Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 17

17

Tiểu Phật đường nho sinh nói chuyện nhân duyên

Điện Dưỡng Tâm Thiên tử vỗ về tướng võ

Cao Sĩ Kỳ, Võ Đơn mỗi người cưỡi một con ngựa khỏe bờm đỏ, băng qua cửa Tây Hoa vào đại nội, đến cửa Long Tông thì xuống ngựa, men theo hẻm Vĩnh Hạng thẳng bước tới am Phật nhỏ trong cung Chung Túy. Bước vào điện Phật, Cao Sĩ Kỳ không cảm thấy gì nhưng Võ Đơn đã ngây người ra: Năm Khang Hy thứ 8 Võ Đơn hộ vệ Khang Hy học ở ngoài cung, hầu như ngày nào cũng gặp Tô Ma Lạt Cô. Lúc đó sao mà bà xinh đẹp ngời ngời như vậy, bà lanh lợi mau mắn, thông minh sắc sảo làm vậy! Từ cái đêm kinh hồn 23 tháng chạp năm Khang Hy thứ 12 gặp bà ở điện Dưỡng Tâm đến nay đã sáu năm, có ai ngờ nàng Tô Ma Lạt Cô mới vừa tròn 34 tuổi đầu tóc đã bạc trắng! Võ Đơn không hiểu thế nào là “yểu điệu vân hạnh, hồng nhan khô héo”, một Tô Ma Lạt Cô trước kia phong tư trang nhã uyển chuyển khéo léo bỗng chốc đã bị dày vò đến mức này, làm cho một con người lòng gang dạ thép, giết người không gớm tay như anh phải rùng mình, anh bỗng quỳ xuống ôm đầu mà khóc.

Tô Ma Lạt Cô nửa nằm nửa ngồi trên chiếc sạp kê ở góc tịnh xá, lời vấn an của Cao Sĩ Kỳ và tiếng khóc nấc của Võ Đơn bà đều nghe rõ, nhưng không còn bụng dạ mà nghĩ, không đủ sức mà nói. Bà không vui mừng cũng không đau buồn, ngay cả ký ức về những chuyện xưa cũng không có. Bà chỉ đưa mắt nhìn khoảng không ngoài song cửa, nghe tiếng chim nhạn hồng kêu đau thương.

“Đại sư Huệ Chân”. Cao Sĩ Kỳ tiến tới trước, khe khẽ gọi pháp danh của bà, quan sát bà, bỗng nghe tiếng chuông kéo dài từ phía trước chùa Phật vang vọng. Cao Sĩ Kỳ không có sự xúc động như Võ Đơn, anh chỉ cảm thấy sự biến đổi con người từ trong nỗi sung sướng gấm hoa muôn hồng ngàn tía đột nhiên rơi vào hoàn cảnh vắng lặng nặng nề, lòng anh cũng thấy đau buồn. Thấy Tô Ma Lạt Cô đưa mắt nhìn mình, anh vội cười nói: “Hoàng thượng biết học trò hơi tinh thông về thuốc, nên sai học trò đến đây xem mạch...”.

Tô Ma Lạt Cô biết nhiều hiểu rộng, trước nay chưa nghe thầy thuốc nào dám tự xưng mình hơi tinh thông về thuốc, mắt bà sáng lên, nhìn thẳng Cao Sĩ Kỳ nói một cách yếu ớt: “Xem mạch thì cứ xem... tiếng trống tiếng chuông cũng có thể làm tỉnh người... Bây giờ đại hạn sắp tới, Phật tổ đã triệu ta đi rồi! Mọi sự phồn hoa trên cõi đời đều như khói mây trước mắt... Ta phải... đi rồi...”.

Nghe tiếng bà nói rõ ràng, Cao Sĩ Kỳ yên lặng ngồi trên chiếc ghế dựa nhắm mắt bắt mạch, chừng nửa bữa cơm, anh bỗng mở mắt cười nói: “Đại sư, bà biết tôi là ai chăng?”

Tô Ma Lạt Cô nhìn kỹ Cao Sĩ Kỳ rồi lắc đầu. Võ Đơn thấy anh ta “khám bệnh” như vậy cũng ngạc nhiên: Thầy lang xem mạch, khai đơn cho thuốc là được còn hỏi người ta biết mình “là ai” để làm gì?

“Tôi họ Cao tên Sĩ Kỳ, tự Đàm Nhân, hiệu là Giang Thôn”. Cao Sĩ Kỳ thả bàn tay bắt mạch ra, “Tôi tuy không phải Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh, nhưng có thể chữa khỏi bệnh cho bà”.

Nghe anh ta khoác lác như vậy, Tô Ma Lạt Cô chỉ hơi mỉm cười.

“Trước hết tôi xin nói triệu chứng bệnh, nếu không trúng, không chính xác thì Cao Sĩ Kỳ này lập tức đi ra ngay, vĩnh viễn không nhắc đến nghề thuốc”. Cao Sĩ Kỳ cao ngạo ngước mặt lên, nói một cách lạnh lùng, “Mạch của đại sư, ngưng trệ mà chìm, gây ăn uống không được, thấy thức ăn là chán; gan nóng lại viêm, váng đầu như ngồi trên thuyền; đêm không ngủ được mà không suy nghĩ gì, yên lặng nhìn trăng mọc sao rơi; thốn trơn mà nhiều, làm tổn nguyên khí giữa, chân tay bải hoải không thể tự chủ, đứng ngồi đều mệt mỏi rã rời, nằm thì yên tâm, có đúng vậy không?”

Những triệu chứng bệnh này trước kia thầy thuốc cũng đã nói rồi, không có gì lạ, nhưng chưa có ai quả quyết bà “không ngủ được mà không suy nghĩ gì, yên lặng nhìn trăng mọc sao rơi”, Tô Ma Lạt Cô bất giác nhắm mắt lại.

“Đại sư vốn không có bệnh”. Cao Sĩ Kỳ vén vạt áo đứng lên, có vẻ đắc chí chắp tay sau lưng đi qua đi lại, chiếc đuôi sam đen lánh quật qua quật lại trông dáng thật là phong độ. Võ Đơn nháy mắt, nhìn một cách kỳ lạ nhà quý tộc mới này, thì đã nghe Cao Sĩ Kỳ lẩm bẩm: “Đại sư là người bên ngoài, tinh thông luật lệ bên trong, tất biết không suy nghĩ, không ham muốn, không đòi hỏi, đó là đạt đến mức độ của Bồ tát vô thượng tu hành của cửa Phật, vốn là công phu mười năm nay đại sư đạt được. Nói trắng ra, vốn là một tiến bộ có ích, như cử nhân trúng tuyển tiến sĩ, có thể coi là bệnh sao? Xin tha lỗi cho Cao mỗ tôi nói thẳng, đại sư chưa khám phá ra tam giới, nhưng do vậy mà mắc chứng bệnh ‘thấy công hiệu thì tự nghi ngờ’, rất đáng làm cho người ta than phiền!”

“Ông nói là tôi tự nghi ngờ vì cái gì?” Tô Ma Lạt Cô không nín được liền mở miệng hỏi. Võ Đơn ngạc nhiên trố mắt nhìn, cảm thấy tinh thần bà khá hơn vừa rồi nhiều.

Cao Sĩ Kỳ cười sảng khoái, nói: “Tôi vốn suy đoán ra từ y lý Phật đạo. Đại sư quy y tịnh tu vốn đã nhập vào thế giới hư không mơ tưởng, nhưng lại cho là bản chất mình đã quá yếu đuối, tuổi thọ chẳng còn lâu. Sợ đêm dài đường lạnh, sợ đường dài tít tắp, do vậy tâm hỏa, mệnh môn suy kiệt! Đại sư, tôi quả quyết trước kia bà có khạc ra máu vào lúc nửa đêm, bây giờ không còn chứng đó nữa, có phải vậy không? Đấy bà cười rồi. Tôi chưa hề hại người, chẳng qua là thơm lây cái vinh dự nhờ bà thường ăn hoàng liên đó thôi!”

Tô Ma Lạt Cô rất kinh ngạc, bà cựa người rồi miễn cưỡng chống tay ngồi dậy. Võ Đơn nhìn thấy gương mặt bà có sắc máu, nên càng trợn mắt ngơ ngác: dù là trò ảo thuật cũng không thể nào nhanh chóng như vậy!

“Vị thuốc hoàng liên bình thường nhất trên đời nhưng cũng là vị thuốc tốt nhất”. Cao Sĩ Kỳ nói nghiêm túc, “Đáng tiếc là đại sư không am hiểu cách dùng thuốc. Nếu như phối hợp với củ cải, rau cần, ăn hàng ngày, cho dù không dùng dầu thì bà đại sư không đến nỗi như thế này!” Cao Sĩ Kỳ tỉnh bơ nói cho Tô Ma Lạt Cô các món thuốc ăn bổ dưỡng, “nếu ăn cùng với ngũ cốc, hạt kê, chỉ trong vòng nửa năm bảo đảm bà trở lại sức khỏe ban đầu!” Võ Đơn nghe say sưa, anh kéo cái ghế ngồi xuống, thì thấy Tô Ma Lạt Cô cười, lắc đầu nói: “Chỉ sợ chưa chắc đúng!”

Cao Sĩ Kỳ không đáp lời, anh quay người đến trước cửa sổ, vén tất cả rèm cửa sổ lụa xanh lên. Cái ngột ngạt tối tăm trong phòng lập tức biến mất. Cao Sĩ Kỳ quay đầu lại cười nói: “Đại sư, bà xem ngoài cửa sổ trời thu trong mát, trời xanh biếc, đất hoa vàng, núi nhuộm màu phong đỏ, nước gợn sóng lăn tăn, lúc này mà đi bộ lên núi, ngồi thuyền độc mộc xuôi dòng thì vui thú biết bao! Do đại sư chân không bước ra khỏi nhà, ngồi trong vắng lặng, giữ ngọn đèn xanh, bạn cùng Phật tổ, tụng văn kinh, đọc nội điển, tà ma nhập vào gây ra chứng bệnh này, thật đáng tiếc thay!”

Tô Ma Lạt Cô chú ý lắng nghe Cao Sĩ Kỳ, nghĩ tới cảnh vật bên ngoài, bỗng thấy say mê, ngơ ngác hồi lâu, rồi mới thở ra một hơi thật dài, mắt sáng lên, bà gật gật đầu một cách khỏe khoắn, trông rất có tinh thần.

Cao Sĩ Kỳ thấy phương pháp trị bệnh bằng tâm tưởng này có hiệu quả, biết bà số trời cực cao, sợ nói nhiều có thất thố, bèn đi tới trước bàn cầm lấy bút cười nói: “Bệnh của đại sư không cần dùng thuốc, tôi có phương thuốc viết ra tay, nếu đại sư chịu sử dụng, thì trong vòng 10 năm, tóc đen sẽ mọc trở lại!” Vừa nói vừa viết nhanh. Võ Đơn xích gần tới xem, thì là một bài thơ, vội đưa lại cho Tô Ma Lạt Cô, nội dung là:

Dưỡng sinh giữ quý có trời xanh

Không nghĩ không lo là Phật tiên

Khuyên người hãy học phép Lục tổ

Ăn rau thường thêm muối hai phần!

Thuốc dẫn: đi bộ ra ngoài cung.

Tô Ma Lạt Cô không nhịn được nữa, bà bật cười, nói: “Không biết Phật tổ ăn muối nằm ở điển cố nào?”

“Việc này không cần tra sách vở”. Cao Sĩ Kỳ cười hì hì nói, “Tháng trước theo Lão Phật gia đi dâng hương chùa Đại Giác, vì hơi đói nên có ăn vụng một cái bánh thờ Phật, quả là mặn!” Lời chưa nói xong, Võ Đơn đã ôm bụng cười to, Tô Ma Lạt Cô cũng bất giác mỉm cười.

Võ Đơn và Cao Sĩ Kỳ nối nhau đi ra, trời đã sắp tối. Vốn định sang Tây Uyển báo cáo kết quả với Khang Hy thì vừa gặp Mục Tử Húc dẫn đầu một đám thị vệ từ cửa Long Tông đi vào. Mục Tử Húc cười nói: “Đi xem bệnh cho đại sư rồi chăng? Nhìn sắc mặt của ông Võ, thì biết ngay là không có gì nghiêm trọng”. Cao Sĩ Kỳ cười nói: “Hoàng thượng ở đâu? Chúng tôi còn phải đi báo cáo công việc, sau này sẽ nói chuyện thêm”. Mục Tử Húc báo cho hai người biết bữa tiệc ở Tây Uyển đã xong, Hoàng thượng trở về điện Dưỡng Tâm gặp gỡ các đại thần, hai người bèn chia tay với mọi người rồi đi thẳng tới điện Dưỡng Tâm.

Vừa đến cửa Thùy Hoa đã thấy thái giám Lý Đức Toàn hầu trước cửa đang đùa nghịch với một con khỉ Hải Đông nhốt trong phòng, Cao Sĩ Kỳ hỏi: “Chú Lý, Hoàng thượng hiện đang tiếp ai đấy?” “Ôi, ông Cao, ông Võ!” Lý Đức Toàn ngước đầu lên nhìn thấy hai người liền vái chào, cười nói: “Hoàng thượng hiện đang tiếp thủy sư đề đốc Thi Lang! Có cần tôi vào bẩm cho hai vị một tiếng không?” Đang nói thì Khang Hy bên trong đã hỏi: “Có phải Cao Sĩ Kỳ không? Vào đây!” Hai người, một trước một sau bước vào đã thấy Hùng Tứ Lý, Minh Châu đều ngồi trên chiếc ghế con bên trái, bên phải là một quan viên, người thấp béo, mặt bạnh râu quai, mắt híp, sống mũi cao, khoảng trên dưới 50 tuổi, mặt đầy nếp nhăn, hai tay đặt trên đầu gối đang trả lời Khang Hy.

“... Vì sao ngừng luyện tập? Ừm, 50 khẩu pháo không đủ sử dụng, thì chế thêm 20 khẩu nữa!” Khang Hy chỉ liếc nhìn Cao Sĩ Kỳ, rồi nói tiếp với Thi Lang, “Lính thủy của khanh chỉ đóng ở hồ Vi Sơn, luyện quân ở hồ Đông Bình không có ích gì, việc này khanh đã nghĩ tới chưa?”

Thi Lang lặng thinh một lát rồi nói: “Việc chế pháo, thần đã sớm bàn với bộ Hộ, vốn định tháng 6 giao hàng, mà kéo mãi cho đến hôm nay, thần cũng không biết vì lý do gì. Hiện nay điều quan trọng nhất là tinh thần quân sĩ, luyện quân trên hồ, đánh giặc trên biển là hai việc khác nhau, Thánh thượng vừa nói rất đúng, thần cũng đã điều một số người tới vùng biển Yên Đài tập thử, có người vào trận đã bỏ chạy, cũng có người viết di chúc nhờ gửi về cho cha mẹ vợ con...”.

“Không phải là binh sĩ nhụt chí mà chỉ sợ quan tướng nhụt chí, có lẽ khanh đã nghe thấy những lời đàm tiếu gì rồi chăng?” Khang Hy cười nhạt nói: “Trẫm không phải nói khanh, người trong lục bộ làm việc không gắng sức, mà toàn nêu khó khăn, lòng Trẫm đã hiểu rõ. Văn võ cả triều chủ chiến chỉ có mấy người Lý Quang Địa, Diêu Khải Thánh, bây giờ Sách Ngạch Đồ xin nghỉ ốm, tưởng rằng ngay như Lý Quang Địa cũng không có quyền thế nữa! Thi Lang ngươi trong bụng cũng nghĩ như vậy, cho rằng Trẫm đã đổi ý rồi, có phải vậy không!” Mặt nhà vua đanh lại, đưa mắt nhìn Minh Châu và Hùng Tứ Lý, ngay cả Cao Sĩ Kỳ cũng cảm thấy lạnh người. Thi Lang hít vào một hơi, nói buồn rầu: “Hoàng thượng nói sao không đúng! Thần từ năm Giáp Thân một mình trốn ra khỏi Đài Loan phục vụ Thánh triều, cha anh đều bị hạ sát, trên mình mang mối thù máu, liên tiếp dẹp yên các nơi Triều Dương, Quỳnh Châu, Lôi Châu, những tưởng đã hết lòng gắng sức vì đất nước tất phải được triều đình tín nhiệm. Cho mãi đến nay, vẫn còn không ít người cho rằng thần có nhiều bạn ở Đài Loan, sẽ có đi mà không có về, thần suy nghĩ tới đó chẳng nhẽ không lạnh lòng chăng?” Khang Hy hớp một ngụm trà, cười nói: “Người sống trên đời, ai chẳng nghe thấy lời đàm tiếu? Nghe lời đàm tiếu thì không sống nữa sao? Tỷ như nói khanh nào là ‘Ngôi sao thứ 7 Bắc đẩu’, khanh chẳng nghe như một lời nói tốt? Khanh là ngôi sao thứ 7, có lẽ nào không ở dưới sao Tử vi? Trẫm thấy đủ tư cách lắm rồi! Người nào cứ nói huyên thiên những chuyện đó, thì cứ bảo cho hắn biết lời của Trẫm khanh muốn làm ngôi sao thứ 7, còn chưa xứng đâu!”

“Chúa thượng...” Thi Lang nghe tới đây, nước mắt đã tuôn ròng ròng, ông nức nở nói không ra lời.

Hùng Tứ Lý vốn không tán thành đánh Đài Loan, nhưng ông ta không xem Đài Loan là mảnh đất có cũng được mà không cũng được như một số người khác. Ông ta cảm thấy nước nhà chinh chiến liên miên, cần phải có một thời gian ngưng nghỉ dưỡng sức, lại thêm Lý Quang Địa cứ như ép buộc người ta, dựa vào thế lực Sách Ngạch Đồ chỗ nào cũng tìm cách chụp mũ cho người khác. Thấy Thi Lang xúc động như vậy, lòng ông cũng nóng lên, nước mắt trào ra, đang định nói thì đã nghe Minh Châu lên tiếng: “Hoàng thượng và Thi tướng quân không nên thương cảm, sau này nếu người lục bộ không chịu ra sức thì chỉ cần tìm nô tài là được. Cũng may mà Sách Ngạch Đồ không có bệnh gì trầm trọng, ông ta trở về thì một số người cũng phải ngoan ngoãn thôi”.

“Việc đánh Đài Loan là quốc sách do Trẫm tự hoạch định”, Khang Hy thần sắc lạnh lùng, nghiêm nghị, “hôm nay gọi khanh vào đây, cốt làm cho khanh hiểu được, đứng sau khanh không phải là Lý Quang Địa, Sách Ngạch Đồ, mà là có Trẫm làm chủ cho khanh. Các đại thần có thái độ trung dung hoặc không tán đồng Trẫm không bắt tội, tất cả đều là vì giang sơn xã tắc, hà tất phải bắt người ta cầm vũ khí lên ngựa mà phải miệng câm như hến? Trẫm chỉ có thể dung thứ người không đồng lòng, mà không dung thứ người không hiệp sức: Cách chức ngay Thượng thư bộ Hộ Trịnh Tư Tề, đưa Y Tang A lên thay làm Thượng thư bộ Hộ, thăng Thôi Nhã Ô làm Thị lang bộ Hộ, Lý Quang Địa kiêm làm Hiệp ban đại học sĩ, tính để Thi Lang ở lại kinh sư làm nhiệm vụ, cần người có người, cần tiền có tiền, cần lương thực có lương thực!”

Thi Lang nghe nói mặt mày hớn hở, Minh Châu và Hùng Tứ Lý vội quỳ xuống nói lớn: “Dạ! nô tài lãnh chỉ!”

“Còn nói tinh thần binh sĩ”, Khang Hy ngẫm nghĩ rồi nói, “Đánh giặc trên sông hồ và trên biển tất có khác nhau, sóng to biển cả buộc người ta vào sinh ra tử phải có phương pháp, ai không có cha mẹ vợ con! Thi Lang khanh về làm bản điều trần, phàm người nào bị chết, bị thương trong cuộc vượt biển, đều nhất loạt được ưu đãi, tăng lên gấp đôi, di hài người chết, nếu đem về được thì đem về, nếu không đem về được thì ghi toàn bộ danh sách lên cho Trẫm xem, tạc bia lưu danh! Chết có tên, sống có lợi, tận trung vì nước, Trẫm không tin tinh thần binh sĩ không nâng lên được!”

Thi Lang nghe tới đây bỗng bật dậy, nói giọng như chuông ngân: “Hoàng thượng, thần xin rút lại tờ tấu xin đình chỉ luyện tập thủy quân!”

“Ủa?” Khang Hy bỗng cười, đứng lên vỗ vai Thi Lang, nói: “Khanh ngồi xuống nghe Trẫm nói. Trẫm biết khanh, khanh ít học nho thuật, học không nên, chuyển sang học kiếm, sau thành tướng giỏi. Cha con Trịnh Thành Công bức hại khanh không phải vì khanh có sức khỏe hơn người, mà thực ra là sợ khanh mưu trí hơn người! Những người như khanh, hắn không dám dùng, đủ thấy hắn hẹp hòi nhỏ nhen Trẫm không lo khanh không giành được Đài Loan, nhưng Trẫm cũng có chỗ lo lắng trong lòng, khanh có biết không?”

Thi Lang mở to mắt, nhìn Khang Hy tỏ ý không hiểu, Hùng Tứ Lý, Minh Châu và Cao Sĩ Kỳ cũng bất giác đưa mắt nhìn nhau.

Khang Hy đi qua đi lại, đôi giày ống đen có lót trong kêu cót két trên sàn gạch xanh bóng loáng, một hồi lâu mới cười nói: “Việc này nói ra có hơi sớm một chút, nhưng khanh hãy nghe và suy nghĩ cũng hay. Đất Đài Loan ở góc bể cách đất liền vạn dặm trùng khơi, dân tình không quen, việc cai trị khó nhất, bộ hạ Trịnh Thành Công với khanh có người có ơn, có người có thù, ơn oán thắt buộc mãi, tình thế càng thêm phức tạp. Nếu một trận mà tiêu diệt hết thì không nói làm gì; còn nếu chịu hàng, Trẫm tặng khanh tám chữ”. Vừa nói vua nhìn Thi Lang. Thi Lang vội quỳ xuống lạy nói: “Thần xin lãnh ý thánh dụ!” Ánh mắt Khang Hy sáng lên, bước một bước tới gần Thi Lang, nói rành rọt từng chữ: “Chỉ được báo ơn, không được báo thù!”

Thi Lang hít vào một luồng khí lạnh, ngập ngừng một lát rồi nói: “Thần hiểu, chỉ được báo ơn, không được báo thù. Thần phải coi trọng nghiệp lớn thống nhất nước nhà, quyết không báo oán thù riêng!”

“Như vậy mới là bậc trượng phu chân chính, là trọng thần xã tắc!” Khang Hy thở dài, “Khanh yên tâm đi làm, không nên sợ tiểu nhân hại khanh, không nên lo lắng về sau. Trẫm sẽ giúp khanh một tay, Tổng đốc Phúc Kiến Diêu Khải Thánh không phải là bạn tâm giao của khanh sao? Trẫm lệnh cho ông ta đến trong quân làm tham tán quân cơ, và phụ trách tuyên giảng đức độ của triều đình. Một vạn thủy quân của ông ta, cho khanh thống lĩnh. Chúng ta vua tôi đồng lòng, sao còn lo lắng nghiệp lớn không thành?”

Tiễn Thi Lang đi rồi, Khang Hy ngồi ngây ra một hồi lâu, rồi mới quay mặt cười hỏi Cao Sĩ Kỳ “Việc sai khanh làm tới đâu?” Cao Sĩ Kỳ liếm môi nói: “Bây giờ xem ra nhất thời không gay lắm”. Võ Đơn bên cạnh cười nói: “Cao Sĩ Kỳ có hơi khiêm tốn đấy, nô tài bây giờ thật tình khâm phục, quả là thủ đoạn thần tiên! Không cần dùng thuốc mà như chỉ nói duyên phận, trong chốc lát đã làm cho bà Tô Ma Lạt Cô sống dở chết dở đó ngồi dậy được ngay, sắc mặt hồng hào lên!”

“Bà ta chẳng còn sống mấy năm nữa đâu!” Cao Sĩ Kỳ bỗng chêm vào một câu làm cho mọi người đều hoảng kinh, “đại sư như ngọn đèn hết dầu. Mọi thứ bệnh trên thế gian đều có thể chữa được bằng thuốc, nhưng bệnh tâm chỉ có thể dùng tâm mà chữa; ở đây toàn thân không bệnh, nhưng chỗ nào cũng bệnh, tâm cùng mà thần kiệt, đều chờ ở số mệnh thôi! Thần gắng hết sức học được chỉ làm bà khôi phục lòng tin, khuyến khích ăn uống, nếu theo đúng lời thần dặn có thể kéo dài thêm năm năm, hơn nữa thì thần không dám nói!” Võ Đơn ngây người, những điều ông đã nghe, đã thấy, đã nghĩ cách rất xa với lời tâu trình của Cao Sĩ Kỳ, ông không thể tiếp nhận ngay sự thật tàn khốc như vậy, một hồi lâu mới nói sững sờ: “Tôi không tin!”

Thần thái Khang Hy trở nên nghiêm trang mà buồn tiếc, nhà vua đã tin, hai mắt nhìn ra ngoài điện, lẩm bẩm: “Hồi thiên phạt thuật... hồi thiên phạt thuật?”

“Đúng...” Cao Sĩ Kỳ nghẹn ngào, “nô tài chỉ có thể làm tới bước này, làm cho Tô Ma Lạt Cô chết mà không bệnh, ra đi được tốt đẹp hơn một chút...”.

Minh Châu đứng một bên bỗng cảm thấy đau nhói trong lòng, ông ta là tác giả vụ án oan nghiệt này, bây giờ, kết quả đã bày ra trước mắt. Ông liếc nhìn Cao Sĩ Kỳ, cúi đầu vuốt chòm râu vừa mới dưỡng. Hùng Tứ Lý đã là ông già tóc bạc phơ, nhớ lại cùng trải qua thời gian nan thuở ấy, hình ảnh xưa cũ như hiện ra trước mắt, cũng không cầm lòng nước mắt trào ra.

Khang Hy đờ đẫn trầm tư rất lâu mới vỗ bàn thở dài, bỗng gọi to: “Lý Đức Toàn!”

“Dạ, có nô tài!”

“Truyền chỉ phủ nội vụ”, Khang Hy lau nước mắt, “chuẩn bị cho Huệ Chân đại sư một cỗ kiệu, trong ngoài năm thành, đất cấm ngự uyển, kinh sư, Trực Lệ, bà muốn đi tới đâu, muốn đi lúc nào cũng được, không cần thỉnh chỉ nữa!”

“Dạ!”

Khang Hy ngồi yên lặng, lẩm nhẩm tính ngày tháng rồi than rằng: “Trước nay Tô Ma Lạt Cô có ý muốn du ngoạn xuống Kim Lăng một lần, nếu còn sống đến lúc Trẫm đi tuần du phía nam thì tốt lắm! Ôi, cũng không biết việc đám Cận Phụ lúc nào làm xong.”

Báo cáo nội dung xấu