phổ biến khắp nơi (dù vậy việc quốc hữu hóa ngân hàng Northern Rock cho thấy rằng có thể loài này sẽ quay trở lại). Về mặt khác, câu chuyện này là câu chuyện về sự hình thành loài, nhân giống những loại tổ chức tài chính mới, điều mà chúng ta mong đợi ở một hệ thống tiến hóa thực thụ. Có nhiều công ty dịch vụ tài chính "độc tuyến" đã xuất hiện, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính tiêu thụ (ví dụ như ngân hàng Capital One). Một số công ty chuyên biệt nay tồn tại để phục vụ cho thị trường ngân hàng tư nhân. Dịch vụ ngân hàng trực tiếp (qua điện thoại và Internet) cũng là một hiện tượng tương đối mới và đang phát triển. Tương tự như vậy, mặc dù các công ty khổng lồ đã hình thành trong giới ngân hàng đầu tư, vẫn có nhiều loài mới và lanh lẹ, chẳng hạn như các quỹ phòng hộ và các công ty cổ phần tư nhân, cũng đã tiến hóa và sinh sôi. Và như chúng ta đã thấy trong Chương 6, những khoản dự trữ tiền kim loại đang nhanh chóng tích lũy của những quốc gia xuất khẩu hàng chế tác và năng lượng đang tạo ra một thế hệ các quỹ lợi ích quốc gia mới.
Không chỉ có những loại công ty tài chính mới đang sinh sôi; cả những loại tài sản và dịch vụ tài chính cũng vậy. Vào những năm gần đây, các nhà đầu tư ngày một thêm hào hứng với những chứng khoán được bảo đảm bằng vay mua nhà thế chấp và tài sản khác. Việc dùng các công cụ phái sinh cũng nở rộ, hầu hết được buôn bán qua thị trường ngoài danh mục, trên cơ sở mặt đối mặt, chứ không thông qua những sàn giao dịch công cộng - một xu hướng mang đến lợi nhuận cho những người bán trái phiếu phái sinh nhưng lại có thể có những hậu quả ngoài ý muốn vì không được tiêu chuẩn hóa và nhiều khả năng xảy ra tranh chấp pháp lý khi có khủng hoảng.
Nói theo ngôn ngữ tiến hóa thì khu vực dịch vụ tài chính có vẻ đã đi qua một đợt bùng nổ kỷ Cambri kéo dài 20 năm, trong đó các loài tồn tại sẵn thì phát triển mạnh hơn và các loài mới tăng lên. Cũng như trong thế giới tự nhiên, sự tồn tại của các công ty khổng lồ không ngăn cản sự tiến hóa và tồn tại của các loài nhỏ hơn. Kích thước không phải là tất cả, trong tài chính cũng như trong tự nhiên. Thật vậy, chính những khó khăn nảy sinh khi các công ty nhà nước trở nên lớn và phức tạp hơn - những bất lợi kinh tế do quy mô liên quan đến nền hành chính quan liêu, những áp lực của việc báo cáo hằng quý - đã tạo ra cơ hội để có những dạng công ty tư nhân mới. Điều quan trọng trong tiến hóa không phải là kích thước hay độ phức tạp (quá một mức nào đấy). Tất cả những gì quan trọng là bạn giỏi sống sót và di truyền lại gien của mình. Tương ứng ở giới tài chính là phải giỏi tạo ra lợi nhuận từ vốn và tạo ra những người bắt chước mô hình kinh doanh của mình.
Trong thế giới tài chính, sự đột biến và hình thành loài thường là phản ứng tiến hóa với môi trường và sự cạnh tranh, và chọn lọc tự nhiên quyết định những tính trạng mới nào sẽ được phổ biến rộng rãi. Đôi lúc, như trong thế giới tự nhiên, quá trình tiến hóa phải hứng chịu những biến động lớn dưới dạng chấn động địa chính trị và các cuộc khủng hoảng tài chính. Điều khác biệt đương nhiên là ở chỗ các thiên thạch khổng lồ (như thiên thạch đã xóa sổ 85% các loài sinh vật vào cuối kỷ Phấn Trắng) là chấn động ngoại sinh, còn các khủng hoảng tài chính có nguyên nhân nội sinh từ chính hệ thống tài chính. Vụ Đại Suy thoái những năm 1930 và Đại Lạm phát vào những năm 1970 thực sự là những thời điểm gián đoạn lớn, với các vụ "tuyệt chủng hàng loạt" như khủng hoảng ngân hàng những năm 1930 và khủng hoảng Tiết kiệm và Cho vay những năm 1980.
Có phải một chuyện tương tự đang xảy ra trong thời của chúng ta không? Đương nhiên là sự suy giảm mạnh của các điều kiện tín dụng vào mùa hè 2007 đã tạo ra những vấn đề lớn với nhiều quỹ phòng hộ, khiến chúng dễ bị các nhà đầu tư thu hồi. Nhưng một đặc tính quan trọng của vụ khủng hoảng tài chính gần đây là áp lực đối với các ngân hàng và công ty bảo hiểm. Lỗ từ chứng khoán được bảo đảm bởi tài sản và những khoản vay mạo hiểm khác có thể nhiều hơn một nghìn tỷ đô la. Vào thời điểm cuốn sách này được viết (5/2008), khoảng 318 tỷ đô la bút toán giảm (ghi lỗ trên sổ sách) đã được ghi nhận, tức là còn hơn 600 tỷ đô la chưa được đưa ra ánh sáng. Từ lúc bắt đầu khủng hoảng, các tổ chức tài chính đã góp được 225 tỷ đô la tiền vốn mới, còn thiếu hụt dưới 100 tỷ đô la một chút. Vì các ngân hàng thường có mục tiêu duy trì bất biến tỷ lệ vốn trên tài sản là dưới 10%, nên các bảng cân đối có thể phải co rút đi đến 1.000 tỷ đô la. Mặc dù vậy, sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng ngầm ngoài bảng cân đối như các "pháp nhân ống dẫn" và các "pháp nhân đầu tư được cơ cấu hóa" khiến việc co rút đó rất khó.
Ta vẫn phải chờ xem liệu các ngân hàng lớn của phương Tây có thể chèo lái qua cuộc khủng hoảng này mà không gây ra một thay đổi cơ bản nào cho các hiệp định quốc tế về điều chỉnh mức độ vốn thích đáng (Basel I và II). [669] Ví dụ, ở châu Âu, vốn ngân hàng trung bình bây giờ tương đương với dưới 10% tài sản (có khi chỉ còn 4%), so với 25% vào đầu thế kỷ 20. Cuộc khủng hoảng năm 2007 đã đánh tan hy vọng của những người tin rằng sự tách biệt giữa việc phát sinh rủi ro và quản lý bảng cân đối tài khoản sẽ phân bố rủi ro trong hệ thống tài chính một cách tốt nhất. Có vẻ khó tưởng tượng được rằng cuộc khủng hoảng này sẽ đi qua mà không còn xảy ra thêm sáp nhập và mua lại, khi mà những công ty tương đối mạnh nuốt những công ty tương đối yếu. Các công ty bảo hiểm trái phiếu có vẻ sẽ phải biến mất. Ngược lại, một số quỹ phòng hộ sẽ phát đạt vì sự trở lại của tính dễ biến động. [670] Cũng có vẻ là sẽ có nhiều dạng tổ chức tài chính mới nảy sinh sau cuộc khủng hoảng. Như Andrew Lo đã nói: "Giống như những cuộc cháy rừng đã qua trên thị trường, ta thường sẽ thấy những hệ động thực vật trác tuyệt nảy nở sau đấy." [671]
Có một khác biệt lớn nữa giữa tự nhiên và tài chính. Trong khi sự tiến hóa sinh học xảy ra ở môi trường tự nhiên, với các thay đổi về bản chất là mang tính ngẫu nhiên (nên nhà sinh vật học Richard Dawkins mới dùng hình ảnh người làm đồng hồ mù), thì sự tiến hóa của các dịch vụ tài chính diễn ra trong một khung điều tiết mà ở đó - dùng ngôn từ của những người theo thuyết sáng tạo đối lập với Darwin - sự "thiết kế thông minh" [672] cũng có vai trò. Những thay đổi đột ngột trong môi trường điều tiết khác với những thay đổi đột ngột trong môi trường kinh tế vĩ mô, là thứ tương ứng với những thay đổi môi trường trong thế giới tự nhiên. Một lần nữa, sự khác biệt là ở chỗ có yếu tố nội sinh trong sự thay đổi điều tiết, vì những người chịu trách nhiệm thường từ chỗ săn trộm mà trở thành người canh gác nên họ hiểu rõ cách hoạt động của khu vực tư nhân. Tuy vậy, tác động thực thì tương tự như sự thay đổi của khí hậu đối với tiến hóa sinh học. Các luật lệ và quy định mới có thể khiến những tính trạng tốt đột nhiên trở thành bất lợi. Chẳng hạn, sự đi lên và đi xuống của cuộc khủng hoảng Tiết kiệm và Cho vay phần lớn là do những thay đổi trong môi trường điều tiết ở Mỹ. Các thay đổi điều tiết vào sau cuộc khủng hoảng năm 2007 có lẽ có những hậu quả không lường trước tương tự như vậy.
Mục đích được đề ra của hầu hết các nhà điều tiết là giữ gìn sự ổn định trong khu vực dịch vụ tài chính, qua đó bảo vệ các khách hàng mà các ngân hàng phục vụ, và nền kinh tế "thực" mà nền công nghiệp hỗ trợ. Các công ty ở những ngành không thuộc tài chính được coi là kém quan trọng hơn, xét trên toàn hệ thống, đối với nền kinh tế nói chung, và đối với cuộc sống của người tiêu dùng. Do đó việc một tổ chức tài chính lớn sụp đổ, khiến các khách hàng cá nhân mất hết tiền gửi của mình là một sự kiện mà bất cứ nhà điều tiết (và chính trị gia) nào cũng muốn tránh bằng mọi giá. Một câu hỏi cũ lại được đặt ra từ tháng 8/2007 là tầm cỡ mối nguy đạo đức đến từ các bảo đảm ngầm sẽ cứu trợ các ngân hàng, khuyến khích họ chấp nhận rủi ro quá mức vì cho rằng chính quyền sẽ can thiệp để ngăn chặn việc mất tính thanh khoản hoặc thậm chí là không trả nợ được nếu một tổ chức được coi là lớn tới mức không được phép để cho phá sản - tức là nó quá nhạy cảm về mặt chính trị, hoặc nó rất có thể sẽ kéo theo nhiều công ty khác. Từ góc nhìn tiến hóa thì vấn đề lại hơi khác. Có lẽ tốt nhất không nên xếp tổ chức nào vào loại "lớn tới mức không được phép để cho phá sản" vì nếu không có những lúc phá hủy sáng tạo thì quá trình tiến hóa sẽ bị ngăn cản. Kinh nghiệm của Nhật Bản những năm 1990 là lời cảnh báo đối với những người lập pháp và nhà điều tiết, rằng toàn bộ khu vực ngân hàng có thể trở thành một thứ tác động về kinh tế nặng nề nếu các tổ chức vẫn được đỡ đần cho dù chúng hoạt động kém, và những món nợ xấu không bị gạch bỏ.
Mỗi cú chấn động lên hệ thống tài chính ắt sẽ có thương vong. Nếu để yên thì chọn lọc tự nhiên sẽ nhanh chóng làm việc và loại bỏ những tổ chức yếu nhất trên thị trường, chúng thường bị những tổ chức thành công nuốt chửng. Nhưng hầu hết các cuộc khủng hoảng lại đem đến những luật lệ và quy định mới, vì các nhà lập pháp và nhà điều tiết vội giúp ổn định hóa hệ thống tài chính và bảo vệ người tiêu dùng/người bỏ phiếu. Điểm cốt yếu ở đây là không thể và không nên loại bỏ khả năng xảy ra tuyệt chủng bằng những luật lệ quá cẩn trọng. Như Joseph Schumpeter đã viết hơn 70 năm về trước: "Hệ thống kinh tế không thể thiếu kế sách cuối cùng là hủy diệt hoàn toàn những sự tồn tại không có cách nào thích ứng được". Điều này, theo cách nhìn của ông, đơn giản nghĩa là sự biến mất của "những công ty không đủ sức sống sót". [673]
Trong lúc viết sách này, tôi đã thường xuyên được hỏi rằng tôi có đặt nhầm tựa sách không. Đồng tiền lên ngôi có lẽ nghe lạc quan một cách vô lý (nhất là với những người không hiểu sự ám chỉ tới chương trình Con người lên ngôi của Bronowski) khi mà lạm phát vọt lên và việc đổ xô đầu tư vào hàng hóa có vẻ là tín hiệu sự đi xuống đúng theo nghĩa đen của niềm tin công chúng và sức mua của những đồng tiền mạnh như đồng đô la. Nhưng tới đây thì người đọc chắc hẳn đã thấy rõ hệ thống tài chính của chúng ta đã đi lên như thế nào kể từ nguồn gốc xa xôi của nó là hệ thống vay mượn tiền ở Lưỡng Hà cổ đại. Đúng là đã có những cuộc thoái lui, suy giảm và diệt vong lớn. Nhưng kể cả những lần tồi tệ nhất cũng không khiến chúng ta bị đẩy lùi hoàn toàn. Mặc dù lịch sử tài chính đi theo một đường răng cưa, nhưng hướng của nó, không có nghi ngờ gì, là đi lên.
Dù vậy, tôi có thể đã bày tỏ lòng kính trọng tương tự với Charles Darwin bằng cách đặt tên cuốn sách là Tài chính mất ngôi, vì câu chuyện tôi vừa kể mang tính tiến hóa đích thực. Khi ta rút tiền từ máy ATM, hay đầu tư từng phần lương tháng vào trái phiếu và chứng khoán, hay khi ta mua bảo hiểm cho ô tô của mình, hay khi ta tái thế chấp nhà của mình, hay khi ta từ bỏ sự "thiên vị nhà" mà đi vào những thị trường mới nổi, thì chính là ta đang tham gia vào những giao dịch đã có nhiều tiền lệ lịch sử.
Tôi tin tưởng hơn bao giờ hết, rằng một khi chúng ta chưa hiểu được hoàn toàn nguồn gốc của loài sinh vật tài chính, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được sự thật cơ bản về đồng tiền: thay vì đó là "một con quái vật cần phải được đưa về đúng vị trí của nó", như Tổng thống Đức ca thán gần đây [674], các thị trường tài chính là chiếc gương của nhân loại, hé lộ từng giờ từng ngày làm việc cách mà chúng ta định giá bản thân và những tài nguyên chung quanh ta.
Không phải lỗi của gương nếu nó phản chiếu cả những vết thâm cũng rõ như phản chiếu vẻ đẹp của chúng ta.
Lời cảm ơn
Mặc dù viết lách là một công việc đơn độc, không có quyển sách nào lại là một hành trình đơn độc cả. Tôi rất biết ơn các nhân viên ở những cơ quan lưu trữ sau đây: Bảo tàng Lịch sử Amsterdam; Thư viện Quốc gia, Paris; Bảo tàng Anh, London; Bảo tàng Bông ở Sàn giao dịch bông Memphis; Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Hà Lan, The Hague; Bảo tàng Bang Louisiana, New Orleans; Kho Lưu trữ Medici, Cơ quan Lưu trữ Thành phố Florence; Cơ quan Lưu trữ Quốc gia Scotland, Edinburgh; Thư viện Quốc gia, Venice; Cơ quan Lưu trữ Rothschild, London; và Kho Lưu trữ Scottish Widows, Edinburgh. Một số các nhà học giả và quản thư đã đáp lại lời kêu gọi giúp đỡ của tôi một cách nhiệt tình. Đặc biệt tôi muốn cảm ơn Melanie Aspey, Tristram Clarke, Florence Groshens, Francesco Guidi-Bruscoli, Greg Lambousy, Valerie Moar, Liesbeth Strasser, Jonathan Taylor and Lodewijk Wagenaar. Tôi cũng cảm ơn người trợ lý nghiên cứu đắc lực là Andrew Novo.
Lời cảm ơn đặc biệt gửi đến một nhóm các chuyên gia tài chính đã đồng ý cho tôi phỏng vấn: Domingo Cavallo, Joseph DiFatta, John Elick, Kenneth Griffin, William Gross, Jose Piñera, Huân tước Rothschild, ngài Evelyn de Rothschild, Richard Scruggs, George Soros, George Stevenson, Carmen Velasco, Paul Volcker, Sherron Watkins và Robert Zoellick. Tôi cũng đã học hỏi được nhiều từ những cuộc chuyện trò với những người tham gia các sự kiện được tổ chức bởi Morgan Stanley và GLG Partners.
Đây là quyển sách của Nhà xuất bản Penguin ở cả hai bờ Đại Tây Dương. Ở New York tôi đã có được diễm phúc và vinh hạnh được Ann Godoff biên tập lần đầu. Ở London, Simon Winder đã đảm bảo cho không thuật ngữ tối tăm nào được in ra.
Michael Page đã là một nhà biên tập bản thảo xuất sắc. Tôi cũng gửi lời cảm ơn tới Richard Duguid, Ruth Stimson, Rosie Glaisher, Alice Dawson, Helen Fraser, Stefan McGrath, Ruth Pinkney và Penelope Vogler.
Như ba quyển sách gần đây nhất của tôi, Đồng tiền lên ngôi ngay từ lúc bắt đầu đã vừa là một chương trình truyền hình dài tập vừa là một quyển sách. Với Kênh 4 BBC tôi nợ Julian Bellamy, Ralph Lee, Kevin Lygo và trên hết là Hamish Mykura. Những lần căng thẳng hiếm có giữa chúng ta đều mang tính sáng tạo. Tại W-NET/Kênh 13 ở New York, Stephan Segaller đã là một người ủng hộ vô giá. Tôi đặc biệt biết ơn đội quyên quỹ, đứng đầu là Barbara Banti-voglio, vì tất cả những nỗ lực của họ. Cả chương trình truyền hình lẫn cuốn sách này đều đã không thể hình thành nếu thiếu nhóm làm việc xuất sắc mà Chimerica Media đã lập ra: Dewald Aukema, người quay phim xuất chúng của chúng tôi, Rosalind Bentley, nhà nghiên cứu, Vaughan Matthews, người quay phim phụ, Paul Paragon và Ronald van der Speck, kỹ thuật viên âm thanh thời vụ, Joanna Potts, trợ lý sản xuất, Vivienne Steel, nhà quản lý sản xuất, và Charlotte Wilkins, người điều phối sản xuất - và không quên người tiền nhiệm của cô là Hedda Archbold. Còn Melanie Fall và Adrian Pennink, những đồng nghiệp ở Chimerica của tôi; có thể nói rằng nếu không có họ thì Đồng tiền lên ngôi đã không thể hoàn thành.
Trong số những người đã giúp chúng tôi quay chương trình này, có một số "nhà chỉnh lý" đã bỏ sức ra giúp đỡ. Tôi gửi lời cảm ơn tới Sergio Ballivian, Rudra Banerji, Matias de Sa Moreira, Makarena Gagliardi, Laurens Grant, Juan Harrington, Fernando Mecklenburg, Alexandra Sanchez, Tiziana Tortarolo, Khaliph Troup, Sebastiano Venturo và Eelco Vijzelaar. Bạn tôi, Chris Wilson, đã đảm bảo cho tôi không bị lỡ một chuyến bay nào.
Tôi đã rất may mắn có được Andrew Wylie, nhà đại diện văn học tốt nhất thế giới và Sue Ay ton đóng vai trò của anh ở Đài Truyền hình Anh. Tôi cũng gửi lời cảm ơn tới James Pullen và tất cả những nhân viên khác ở các văn phòng tại London và New York của Hãng Đại diện Wylie.
Một số các nhà sử học, kinh tế học và hoạt động tài chính đã hào phóng đọc giúp toàn bộ hoặc một phần bản thảo, hoặc bàn luận những vấn đề chính cùng tôi. Tôi muốn cảm ơn Rawi Abdelal, Ewen Cameron Watt, Richart Carty, Rafael DiTella, Mohamed El-Erian, Benjamin Friedman, Brigitte Granville, Laurence Kotlikoff, Robert Litan, George Magnus, Ian Mukherjee, Greg Peters, Richard Roberts, Emmanuel Roman, William Silber, André Stern, Lawrence Summers, Richard Sylla, Nassim Taleb, Peter Terrdn và James Tisch. Tất nhiên, toàn bộ những sai sót về thông tin và cách hiểu đều là của cá nhân tôi.
Cuốn sách này đã được nghiên cứu và viết vào một thời điểm có những bất ổn tương đối lớn về mặt cá nhân. Nếu không có sự thông hiểu và trợ giúp của ba tổ chức học thuật sau thì việc này đã là bất khả thi. Tại Đại học Oxford, tôi muốn cảm ơn Hiệu trưởng và nghiên cứu viên của Trường Jesus, các đồng nghiệp của họ tại Trường Oriel và những quản thư ở thư viện Bodleian. Ở Học viện Hoover, Đại học Stanford, tôi mang nợ ông John Raisian, Giám đốc Học viện, và những nhân viên xuất sắc của ông, đặc biệt là Jeff Bliss, William Bonnett, Noel Kolak, Richard Sousa, Celeste Szeto, Deborah Ventura và Dan Wilhelmi. Những nghiên cứu viên Hoover đã giúp hoặc tạo cảm hứng cho tác phẩm này bao gồm Robert Barro, Stephen Haber, Alvin Rabushka và Barry Wemgast.
Tuy nhiên, món nợ lớn nhất của tôi là với những đồng nghiệp ở Đại học Harvard. Sẽ mất nhiều thời gian để cảm ơn từng thành viên Khoa Lịch sử của Harvard, nên xin hãy cho tôi chỉ nói đến những người đóng góp trực tiếp cho dự án này. Charles Meier đã vừa là một nguồn cảm hứng thường trực vừa là người bạn quý. Jim Hankins đã đón tiếp nồng nhiệt và tỏ lòng hảo tâm tại Florence. Tôi cũng muốn cảm ơn David Armitage, Erez Manela, Ernest May và Daniel Sargent (hiện đã chuyển sang Đại học Berkeley, tiếc thay) vì đã lập ra ban Lịch sử Quốc tế là môi trường hoàn hảo cho việc nghiên cứu lịch sử liên ngành. Andrew Gordon và người kế nhiệm của ông, James Kloppenberg, đã lãnh đạo Khoa với kỹ năng và sự nhạy cảm xuất chúng. Và nếu như không có Janet Hatch và những nhân viên của bà, thì ít nhất một trong ba trụ cột là quản lý, nghiên cứu và giảng dạy chắc hẳn đã sụp đổ.
Tại Trung tâm Nghiên cứu châu Âu, tôi đã may mắn được cùng ở và cùng đàm luận với nhiều người, trong đó có David Blackbourn, Patricia Craig, Paul Dzus, Patrice Higonnet, Stanley Hoffman, Maya Jasanoff, Katiana Orluc, Anna Popiel, Sandy Selesky, Cindy Skach, Michelle Weitzel và Daniel Ziblatt.
Trên hết tất cả, các đồng nghiệp của tôi ở Trường Kinh doanh Harvard đã phải gánh chịu nhiều khó khăn trong các năm 2006-2007. Đầu tiên, tôi phải cảm ơn Hiệu trưởng Jay Light vì đã rất tốt bụng với tôi vào thời điểm khủng hoảng. Nhưng tôi cũng biết ơn không kém những thành viên của Bộ môn Kinh doanh và Chính phủ trong ban Kinh tế Quốc tế vì đã chấp nhận những lúc vắng mặt không báo trước của tôi, đặc biệt là Richard Vietor, người tôi đã bỏ rơi trong lúc hoạn nạn, cũng như Rawi Abdelal, Laura Alfaro, Diego Comin, Arthur Daemmrich, Rafael DiTella, Catherine Duggan, Lakshmi Iyer, Noel Maurer, David Moss, Aldo Musacchio, Forest Reinhardt, Julio Rotemberg, Debora Spar, Gunnar Trumbull, Louis Wells và Eric Werker. Zac Pelleriti đã cung cấp sự trợ giúp thiết yếu về mặt hành chính.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Steven Bloomfield và những đồng nghiệp của ông tại Trung tâm Quan hệ Quốc tế Weatherhead; Graham Allison và tất cả mọi người ở Trung tâm Khoa học và Quan hệ Quốc tế Belfer; Claudia Goldin và những người đã tham gia vào buổi hội đàm về Lịch sử kinh tế; và, cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là Dorothy Austin và Diana Eck và những thành viên khác của Lowell House.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những học trò của tôi ở cả hai bên bờ sông Charles, đặc biệt là những người đã tốt nghiệp trong các lớp mà tôi dạy vào các năm 1961,1964 và 1965. Tôi đã học được từ những bài viết của họ và từ vô số cuộc nói chuyện chính thức và không chính thức với họ, điều khiến cho những ngày làm việc ở Harvard vui đến vậy.
Trong lúc tôi viết cuốn sách này, vợ tôi đã đấu tranh để hồi phục sau một vụ tai nạn trầm trọng cũng như những khó khăn khác. Với cô ấy và con của chúng tôi, Felix, Freya và Lachlan, tôi mang nợ nhiều nhất. Tôi chỉ mong ước rằng có thể trả ơn họ bằng một đồng tiền giá trị hơn.
Cambridge, Massachusetts, tháng 6/2008
Chịu trách nhiệm xuất bản: TRẦN ĐOÀN LÂM
Biên tập: Biên tập viên Nhã Nam
In 2.000 cuốn, khổ 15x24cm tại Công ty CP In Viễn Đông, km 19+400, Giai Phạm, Yên Mỹ, Hưng Yên. Căn cứ trên số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2366-2014/CXB/3-164/ThG và quyết định xuất bản số 341/QĐ-ThG của Nhà xuất bản Thế Giới ngày 26.12.2014. Ma ISBN: 978-604-77-1141-3. In xong và nộp lưu chiểu năm 2015.