Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 01

1

Phó Hồng Liệt mang tội về kinh sư

Châu Bồi Công vì nghĩa cứu gái yếu

-Đọc full tại gacsach.online các bạn nhé-

Một ngày gió tuyết đầy trời, vào giữa trưa, một chiếc thuyền quan thẳng hướng gió bắc chầm chậm cập vào bến Thiên Tân. Mỗi thuyền viên mình đầy tuyết, vén bức rèm dày nặng nề vào khoang bẩm báo, một vùng từ Thiên Tân đến Triều Dương, đường thủy đóng băng, mọi người đành phải bỏ thuyền đi bộ về kinh.

Trên thuyền có bốn người khách, tri phủ Triều Châu dẫn hai người lính hầu nói tiếng kinh đặc sệt, người nữa là một cử nhân trẻ tuổi. Đôi lông mày chữ bát cách nhau rất xa, chàng ta hình như chẳng để ý cái gì, chỉ bắt chân chữ ngũ, hào hứng nhìn qua khoang cửa ngắm cảnh gió tuyết bên ngoài. Chàng mặc mỏng manh, chỉ một cái áo kép vải thô xanh đã có mấy miếng vá, cũng không đội mũ, nhưng có sức sống hơn nhiều so với Phó Hồng Liệt mệt mỏi, già yếu ngồi trước mặt.

Vị cử nhân tên Châu Bồi Công, tự là Xương, người Kinh Châu, không có tiền lộ phí đi thi Hội, đang viết chữ thuê ở Đức Châu thì gặp Phó Hồng Liệt xuống thuyền đi tản bộ mời lên thuyền đưa về Thiên Tân. Tám ngày cùng đi trên sông, hai người nói với nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, kinh sư tử tập, văn thao võ lược, đã trở thành bạn vong niên. Châu Bồi Công nghe người lái thuyền nói, thấy Phó Hồng Liệt chau mày im lặng, liền cười nói: “Vậy có gì khó, đi bộ thì đi bộ, người xưa gió tuyết cưỡi ngựa qua Kiếm Môn, chúng ta cưỡi ngựa đi theo đường cũ Tân Môn, chẳng thơ mộng sao?”

Phó Hồng Liệt quay mặt nhìn hai người lính hầu bên cạnh, thần sắc đều ỉu xìu, bèn gượng cười, rút trong túi ra một gói bạc vụn, khoảng đâu mười lạng, đẩy nhẹ đến trước mặt Châu Bồi Công nói: “Bồi Công, xuống thuyền rồi chúng ta không đi cùng nhau nữa, chút bạc này không đáng là bao, nhưng chú cũng nên cầm theo, để bổ sung thêm...”

“Sao vậy?” Châu Bồi Công kinh ngạc hỏi.

Phó Hồng Liệt thở dài, miễn cưỡng cười nói: “Trên đường vừa rồi e chú sợ nên mãi không nói, chứ đừng thấy tôi đi thuyền quan của tướng quân Hàng Châu to đẹp như vậy mà nhầm, thực ra tôi là quan phạm tội bộ Hình bắt, bây giờ vào kinh nhận tội, xích khóa rủng rẻng, lại mang theo chú nữa thì ra cái gì?”

“Thật sao?” Châu Bồi Công giật mình, tám ngày cùng thuyền không nghe Phó Hồng Liệt hở ra một tí gì về việc này. Hai người lính hầu trước mặt ông cũng vẫn hết mực cung kính. Chàng còn tưởng ông Tri phủ trung niên học thức uyên bác này vào kinh thăng chức! Hơi có chút nghi ngờ, Châu Bồi Công mới định thần lại vội hỏi: “Tại sao vậy?”

“Thực vậy đó.” Một người lính nói, “Hai chúng tôi là người của bộ Hình phụng hành công văn Bộ bắt Phó đại nhân về kinh hỏi tội. Phó đại nhân dâng sớ xin triều đình triệt phiên, làm mếch lòng Bình Tây vương Ngô Tam Quế, bị Bình Tây vương bắt rồi, nguyên định hành quyết tại chỗ ngay ở Quảng Châu, nhưng triều đình giáng chỉ giao bộ Hình và dinh Đại Lý bàn bạc xét xử. Chiếc thuyền quan này do Đồ Hải tướng quân thuộc nha môn Thiệp quân thống lĩnh đặc biệt chiếu cố để tướng quân Hàng Châu hộ tống...”

“Người anh em,” Phó Hồng Liệt suốt chặng đường vừa rồi nghe Châu Bồi Công hết sức công kích Ngô Tam Quế, đã sớm nhận ra chàng là tri kỷ, thấy Châu Bồi Công giận điếng người liền cười nói, “mấy hôm nay nghe chú bàn luận, thấy chú chẳng những giỏi văn chương mà còn hiểu binh pháp, hiện nay nước nhà đang cần người, đừng nên tự hủy hoại mình. Vốn định viết cho chú một lá thư tiến cử, nhưng hoàn cảnh tôi bây giờ, thì nó không có ích gì, còn sợ gây họa nữa, người anh em hãy tự tìm cách cho mình.”

“Được ạ.” Châu Bồi Công nhẹ nhàng đẩy trả gói bạc, ánh mắt keo sơn nồng nàn nhìn Phó Hồng Liệt nói: “Chúng ta sắp chia tay. Những điều dốc bầu tâm sự tám ngày nay, Châu tôi không thể nào quên. Ngài đối xử với tôi như một sĩ phu, tôi tất phải đối xử với ngài như một sĩ phu. Có điều số bạc này tôi không thể nhận, ngài đang bị xét xử, còn cần tiền hơn tôi...” Phó Hồng Liệt nghe nói, trong lòng rất buồn, tròng mắt như đỏ lên, chỉ nói nhỏ: “E chưa chắc đã được dùng...”

Uy trời khó đoán, dữ nhiều lành ít, ý tứ của Phó Hồng Liệt sáng tỏ như ban ngày. Bỗng chốc trong thuyền im phăng phắc, tiếng tuyết rơi xào xào bên ngoài nghe rõ mồn một. Châu Bồi Công kinh ngạc, nhưng đã bình tĩnh lại, ánh mắt đen láy sáng lên, anh ngẫm nghĩ hồi lâu rồi hỏi: “Đồ Hải và đại nhân là tri kỷ lâu năm?”

“Trước kia cũng chưa biết nhau,” Phó Hồng Liệt nói, “Năm trước, ông có việc bị giáng chức đày tới Triều Châu, chúng tôi ở với nhau một năm. Người này rất can đảm. Chúng tôi đều tốt với Ngô Lục Nhất, sau khi Ngô Lục Nhất điều làm Tổng đốc Quảng Đông, tiến cử Đồ Hải làm Đề đốc Cửu môn, kèm quản Thiệp quân thống lĩnh nha môn, mới về kinh không lâu...” Nói xong thở dài: “Đáng tiếc, anh Lục Nhất vừa mới tới Quảng Châu đã bị bệnh chết đột ngột. Nếu anh còn thì tôi không đến nỗi phải như thế này.”

Châu Bồi Công nghe xong, nhấp nháy con mắt, bỗng cười nói: “Không nghe thơ của Lý Thanh Liêm sao? Ban ngày không soi ta lòng thành, nước Khởi rỗi việc lo trời sập! Tôi nghĩ Hoàng thượng sáng suốt tất không tùy tiện giết người hiền lương, đại nhân đi lần này xem ra có sợ nhưng không đau thương!”

Phó Hồng Liệt mấy ngày nay đã nắm được bẩm tính của Châu Bồi Công: tuy dám nói thẳng nhưng không thể nói bậy. Sự hiểu biết của chàng đối với tình hình cát cứ, tình hình quân sự, chính trị của tam phiên Ngô Tam Quế, Cảnh Tinh Trung, Thượng Khả Hỷ, đều có ý kiến rất độc đáo. Chàng nói câu này không phải chỉ vì an ủi mình, nên cười nói: “Câu này của Bồi Công thật đáng kinh ngạc!”

“Đại nhân, đây là việc đương nhiên thôi.” Ngón tay Châu Bồi Công gõ nhịp nhàng trên bàn, ngẫm nghĩ rồi nói. “Bây giờ chúng ta nói chuyện phiếm, đại nhân nói chuyện Hoàng thượng gần đây hạ chiếu lệnh tam phiên vào cung gặp gỡ, theo ý học sinh, thì có liên hệ với việc của đại nhân.”

Thấy Phó Hồng Liệt và hai người lính nhìn nhau. Châu Bồi Công hơi mỉm cười, nói: “Sắp triệt phiên rồi! Tam phiên đã thành cái đuôi to không rụng, khách lớn khinh chủ nhà lẽ nào triều đình dung cho họ làm bậy! Đạo lý chúng ta đã rõ cả rồi, thiên hạ chỉ có một, không thể hai chủ cùng trị vì, lòng trời, lòng dân, tình cảm cả nước là như vậy.” Châu Bồi Công nói đĩnh đạc, khoan thai ngồi dựa ngửa ra như thể chàng không phải là một cử nhân nghèo, không một xu dính túi, mà là một trọng thần nước nhà đang tấu nghị giữa triều đình. “Trước nay triều đình triệt phiên có ba cách, hoặc như Cao Tổ du Vân Mộng, lực sĩ bắt Hàn Tín trước xe, hoặc như Hán bình loạn bảy nước, công khai ra chiếu bắt buộc triệt, không tiếc một trận đánh; hoặc như Tống Thái Tổ chén rượu rời binh quyền, một lời nói trên bàn tiệc, việc tày trời coi như chẳng có. – Bây giờ triều đình vừa triệu ba vương đồng thời vào kinh, xem ra là sẽ dùng cách sau cùng này.”

Phó Hồng Liệt nghe cảm thấy rất có lý, liên tiếp gật đầu, bỗng sững lại như có điều suy nghĩ, nói: “Có điều, dụ chỉ Thánh thượng hạ chiếu bắt tôi nói rõ là để dinh Đại lý, bộ Hình bàn xử nặng. Sự việc chưa chắc đơn giản như vậy đâu! Tiều Thố Tiền Hán chủ trương triệt phiên, cũng đã bị...”

“Xưa nay khó khăn duy một chết. – Đặng Hán Nghi nói thật thấu tình người!” Châu Bồi Công cười ha hả, “Ngài cũng có cái mê muội của người nắm quyền! Ngài ở Quảng Châu đã bị án tử hình, làm sao còn “xử nặng” được nữa? Bắt đưa về kinh, rõ ràng là Hoàng thượng muốn cứu ngài, chắc chắn là ngài sẽ được thăng quan nữa đấy!”

“Còn nếu Hoàng thượng không triệt phiên?” Một người lính nghe Châu Bồi Công nói rất quả quyết, chưa chịu phục, không nén nổi liền hỏi.

“Nhà nước mỗi năm thu vào ba mươi bảy triệu lượng bạc,” Châu Bồi Công hơi mỉm cười, không thèm để ý, nói, “Chỉ riêng Ngô Tam Quế lấy mất chín triệu lượng, Cảnh Tinh Trung, Thượng Khả Hỷ mỗi người năm triệu rưỡi – không kể những khoản khác, chỉ một điều này, anh có thể chịu được không?” Nói xong, bưng chén nước trà lạnh trên bàn uống một hơi cạn, nói với Phó Hồng Liệt: “Phó công, mấy ngày cùng thuyền, thật là tam sinh bất hạnh, đạo đức văn chương của ngài, Bồi tôi đã hiểu rõ. Hôm nay chia tay, tôi có một lời muốn nói, không hiểu có chịu nghe không?” Phó Hồng Liệt vội chắp tay vái nói: “Xin nói!”

“Xem tướng mạo ngài, xem tài học của ngài, nghe ngài nói chuyện, đều không thẹn là sĩ phu.” Châu Bồi Công trước hết khen một câu, “Nhưng ngài dụng tâm cứng nhắc, tình cảm quá si, đề phòng dễ bị thiệt với bạn bè.”

Phó Hồng Liệt sửng sốt, một lúc không hiểu ý câu nói, vội hỏi: “Tại sao vậy?” Châu Bồi Công nói: “Ngài thỉnh chỉ triệt phiên vốn là tấu sớ mật, làm sao Ngô Tam Quế biết được?” Phó Hồng Liệt nghe cả buổi không lên tiếng, lắc đầu nói: “Tuy nói là tấu mật, nhưng cũng có bốn năm người biết, chỉ có một người, Uông Sĩ Vinh tuy nhậm chức dưới cờ Bình Tây vương nhưng lại là bạn tâm giao của tôi, lẽ nào...”

“Mấy ngày nay, đại nhân thường khen Uông Sĩ Vinh, tôi chỉ hận không có duyên gặp mặt, đâu dám đa nghi?” Châu Bồi Công cười sảng khoái nói, “Đạo xử thế của người quân tử, là ở chỗ giữ trong phạm vi mà không để lọt ra ngoài. Không tin thẳng trong cái thẳng, phải đề phòng bất nhân trong cái nhân – Hôm nay chia tay, không có ngày gặp lại. Người xưa ơn một bát cơm còn báo đáp ngàn vàng, Châu tôi có tiến chút nào, nhất định báo đền ơn to lớn! Xin chia tay ở đây! Phó công bảo trọng, bảo trọng!” Nói xong, chắp tay vái rồi chui ra khỏi thuyền, nhẹ nhàng bước lên bờ. Phó Hồng Liệt không kịp bước ra ngoài, kêu to lên: “Bồi Công, tiên sinh Bồi Công... xin cầm số bạc này…”

Châu Bồi Công đứng bên trụ đá buộc dây thuyền, tuyết lả tả rơi trên đầu, chui vào cổ áo; gió mạnh tốc thân áo dài phía dưới lên thật cao, chàng không có vẻ gì lạnh lẽo co ro. Phó Hồng Liệt và hai người lính chạy theo ra khỏi thuyền, chàng chắp tay vái nói: “Mời đại nhân trở vào, mời hai vị trở vào, hẹn gặp lại!” Nói xong, rảo bước đi nhanh trên tuyết.

Phó Hồng Liệt thấy Châu Bồi Công mất hút trong cảnh trời tuyết giá mới buồn rầu bước vào thuyền, nói với hai người lính áp giải ông: “Xin còng tay, chúng ta cũng lên đường thôi!”

Châu Bồi Công dọc đường viết chữ thuê độ nhật, mãi đến ngày mười bốn tháng giêng mới tới kinh sư. Nhìn từ xa, thành quách đế kinh cao to xám ngắt hiên ra sừng sững trên nền tuyết trắng hoang vu, lòng chàng xúc động, tim đập thình thịch. Là con cháu một thế gia suy tàn, tuy mới hai mươi nhăm tuổi, chàng đã là người từng trải nỗi nhân tình ấm lạnh, thói đời nồng nhạt. Cha mẹ chàng trước sau qua đời trong trận dịch đáng sợ năm Thuận Trị thứ bảy, ruộng nhà gia sản bị ông chú họ chiếm lấy sạch trơn, chỉ còn lại ba giá sách lớn tổ tông truyền lại. Thấy gia tộc họ Châu không dung nổi đứa con côi, bà vú Cung bèn nhận Bồi Công về nhà, cho đứa con trai đi lính lĩnh lương, bớt ăn nhịn mặc để cho chàng ăn học. Châu Bồi Công bản tính thông minh, đến mười lăm tuổi đã học hết Nhị thập tứ tử tập nào là Cung Thương Tử, Hàn Phi Tử, Quán Tử, Mặc Tử, Lão Tử, Quỷ Cốc Tử... thêm vào Thái Công âm phù, Kỳ môn tuần giáp, Tôn Tử binh pháp cùng các loại sách kinh sử. Bà vú Cung thấy chàng giỏi giang như vậy bèn bán sạch những thứ bà may thêu dành dụm được đổi ra bạc để chàng ra ngoài du học. Đứt đứt nối nối, mười năm học ở ngoài, đến năm Khang Hy thứ tám, thi Phủ thi Hương liên tiếp đều đỗ, lúc đó tóc vú Cung đã bạc trắng rồi.

Sau khi thi đỗ, thấy vú Cung sức khỏe ngày một suy sụp, Châu Bồi Công không muốn đi thi nữa. Chàng đem thơ văn đến xin ý kiến các bậc thạc Nho, thân sĩ trong vùng, lên tỉnh bái yết quý quan những người đỗ đạt muốn kiếm một việc làm. Nhưng chàng không có danh sư tiến cử, mà danh vọng bản thân lại chẳng có, trước mặt người ta có vẻ nhiệt tình nhưng trong lòng thì coi không ra gì, bà cụ tức giận mắng: “Mày càng lớn càng không nên đáng! Để cho mày học hành đỗ đạt, anh cả mày Vinh Ngộ phải đi lính, gánh chịu bao nhiêu tội vạ! Còn mày cho đi lang thang mười năm, giành được cái cử nhân thì lại muốn úp nồi? Lời tục nói, học thành nghề văn võ, bán cho nhà đế vương, thì mày lại bán cho mụ già sắp xuống lỗ này à? Đồ chẳng ra gì! Ta cần là sắc phong cáo mệnh. – Con phải đến kinh thành xin Hoàng đế!” Bây giờ thấy cửa khuyết cao ngất, làm sao Châu Bồi Công không xúc động?

Trong túi chàng có một phong thư tiến cử do Ngũ Thứ Hữu dạy học Sơn Đông viết cho Tả đô ngự sử Minh Châu, nghe nói người nhận thư này đã thăng chức Thượng thư bộ Lại. Phong thư này có tác dụng bao nhiêu hay không có tác dụng, Châu Bồi Công chưa có lúc nào nghĩ tới. Chàng nghĩ, Hoài Âm hầu Hàn Tín năm đó quy Hán, trong túi cũng có bức thư tiến cử của Trương Lương, mãi đến lúc Hán Cao Tổ phong ông làm tướng mới đưa ra, đó mới là khí khái của người trượng phu tự ghi công tự lập nghiệp! Cho nên Châu Bồi Công không coi trọng mấy bức thư mà Ngũ Thứ Hữu trịnh trọng giao cho chàng.

Châu Bồi Công mò trong túi, một xâu tiền mà vú Cung kiếm được qua từng đường kim mũi chỉ, không dám tiêu pha, chàng xem nó như bảo bối. Trong đó có hai đồng tiền La Hán và ba mươi mấy đồng tiền “Khang Hy”, tiết kiệm lắm cũng chỉ đủ dùng ba ngày. Nhưng bây giờ cách kỳ thi mùa xuân cũng còn năm sáu mươi ngày, làm sao sống qua những ngày này? Nghĩ đi nghĩ lại, chàng quyết định tìm một ngôi miếu kiếm cái ăn, nhân tiện hỏi thăm chùa Pháp Hoa gần ngoại ô.

Đang trong kỳ lễ Nguyên tiêu tháng giêng, Khang Hy năm thứ tám, lúa vụ thu đang chín đầy đồng, lại bãi bỏ việc khoanh đất, thực hiện “ruộng đổi tên”. Nhất đẳng công Ái Tất Long, từ Vu Hồ, Tô, Hàng qua Vận Hà chuyển về kinh hàng triệu gánh lương thực. Trực Lệ, Sơn Đông mọi năm bị đói, mùa xuân này một đấu gạo chỉ trả ba tiền. Vật giá bình ổn, thiên hạ an tâm, Bắc Kinh ăn Tết linh đình mấy ngày đêm, bá tánh mừng vui, lễ hoa đăng tháng giêng náo nhiệt đến bảy ngày. Ở chùa Pháp Hoa, mười mấy vị cử nhân và các thương muối không về được Giang Nam vì Vận Hà không thông, đều đến ở nhờ, yến tiệc suốt ngày, ồn ào huyên náo, biến chốn thờ Phật thanh tịnh thành nơi ăn chơi ồn ào. Châu Bồi Công chịu không được cảnh phàm tục đó, thấy tuyết bên ngoài vừa tạnh, liền dẹp thơ họa lại, quyết định đi ra đầu phố xem cảnh vật kinh thành.

Ra khỏi miếu viện, cảnh trí bên ngoài càng náo nhiệt. Tây Uyển và chùa Đàm Thạch cao ngất, các thứ lồng đèn, sư tử, nhà thuyền, hình trai sò cò hạc…, chiêng trống vang trời, mọi người kéo đến Tiền Môn và vùng xưởng thủy tinh. Các trò chơi, người khổng lồ, đánh mãng xà, đi dây màu, còn hóa trang các loại nhân vật kịch hát, một đoàn dài tấu nhạc, múa may diễu qua các phố. Dòng người chen vai thích cánh, xen lẫn tiếng hò la, tiếng hát ương ca, tiếng trẻ con reo la ầm ĩ, rồi tiếng la thét, tiếng kêu khóc, tiếng chửi rủa của những người bị lấn ngã, xen cả tiếng cười, tiếng pháo đì đoàng, hòa với nhau, quyện thành một khối. Những người đàn bà ngày thường không ra đường, cũng không chịu được vắng lặng, năm cô ba bà hẹn nhau cùng đi xem náo nhiệt. Có điều tâm tư của họ tinh tế hơn đàn ông nhiều, có người đến miếu thành hoàng đốt hương tiện cầu xin giáng phúc, có người đến am Quan âm cầu con, có người đến xưởng thủy tinh bỏ ra mấy đồng tiền mua ngao vàng cầu vòng ngọc, mấy cái răng sư tử đá – một loại răng thú chế ra – bỏ vào trong lò than để xem nó cháy, nghe nói có thể bảo đảm cả nhà suốt năm không đau răng.

Châu Bồi Công đi trong dòng người đến cửa Chính Dương, bị cảnh náo nhiệt ở đây cuốn hút: mấy trăm người đàn bà, ai cũng bị lấn xổ tung đầu tóc, nước mắt giàn giụa. Có người mất cả giày, có người nửa đường bị đẩy ra, như tổ ong chạy đi sờ những đỉnh đồng to trên cửa Chính Dương. Những người đàn bà bị đẩy ra, có người kêu trời, có người tỏ ra vui vẻ, trẻ con có đứa khóc, có đứa quấy, có đứa bu lên cổ mẹ đòi “về nhà”.

Châu Bồi Công nhìn hồi lâu, không đoán ra điều diệu kỳ gì trong đó, bèn hỏi một ông lão bên cạnh: “Cụ ơi, những người đàn bà chen lấn bạt mạng để làm gì thế?”

“Bọn họ sờ vận may.” Ông cụ nói như cười mà không cười, “Ai sờ liên tiếp được bảy cái đinh đồng, thì cả nhà quanh năm bình yên...”

Châu Bồi Công bất giác bật cười: cái mũ đinh đồng lạnh ngắt, trơn lì đó lại có phép thuật mạnh như vậy sao! Chàng không hiểu nổi. Những người đàn bà này khi cầu phúc cho cha mẹ, chồng con, lại có tinh thần kiên nhẫn ghê gớm. Người bị lấn bật ra, kẻ thì khóc, kẻ thì chửi, không sờ đủ bảy cái, quyết không chịu rời nơi đó. Châu Bồi Công bỗng thấy buồn cười nói: “Cửa lớn của Hoàng thượng thần kỳ thật! Thực là cũng không cần phải chen lấn như vậy! Chỉ cần cứ lần lượt từng người một, thì trời chưa tối ai cũng sờ được thôi.”

“Đúng vậy, những năm trước là như thế.” Một cụ già bên cạnh chen vào, “Nhưng năm nay khác rồi, lát nữa đây, Bình Nam vương gia và Tịnh Nam vương gia sẽ qua nơi này vào cung yết kiến, hễ giới nghiêm là không sờ được nữa rồi.”

Bình Nam vương là Thượng Khả Hỷ ở Quảng Đông, Tịnh Nam vương là Cảnh Tinh Trung ở Phúc Kiến. Triệu kiến tam phiên vì sao chỉ có hai vương vào kinh? Châu Bồi Công bất chợt nghĩ đến Phó Hồng Liệt, tim đập hồi hộp, vội hỏi: “Bình Tây vương không đến?”

“Cũng không biết nữa.” Cụ già lắc đầu nói, “Nghe nói cáo ốm.”

Châu Bồi Công muốn hỏi nữa, bỗng đám người hỗn loạn nháo nhác, một cô gái mười bảy mười tám khóc chửi, kéo một bà trung niên, vừa kéo vừa đánh lôi ra ngoài. Bà trung niên vừa tránh vừa cười hi hi, nói lơ mơ: “Ai bảo vậy, khỏi đụng khỏi chen chứ sao?” Các bà đứng bên thấy vậy, có người tới khuyên giải. Bất ngờ cô gái nhân lúc bà kia không đề phòng, vùng xông mạnh vào nắm được cái khăn xanh lá mạ của bà, gào to lên: “Bà mày Tiểu Tỏa bữa nay bất kỳ giá nào cũng cho mọi người thấy rõ cái quân đê tiện nhà mày!”

Mọi người đều sững sờ, té ra là một gã đàn ông!

“Đừng thả hắn, hỏi hắn tên gì?” Máu trong người Châu Bồi Công bỗng dồn lên mặt, cổ nổi gân xanh.

“Ai nói bừa vậy?” Gã đàn ông nghiêng cổ nhìn, xem tướng Châu Bồi Công, từng bước áp sát chàng, cười gằn nói: “Mày là thứ đếch ở đũng quần nào đấy? Mày biết con mụ kia là ai không? Còn ông mày là ai?”

Châu Bồi Công hai tay nắm thật chặt, lạnh lùng cười nói: “Không cần biết mi là thứ đếch gì, ai làm cái việc đó thì cũng như loài súc sinh!”

“Xì!” Gã đàn ông nhăn cái mặt khỉ, quay nhìn những người vây xung quanh xem ồn ào, “Tên nhóc nghèo này muốn can thiệp vào chuyện của ta, xí, ta đường đường là tổng quản Lưu Nhất Quý phủ Lý Thân vương. Mày quản được chuyện của lão gia sao? Nó thiếu lão gia ba mươi xâu, lão còn phải đưa nó vào phủ sờ hẳn hoi – Tụi bay: Mang con nhỏ này, đi!” Lời chưa xong, Châu Bồi Công đã giang tay cho hắn một cái tát. Trên mặt Lưu Nhất Quý hằn dấu năm đầu ngón tay tím ngắt, rồi sưng tấy lên. Mấy tên trưởng tùy phủ Lý Thân vương thấy quản gia bị đánh, hè nhau một tiếng hô cùng xông lên, vây Châu Bồi Công lại đấm đá. Tiểu Tỏa đứng bên cạnh sợ điếng người, Châu Bồi Công vừa đối phó với số người đó, vừa nói to với Tiểu Tỏa: “Còn không chạy nhanh đi à?” Lưu Nhất Quý bưng mặt thét to: “Lão gia ở đây mấy chục người để nó chạy sao? Đánh!”

Một lúc sau, đám người chen nhau đông đặc tản ra. Hai mươi mấy tên gia nô ra sức xông vào đám người đấm đá túi bụi. Đám người bị kéo ngã nháo nhào một đống, kêu thét ầm trời. Lưng Châu Bồi Công bị mấy chưởng khá nặng mắt nảy đom đóm, loạng choạng ngã xuống đất. Mười mấy tên trưởng tùy nhào lên, kẻ một đấm, người một đá, bao nhiêu cú đòn đau giáng xuống.

“Dừng tay!” Một tiếng hô to như sấm, “Mẹ bay, tất cả dừng tay!” Tiếng hô dễ sợ, làm bọn ác nô đều dừng tay, quay đầu nhìn lại thì là một viên quan võ râu ria xồm xoàn, chen vào đám người đang tìm đường chạy trốn, một tay chống nạnh, một tay chỉ Lưu Nhất Quý hỏi: “Mẹ mày, vì sao bắt nạt người ta?” Một tên trưởng tùy thấy Lưu Nhất Quý nháy mắt, bất thình lình từ phía sau xông lên, đấm mạnh một nhát. Viên quan võ này hình như có mắt sau lưng, một tay bắt lấy, vặn lại một cái, “phì” nhổ một bãi nước bọt, nhẹ nhàng thả ra, tên trưởng tùy bật ra như cái lò xo, lộn hai vòng liền. Lưu Nhất Quý thấy thế không xong, huýt sáo một tiếng, bọn ác nô hoảng hốt kêu nhau chạy trốn.

Châu Bồi Công bò dậy, thấy viên quan võ cười ha hả thoải mái, bỗng mắt anh sáng lên, mừng rỡ gọi: “Đại ca! Đúng là anh!”

Viên quan võ sửng sốt, kinh ngạc nhìn Châu Bồi Công, bỗng nhận ra nhau, giang hai tay chồm tới, hai tay ôm Châu Bồi Công quay tròn một vòng: “Phải con mọt sách, chú Bồi đây à? Làm sao chú lại ở đây, đằng đẵng mười năm không gặp nhau!” Người đàn ông hào phóng này vừa nhảy vừa cười, nước mắt đầy mi chảy tràn ra.

Viên quan võ này là Cung Vinh Ngộ, anh con bà vú, tòng quân mười năm, ở Bình Long đã làm trưởng cửa thành. Hai anh em không hẹn mà tình cờ gặp nhau tại đây.

“Mẹ bây giờ thế nào? Sức khỏe còn khá chứ?” Nghe Châu Bồi Công thuật lại tình cảnh mấy năm rồi, anh chàng lực lưỡng bặm trợn nhíu đôi lông mày, thần sắc ủ rũ, nói: “Mẹ còn khỏe.” Châu Bồi Công và Cung Vinh Ngộ sánh vai lững thững bước, chàng nhỏ nhẹ trả lời: “Chỉ có già rồi, mắt cũng kém đi...” Nói tới đây, Châu Bồi Công dừng bước, trừng mắt tức giận hỏi: “Anh là quan to tứ phẩm rồi, vì sao không về thăm mẹ, là con hiếu như vậy sao?” Cung Vinh Ngộ cúi đầu thở ra nặng nề, hồi lâu mới nói: “Ban đầu ở Quảng Tây, rồi tới Vân Nam, rồi điều đi Thiểm Tây, không ở yên nơi nào!”

“Bây giờ anh về kinh làm gì?” Châu Bồi Công hỏi.

“Vương Đề đốc ở Thiểm Tây bị Tổng đốc Mạc Lạc và tướng quân Ngõa Nhĩ Cách ép chịu không nổi, về kinh muốn thỉnh chỉ điều về trong nội địa...”

“Vương Đề đốc?” Châu Bồi Công hỏi, “Có phải là người có biệt hiệu “diều ngựa “đó chăng?”

“Ừ, chính là diều ngựa Vương Phụ Thần.”

“Em nghe nói Mạc Lạc làm quan rất thanh liêm,” Châu Bồi Công ngẫm nghĩ rồi hỏi, “Làm sao không bao dung?” Chàng sờ sờ vào lưng, chỗ đó vẫn còn đau ê ẩm.

“Người cờ mà, mẹ cha nó, toàn một giuộc, người Hán xem như máu loãng.” Cung Vinh Ngộ buồn rầu đáp, vừa nói, vừa lấy chân hất một hòn đá đi rất xa, hồi lâu mới tiếp, “Diều ngựa chân dẫm lên hai chiếc thuyền, ăn của triều đình, xem chừng Ngô Tam Quế. Ta xem Ngô Tam Quế cũng không phải là thứ đường hoàng, ta cầm quân ở đó không dễ dàng gì!” – Chúng ta đang ở trong phủ Ngô Ứng Hùng, đại công tử của Ngô Tam Quế, đến chỗ chúng ta ở nhé?”

“Không, không, không.” Châu Bồi Công lắc đầu lia lịa cười nói, “anh là khách, đã không êm rồi, còn đeo thêm cả em, làm sao được? Tính em lười nhác, không thể làm bạn với đại công tử Ngô.”

Hai người nói chuyện cả một buổi rồi đến lầu Tụ Tiên ăn cơm, Cung Vinh Ngộ lấy một ngân phiếu năm mươi lượng bạc đưa cho Châu Bồi Công, rồi chia tay, dùng dằng không dứt, hẹn nhau trước khi Vương Phụ Thần về Thiểm Tây sẽ gặp nhau lần nữa.

Báo cáo nội dung xấu