Khang Hy Đại Đế - TẬP 2 - Chương 19

19

Cung Càn Thanh bàn việc triệt Tam phiên

Chùa Phố Bò thăm dân giải mối ngờ

Ngày thứ ba tết Đoan Ngọ, Ngụy Đông Đình và Minh Châu phụng chiếu vào kinh, mới tới cầu dưới Ngọ Môn đã thấy Mục Tử Húc từ phía trong đi ra, cười nói: “Mời hai vị nhanh lên, hôm nay Hoàng thượng đến sớm, còn chưa ăn sáng, hội nghị quần thần e đã bắt đầu rồi.” Hai người kinh ngạc: sự việc đến nỗi nào cấp bách như vậy?

Người đến hội triều lần này rất đông, trên hàng ghế thấp sát tường có Kiệt Thư, Át Tất Long, Sách Ngạch Đồ và Hùng Tứ Lý ngồi, còn có hai mươi mấy đại thần các bộ, viện ngồi trên những chiếc ghế gỗ, người nào cũng ngồi ngay ngắn, vạt áo thẳng phía trước, im lặng nhìn Khang Hy. Ngụy Đông Đình nhìn từng người một, ngoài mấy người khá quen biết, Chu Quốc Trị, Phạm Thừa Mô, và Thượng thư bộ Hộ Mễ Hàn Tư ra, những người khác chỉ gặp nhau gật đầu thôi. Minh Châu thì biết hết, chỉ không tiện nói chuyện, đứng một bên nhìn từng người đưa mắt ra hiệu chào nhau. Khang Hy hôm nay ăn mặc rất chỉnh tề, đội mũ lụa trắng quai tơ, mặc áo dài the màu tương, khoác chiếc áo lụa xanh Thạch thanh, dây lưng đuôi ngựa ba màu khóa vàng thắt chặt ngang lưng. Nhà vua đang đi qua đi lại trước ngự tọa trong cung Càn Thanh rộng lớn, đội ủng đen lót vóc xanh giẫm lên nền gạch xanh lên nước kêu lộp cộp. Quay đầu thấy Minh Châu và Ngụy Đông Đình vẫn đứng đấy, vua gật đầu nói “ngồi xuống” rồi không để ý nữa.

“Trừ Át Tất Long và Mễ Hàn Tư ra, mọi người đều không tán thành triệt phiên.” Khang Hy bỗng dừng bước, ánh mắt sáng quắc nhìn Hùng Tứ Lý hỏi, “Hùng Tứ Lý, khanh là lãnh tụ học đường ngày ngày giảng tam cương ngũ thường, khanh nói thử xem, nuôi đau dưỡng bệnh, về sau bệnh hiểm trở nặng, bình đao nổi lên khắp nơi, thì có cách nào để “vua cứng rắn vì bề tôi”?”

Hùng Tứ Lý nhổm người bất an, đáp rằng: “Thần không nói tam phiên không nên triệt, nhưng nên triệt là một việc, nhưng nước nhà bây giờ nguyên khí chưa khôi phục, đột nhiên xuống chiếu triệt phiên, nếu sinh điều bất trắc, lương hướng là một vấn đề gay go quá lớn, nguồn lính cũng không đủ, làm sao đối phó?”

“Vạn tuế.” Sách Ngạch Đồ tiếp lời Hùng Tứ Lý nói, “Tam phiên hiện nay tuy tự chia tách riêng, nhưng không thấy chứng cứ phản nghịch. Trước kia triều đình cùng Ngô Tam Quế giết ngựa ăn thề, để cho đời ông ta giữ Vân Nam, bây giờ vô cớ xuống chiếu triệt phiên, sợ gây nên sự đàm tiếu cho trong triều ngoài ải – Người mà không tín, không biết…” Bỗng ông cảm thấy lời nói chưa thích đáng, liền miễn cưỡng bỏ lửng câu nói.

“Hả?” Khang Hy không để ý lời nói cay nghiệt của Sách Ngạch Đồ, hỏi lại một cách nặng nề: “Vô cơ triệt phiên – khanh nghĩ thế à? Khanh nói thử xem Ngô Tam Quế mỗi năm mua riêng một vạn con ngựa ở Tây Tạng vẫn không đủ dùng, còn lén trưng thu ngựa ở Mông Cổ, để làm gì? Binh khí trong kho ông ta có thể trang bị cho bảy mươi vạn người, vì sao còn ngày đêm chế tạo? Quan lại của triều đình đều không cử đến phía nam được, không nói Giang Nam, ngay Trực Lệ, Sơn Đông, Hà Nam, An Huy có mấy người quan do bộ cử tới, có bao nhiêu quan Tây tuyển, vừa rồi Thượng thư bộ Lại đều không nói rõ ràng được, đâu đâu cũng là quan Tây tuyển! Những người này làm bậy làm bạ ở dưới, triều đình vô phương hạn chế: “Dưới gầm trời, đâu không là đất vua; trên mặt đất, đâu không là tôi vua” câu này chỉ là một câu vô nghĩa!” Nói tới đây, Khang Hy vô cùng xúc động, đi tới trước bàn rồng bưng chén trà lạnh ực ực một hơi uống cạn, rồi cười nhạt nói tiếp. “Không ngờ rằng chư vị thần tử uổng công hưởng bổng lộc triều đình lại không có kiến thức bằng một gái dân hát rong mới mười hai tuổi, quả thực làm Trẫm ớn lạnh trong lòng!”

Những lời này nói lên với giọng điệu nghiêm khắc, đại điện bỗng chốc tĩnh lặng như tờ. Sách Ngạch Đồ mồ hôi lấm tấm trên trán.

“Đức Vạn Tuế sáng suốt!” Minh Châu thấy Sách Ngạch Đồ bối rối, cười thầm trong bụng, anh ưỡn người nói to, “Hiện nay lo trong Ngao Bái đã trừ, thần tử trong ngoài không ai không ngước mong Hoàng thượng lại tỏ rõ oai trời, dốc hết sức lực tiến công, bá tánh thiên hạ chán ghét cát cứ, mong ngóng triệt tam phiên như đại hạn trông mưa, bây giờ không triệt, thì đợi đến bao giờ? Lòng trời lòng dân đã hướng về, thần cho rằng Ngô Tam Quế không dám chống lại.”

“Chưa chắc!” Hùng Tứ Lý lạnh lùng nói. Câu này của Minh Châu cùng một giuộc với lời Mễ Hàn Tư nói lúc bắt đầu bàn bạc, Hùng Tứ Lý rất ghét loại nghị luận phù phiếm không có cơ sở đó, liền cao giọng nói tiếp, “Minh Châu lấy lòng theo đương kim, chính là hành động tiểu nhân! Hiện nay thiên hạ hàng trăm hư phế đang đợi chấn hưng, nguyên khí còn chưa khôi phục! Từ xưa một người nổi loạn vạn dân chịu nạn, xã tắc tai ương, những chuyện như vậy sử ghi không hết, lẽ nào chúng ta có thể không nghĩ gì đến an nguy của vua, mà chỉ chú ý riêng một mặt?”

“Minh Châu nói không phải là không có lý, không thể nói là lấy lòng.” Át Tất Long chớp chớp mắt, đằng hắng một tiếng, nói, “Triệt phiên quả là lòng dân mong ước, phiên này mà không triệt đi, thì dân không được yên, nước không được ổn!” Ông bỗng nhớ lại tên Tri phủ chậm trễ công trình đắp đê ở Cố An lúc ông đi vận chuyển lương thực hồi trước, nghĩ lại không phải là lúc nói chuyện này, liền thụt lại.

“Thần cho rằng Hùng Tứ Lý nói đúng, vẫn cứ phải lấy đức thuyết phục người,” bỗng có người cao giọng nói, Minh Châu nhìn lại thì là Ngụy Tượng Khu ở ty Đại Lý, hắn nói, “Ngô Tam Quế thời Minh trước chẳng qua chỉ là một tổng trấn, đến lúc nguy cấp mới được phong bá tước, triều ta đối với ông ơn sâu như biển, há không nghĩ đến việc đáp đền sao?” Minh Châu đang định phản bác, Ngụy Đông Đình bên cạnh đã lên tiếng: “Ngụy Tượng Khu, không nên lấy tấm lòng quân tử để đo bụng tiểu nhân, ông có bảo đảm là Ngô Tam Quế sẽ không phản?”

“Muốn triệt cũng phải có kế sách vẹn toàn!” Hùng Tứ Lý rướn cổ, mặt đỏ bừng vặn lại một câu, “Kinh Dịch có nói vua không chặt thì mất nước, tôi không chặt thì mất thân! Vạn nhất việc xảy ra ngoài dự liệu, thì đưa miếu đường xã tắc tới đâu? Trước mắt lương thực chỉ đủ dùng cho hai năm, tiền tồn kho cũng không đủ...”

“Hùng đại nhân!” Mễ Hàn Tư không đợi Hùng Tứ Lý nói hết, vội cướp lời chặn ngang, “Bộ Hộ tôi có tiền mua lương thực có thể chi dùng trong năm năm! Hơn nữa Hoàng thượng không nói hôm nay triệt phiên, mà phải lập tức bắt tay chuẩn bị triệt phiên, nếu còn thời gian hai năm, ta còn có thể tích thêm một năm quân lương!”

Lời này đã nói, các quan trong điện bỗng xì xào bàn tán. Khang Hy cũng ngạc nhiên, quay mặt hỏi Mễ Hàn Tư: “Năm ngoái động đất sửa điện, chẳng phải ông nói không có tiền sao?”

“Bẩm Hoàng thượng!” Mễ Hàn Tư đứng dậy vái chào rồi ngồi xuống, cười to nói, “Lúc Vạn tuế sửa điện, thần còn chưa có tiền!” Sách Ngạch Đồ cũng đứng lên nói: “Xin Vạn tuế trị Mễ Hàn Tư tội khi quân!”

Chu Quốc Trị và Phạm Thừa Mô đều là quan bên ngoài về báo cáo tình hình, lần đầu tiên tham gia hội nghị trước vua như thế này, thấy các đại thần cãi nhau đỏ mặt tía tai, lời lẽ chua ngoa, hoảng kinh, mồ hôi ướt đẫm sau lưng. Đối với thái độ kiên cường của Mễ Hàn Tư đang lo Khang Hy nổi trận lôi đình, không ngờ Khang Hy đột nhiên lớn tiếng cười: “Nước nhà có hạng quan tốt như vậy thì Trẫm còn lo ngại nỗi gì? Trương Vạn Cường bảo phủ Nội Vụ ghi sổ, thưởng Mễ Hàn Tư được mặc áo khoác vàng, ban lông trĩ hoa hai mắt!”

Áo khoác vàng thì không lạ, nhưng lông trĩ hai mắt đầu nhà Thanh là một vinh dự đặc biệt khó có. Tướng Ô Lý Nhã Tô Đài có công được phong tước hầu, tình nguyện không cần tước vị chỉ xin được ban lông trĩ hoa hai mắt theo quy cách lễ nghi của bộ, của triều đình, rốt cuộc vẫn không có được. Còn bây giờ Mã Hàn Tư không có chút công lao nào, chỉ tích góp được mấy năm lương cho quân lính lại được coi trọng như vậy, các đại thần đều rất ước ao hâm mộ. Mễ Hàn Tư xúc động, đỏ mặt quỳ mọp xuống đất lạy thưa: “Ơn đức của Vạn tuế, thần nhận mà xấu hổ, khổ là trong hai năm không kiếm thêm được một năm lương cho quân đội, thần xin nộp trả lại ban thưởng của Vạn tuế!”

“Vừa rồi Hùng Tứ Lý nói “việc ngoài dự liệu” Trẫm cũng đã rõ. Hùng Tứ Lý, khanh chưa đọc Mạnh Tử? Xã tắc là nặng, vua thì nhẹ! Trẫm quyết định triệt phiên là vì thiên hạ xã tắc, sống chết không nghĩ đến. Duy quyền lớn thiên hạ một người nắm không thể để rơi mất. Phiên là phải triệt, ý Trẫm đã quyết.” Khang Hy nói dõng dạc, rồi ngồi trang trọng trên ghế rồng, nói tiếp theo ý đồ “Phương lược triệt phiên” đã được sửa đổi từ trước. “Các vị đại thần từ nay mọi suy nghĩ, hành động đều phải dựa theo tôn chỉ này. Hồi trước loạn bảy nước Tây Hán cũng đã có tranh luận giống như hôm nay. Các vị có ý kiến khác nhau trước những việc lớn xã tắc, việc vua, việc nước, dù đúng hay không đúng, Trẫm đều không bắt tội. Lời của Sách Ngạch Đồ, Hùng Tứ Lý cũng có chỗ đáng suy nghĩ: Trước khi triệt phiên phải chuẩn bị thật chu đáo, làm việc không được tắc trách, lỗ mãng. Nước nhà chưa có sức dẹp phản thì không tùy tiện triệt phiên.”

“Vạn tuế!” Hùng Tứ Lý nghe Khang Hy nói, trong lòng rất xúc động, đứng dậy, quỳ mọp gục đầu nói, “Ngày hôm kia, Ngô Tam Quế có tấu xin từ chức tổng quản hai tỉnh Vân Quý. Hoàng thượng sao không chuẩn tấu cho y, trước hãy thử làm xem.”

“Ừm, được!” Khang Hy rất hài lòng phong cách đó của Hùng Tứ Lý, tuy không tán thành nhưng có thể hiệp sức làm việc, vua mỉm cười gật đầu nói. “Trẫm chuẩn theo ý khanh, có thể ban chiếu ngay hôm nay.” Rồi nói to với các quan viên đang quỳ đợi nghe bãi triều, “Cứ theo quyết định hôm nay, Chu Quốc Trị đi Vân Nam nhậm chức Tuần vũ, Phạm Thừa Mô điều nhiệm Tuần vũ Phúc Kiến, bãi triều về đi ngay trong ngày. Những việc khác, các bộ, nha tự lập điều trần tâu lên chương trình cần làm, các vị bãi chầu!”

Người lui ra hết, trong điện trống không, tia nắng xuyên qua khe cửa rọi thẳng vào trong điện, Khang Hy bỗng cảm thấy vắng lặng, sực nhớ ra buổi sáng ăn điểm tâm ở chỗ Hoàng hậu, đến tận bây giờ chưa ăn uống gì. Nhà vua cảm thấy buồn cười, đứng vươn vai khoan khoái dưới ánh mặt trời ấm áp, nhìn ra xa thấy chủ sự bộ Hộ Hà Quế Trụ hai tay ôm một xấp giấy tờ đưa sang phòng văn thư, liền cười gọi: “Hà Quế Trụ, lại đây!”

“Ôi!” Hà Quế Trụ cắm cúi đi không ngờ có người gọi mình, ngước đầu thấy Khang Hy, vội cười bước tới, “Bẩm Đức ông gọi nô tài, bây giờ nô tài càng ngày càng không được việc rồi!” Anh vội đặt giấy tờ lên bàn, quay lại vái chào, rồi gục đầu, “Nô tài e nửa năm rồi không vấn an ông chủ! Mừng thấy ông chủ khỏe mạnh, cường tráng, chỉ quầng mắt hơi hõm sâu đấy, dù việc bận thế nào cũng phải chú ý mới được.”

Khang Hy quan sát lại ông chủ quán Duyệt Bằng – đầu tóc tuy đã hoa râm, nhưng béo đẫy ra nhiều so với trước, mặt mày rạng rỡ, mặc bộ sắc phục lục phẩm một màu, rất có khí thế – vừa nghe anh ta huyên thuyên, vừa cười nói: “Bây giờ làm quan rồi, ngón nghề trước có còn nhớ không? Chín năm trước, tới quán Duyệt Bằng, ngươi đang làm rượu tiễn cậu hai của ngươi vào trường thi, Trẫm đã thưởng thức món cá hấp của ngươi, giờ có còn làm được không?” Hà Quế Trụ nghe sửng sốt, vội cười nói: “Đức Vạn tuế trí nhớ tuyệt quá, nô tài xin bái phục! Nô tài làm món ăn cả đời, làm sao bỏ được? Đức Vạn tuế còn nhớ thì nô tài xin làm một mâm!” Khang Hy nghe nói, quay mặt cười nói với Mục Tử Húc đứng hầu trước ghế ngự: “Các ngươi đứng từ sáng sớm đến bây giờ cũng mệt rồi, lại đây thư giãn một chút, sai người bảo Đồ Hải trình thẻ bài vào đây, Trẫm có việc sai bảo.” Lại cười nói với Hà Quế Trụ: “Hôm nay thưởng cho thị vệ cung Càn Thanh cùng đến ăn cơm, ngươi vào bếp chỉ huy, giở ngón nghề ra, đừng cho bọn nhà bếp hâm lại thức ăn đối phó, làm xong công việc ngươi cũng tới đây!”

Hà Quế Trụ cười vâng dạ, lắc lư bước đi. Khang Hy nằm dựa trên sạp ngự nhắm mắt di dưỡng tinh thần, Minh Châu và Mục Tử Húc, Lang Thẩm, Lừa bướng còn Tố Luân cùng mấy thị vệ mới múa may tay chân bên cạnh chiếc vạc đồng lớn dưới thềm, nói chuyện rôm rả, chỉ nêng Ngụy Đông Đình không nhập bọn, vẫn đứng thẳng băng bảo vệ một bên điện.

“Nô tài Đồ Hải phụng chỉ yết yến!” Khang Hy đang thiu thiu ngủ, chợt nghe ngoài điện có người nói to, mở mắt ra thấy Đồ Hải, đội mũ chóp đuôi lông trĩ san hô nhiều màu, mặc áo dài thêu chín xà năm vuốt chạy chỉ kim tuyến sải bước đi vào, vung tay áo móng ngựa quỳ xuống, “Nô tài xin chúc thánh an!” Khang Hy vội ngồi dậy nói: “Đứng lên. Vốn định đợi tới ăn cơm, không ngờ ngủ thiếp đi.” Đồ Hải đang muốn hỏi triệu gặp có việc gì, thì Hà Quế Trụ đã xông vào, chào rồi cười nói: “Cơm đã làm xong rồi, bày ở nhà xếp chái đông điện, các thị vệ hầu bên ngoài điện đợi Đức Vạn tuế!”

“Hoàng thượng vẫn chưa dùng cơm,” Đồ Hải vội lui đứng ra một bên nói: “Nô tài xin đợi ở đây được rồi.”

“Trẫm còn có chỗ chưa yên tâm.” Khang Hy trầm ngâm nói, “Khanh đã xếp đặt xong chưa? Châu Bồi Công nói thế nào?” Đồ Hải khom người đáp: “Châu Bồi Công ngày hôm kia xin nghỉ, nói đi tới hẻm Lạn Diện có tí việc, chưa bàn bạc với anh ta được. Kinh kỳ mười hai nơi chùa viện thanh chân, tổng cộng sai phái hơn năm nghìn bốn trăm người, trước tiên đánh vào chùa Thanh Chân Phố Bò, nổi lửa thiêu cháy, mười một nơi khác thấy tín hiệu lửa nhất tề ra tay, đêm nay quét sạch đám dân Hồi tạo phản!”

Hà Quế Trụ vốn không mấy chú ý, nghe hai người nói nghiêm trọng như vậy, thấy Đồ Hải mặt đầy sát khí, sợ quá tim đập thình thịch.

“Rất tốt.” Khang Hy nói bình thản, “Chỉ vì lòng Trẫm cứ thấp thỏm không yên. Nói là dân Hồi làm phản, chỉ là nghe những lời đồn đại, chứng cứ chưa đủ! Bọn họ tối tụ sáng tản đã mười mấy ngày, lẽ nào không sợ triều đình nghe biết sao?”

“Bẩm Vạn tuế!” Đồ Hải tầm vóc không khôi ngô lắm, nói lên giọng vang như chuông đồng, “Triều đình nhiều lần ban thánh chỉ, dân gian không được tụ hội bàn việc, dân Hồi phải biết. Căn cứ vào điều này bắt giết họ cũng không quá đáng. Huống chi họ đêm nào cũng làm như vậy” Lời chưa dứt, Hà Quế Trụ bỗng la hoảng lên: “Trời ơi, Ông chủ và Đồ đại nhân nói cái gì vậy – Dân Hồi họ làm lễ!” Mặt anh ta sợ trắng bệch ra.

“Tránh ra!” Khang Hy bất thình lình giật nẩy mình, thấy một viên quan bậc sáu thất lễ dám xen vào việc quốc gia đại sự, bỗng nhiên biến sắc, “Đây là chỗ ngươi nói sao?” Ngụy Đông Đình tại cửa điện thấy Khang Hy nổi giận vội bước vào kéo Hà Quế Trụ ra ngoài.

“Trở lại!” Khang Hy bỗng suy nghĩ, phất tay nghiêm giọng ra lệnh. Hà Quế Trụ mấy năm trước ngày nào cũng gặp Khang Hy, nhưng chưa từng thấy Khang Hy cáu giận đáng sợ như vậy, ông sợ đến nổi gai ốc, lẩy bẩy quay lại quỳ xuống, mặt khóc mếu: “Nô... nô tài đáng... đáng chết!” Khang Hy thấy ông sợ cũng đáng thương, đợi ông hoàn hồn mới nói chậm rãi: “Lần này nổi cáu với ngươi – ngươi làm sao biết được là họ làm lễ?”

“Mẹ của nô tài là đạo Hồi.” Hồn phách Hà Quế Trụ bây giờ mới trở lại, nói năng có vẻ rành mạch hơn, “Hồi nhỏ nô tài thường theo mẹ đến chùa Thanh Chân. Đức ông vừa mới nói “tối tụ sáng tản”, đó là phép tắc trong đạo của họ, liên tiếp mười ngày, đó nhất định là tháng ăn chay!”

“Tháng ăn chay là thế nào?” Khang Hy và Sách Ngạch Đồ đều ngơ ngác nhìn nhau, Khang Hy lại nói: “Ngươi đừng cứ dập đầu như vậy.”

Hà Quế Trụ ngước đầu lên, trán đã u lên một cục, gượng cười nói: “Những phép tắc trong đó nhiều lắm không nhớ hết. Nói trắng ra gần giống như chúng ta ăn Tết.”

Số là tháng mười hai lịch Hồi gọi là tháng ăn chay, rất dễ làm cho người ngoài nghi ngờ. Hễ vào tháng ăn chay, dân Hồi thấy sao sáng làm chuẩn, ban ngày cấm ăn uống, cho mãi đến tối không còn mặt trời mới ăn cơm, đi lễ. Người Hồi chỉ thành kính Môhamet, không giống như người Hán thấy thần nào cũng lạy, có việc gì cầu thần đó thì không được đi chùa Thanh Chân, mỗi ngày ở nhà cũng làm lễ tối “Hôptan” lạy Mô-ha-met mười lạy. Đến tháng ăn chay, tối nào cũng đến chùa Thanh Chân nghe giảng kinh đạo, làm lễ “vái trời”, “Talavi han”, từ mười lạy bỗng chốc tăng lên hai mươi tư lạy, mãi đến khuya mới về nhà ăn cơm. Người ngoài không hiểu lý lẽ, thấy họ hành động như mờ mờ ám ám như vậy ai mà không nghi? Hà Quế Trụ vừa nói vừa ra dấu, một hồi rất lâu mới nói được, đại khái là: “...Bây giờ Đức Vạn tuế định bắt những người này, thì chẳng là oan uổng quá sao? Đến đêm hai mươi tám tháng chạp lịch Hồi là ngày Mô-ha-met lên trời, ngoài hai mươi tư lạy còn thêm một trăm lạy, người sức khỏe không tốt có khi lạy chết nữa!” Ông nói một tràng dài không thứ tự mạch lạc gì, lấy tay lau bọt mép, mắt mở to nhìn Khang Hy đang giương to mắt há hốc mồm.

“Xin Đức Vạn tuế định đoạt!” Đồ Hải cũng hơi hoảng, binh mã đã sớm xuất phát rồi, chỉ cần nổi lửa là đồng loạt ra tay, giờ này muốn thay đổi thì phải thông báo cho từng nơi một. Nếu không, có nơi nào vô ý để lửa cháy thì hàng ngàn người phải rơi đầu!

“Cứ cho ngươi Hà Quế Trụ nói là đúng.” Khang Hy cảm thấy sự việc quá trọng đại, vỗ đầu hỏi tiếp, “Trẫm ở Bắc Kinh bao nhiêu năm sao chưa hề nghe nói chuyện này? Tháng ăn chay cũng được, sao mãi đến năm Khang Hy thứ mười mới nghe nói, điều này thật lạ kỳ!”

Quả thật là như vậy, Hà Quế Trụ giương mắt suy nghĩ hồi lâu cũng không hiểu nổi, đành dập đầu nói: “Lời của nô tài câu nào cũng là sự thực. Chỉ không biết tại sao mấy năm nay không làm lễ tháng ăn chay, mà chỉ năm nay làm lễ, nô tài cũng không biết.”

“Trẫm đói bụng rồi,” Khang Hy rút đồng hồ túi ra xem, đã là giờ Thân, bèn đứng lên nói với Đồ Hải: “Nửa đường lại gặp một Trình Giảo Kim! Bảo Tiểu Ngụy sai người truyền chỉ: Các đạo binh mã vây càn chùa Thanh Chân nhất loạt đợi lệnh mới hành động, việc nổi lửa làm hiệu vốn đã định, nay hủy bỏ! Ăn tối xong, Trẫm đi xem lễ chùa Thanh Chân phố Bò. Đồ Hải cũng đi theo.”

Vì có việc, bữa ăn vốn chuẩn bị với bao hào hứng đã phải vội vội vàng vàng cho xong. Đồ Hải và Ngụy Đông Đình tìm mọi cách can ngăn Khang Hy không đi phố Bò, Khang Hy chỉ cười. Cuối cùng đứng lên còn vỗ vai Hà Quế Trụ nói: “Nếu như ngươi nói đúng, thì công đức của ngươi hôm nay không sao kể xiết!” Nói xong, truyền thay quần áo, mặc một bộ áo dài lụa xám, đầu đội chiếc mũ chiên đen, cởi chiếc hầu bao xanh ngang lưng, thuận tay ném cho Hà Quế Trụ nói: “Thưởng cho ngươi!” Rồi quay mặt nói với Đồ Hải, “Bảo Ngụy Đông Đình sửa soạn một chút, mặc đồ rực rỡ huy hoàng đi chùa Thanh Chân, ngày mai sẽ có tin đồn khắp thành Bắc Kinh.”

Một đêm đầu mùa hạ, gió nam ấm áp, hương hoa say lòng người, trên phố Bò ồn ào huyên náo, tiếng rao bán bánh bao, vằn thắn, vịt nướng, gà nướng, bánh nướng, canh thịt bò... như đua nhau lúc trầm lúc bổng, xen lẫn tiếng trẻ con cười đùa ném pháo, rượt đuổi nhau, chơi trò trốn tìm, hiện lên một cảnh tượng thái bình, không ai ý thức được trong đó có gì nguy hiểm. Nhưng với Đồ Hải và Ngụy Đông Đình, hai người trong lòng cứ nghi ngờ, tuy phía sau có đám Mục Tử Húc mười mấy người thị vệ hóa trang dân thường đi sát theo sau, ai tưởng tượng được mấy ngàn dân Hồi bạo động nổi dậy thì sẽ như thế nào, lại làm sao bảo đảm vị Hoàng đế trẻ tuổi cố chấp có thể an toàn thoát thân? Ngụy Đông Đình chịu toàn bộ trách nhiệm về việc bảo vệ Khang Hy thì càng nghĩ càng sợ. Một cơn gió nhẹ thổi qua, Khang Hy kêu to: “Gió tốt!” Nhưng Ngụy Đông Đình thì nổi da gà.

“Lão bá, tới chùa làm lễ chứ?” Đồ Hải và Ngụy Đông Đình chìm trong nỗi niềm tâm sự, bỗng nghe Khang Hy hỏi. Ngước đầu nhìn thấy một cụ già quắc thước, đầu tóc bạc trắng, đầu đội mũ vải trắng như người Hồi giáo thường đội, chỉ mặc một chiếc áo trắng một nửa, tay chắp sau lưng lắc lư đi tới, Khang Hy đã hỏi chuyện ông già.

“Đúng!” Ông già cười gật đầu, “Bọn con nít sốt ruột không đợi được, trời mới nhờ nhờ đi ra đường rồi. Ta có tuổi rồi, không bằng bọn chúng.”

“Nhà cụ có mấy người?”

“Ta?” Cụ già cười khà khà, giơ ngón tay ra đếm rồi gập lại hai lần, mười lăm đứa! Đều đi hết rồi, đi sớm thì sớm được yên ổn, chỉ lo ở nhà chút hàng dầu – Còn chú, chàng quân tử nhỏ này, vật lễ đã sắm đủ rồi chứ?”

“Cũng tạm...” Khang Hy hơi do dự, rồi trả lời một cách mơ hồ.

“Thật không dễ chút nào!” Ông già ngước đầu nhìn cái cổng ở chùa Thanh Chân càng ngày càng gần, than rằng, “Năm nay coi như có ngày lễ... Tính từ lúc Đức ông Thuận Trị ngồi ở Bắc Kinh đã sắp ba mươi năm rồi, mấy năm đầu tiên binh đao loạn lạc, mấy năm sau mùa màng không tốt, lại thêm Ngao trung đường dốc lòng khoanh đất, quả là con người không tốt, không một ngày được yên ổn! Nhưng cũng xem như nắm được đầu mối – lại dày vò mấy năm nữa đây, người trẻ tuổi như anh thì không biết được lễ chay như thế nào! Cũng còn nhờ phước đức thánh Ala và Đức ông Khang Hy!”

Té ra là như vậy! Khang Hy bỗng ngớ ra. Ngụy Đông Đình và Đồ Hải cũng sáng ra, hơi có vẻ xấu hổ, liếc nhìn nhau, đang định khuyên Khang Hy không cần vào chùa Thanh Tự, không dè Khang Hy quay mạnh người lại, nắm vai Ngụy Đông Đình, nói nhỏ: “Hổ Thần, khanh nhìn xem ai tới bên kia!” Giọng nói hoảng hốt hơi run run!

Ngụy Đông Đình nhìn theo hướng mắt Khang Hy, cũng thất kinh – phía trước sáu bảy người vừa đi vừa nói chuyện, ở ngay chính giữa là Dương Khởi Long đã cùng Lý Quang Địa, Trần Mộng Lôi đoán câu đố trong cái quán huyện Cố An. Ông ra câu đố là: “Di Địch mà có vua, không như Hoa Hạ không có.” Do vậy, Khang Hy có ấn tượng đặc biệt sâu đối với Dương Khởi Long, lúc đó thần sắc âm dương quái khí của ông đến nay vẫn còn nhớ như in. Dương Khởi Long ăn mặc rất rực rỡ, đang cùng đám người đó đi ra phố Bò.

Báo cáo nội dung xấu