Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 21
21
Hạch tội đốc sông Ngụy Tương Khu dâng sớ
Tỏ rõ chí khí Y Tang A chịu nhục
Bản hạch tội của Ngụy Tương Khu dày đặc mấy ngàn chữ, giọng văn nghiêm khắc khảng khái, giống như một bài “Hịch đánh Cận Phụ” lại chuyên nói việc mở mới sông Phụ tiếp sông Tẩm thông sang sông đào. Trong đó nói dài dòng việc không nên chặn hẹp sông để rửa cát, bịt nghẽn dòng sông. Lại nói Cận Phụ nghe lời bậy bạ của kẻ gian, lấy quốc kế dân sinh làm trò chơi con trẻ, xây cái gọi là đập chắn chia lũ, đúng là một con quái vật, ngược với thói thường, chống lại đạo nghĩa! Ngụy Tương Khu không hổ là thủ bút hàn lâm, cả bài lâm li cặn kẽ, thần khí đầy đủ, cuối cùng giọng lưỡi quay ngược lại, nói:
Cận Phụ xin đại tu Hoàng Hà, mỗi năm tốn hao ngân khố hơn hai triệu năm mươi vạn, lại khéo nói là về sau có thể gian khổ một lúc mà nhàn nhã lâu dài. Thần dân thiên hạ như đại hạn chờ mưa, nghểnh đầu mong ngóng mấy năm, Hoàng thượng gửi gắm tâm can ủy thác, thức khuya dậy sớm mong có ngày dòng sông lại trong. Ông đốc sông này trước đã tâu đê đập mười phần xây được bảy, mà bây giờ lại mở dòng sông cho chảy thông sông Tẩm với kênh đào, cái gọi là ‘gian khổ một lúc nhàn nhã lâu dài’ ở đâu?
Đọc những dòng cật vấn đẹp đẽ này, Cận Phụ bất giác cười gằn: Mở sông Phụ thông sang sông Tẩm là để tăng thêm lưu lượng vận chuyển trên sông, Ngụy Tương Khu căn bản không nhìn thấy đập chắn chia lũ, lại nói làm một, văn chương có hay mấy cũng thành nói láo sống sượng. Cận Phụ đặt bản tấu xuống, lòng cứng rắn lên, ông ngồi xuống như chẳng có việc gì, lặng thinh suy nghĩ rồi nói: “Y đại nhân, người anh em đã xem qua rồi. Vừa rồi tôi có nói là có tội, bây giờ lại thêm vỡ đê bến Tiêu Gia, càng tội nặng bằng trời, xin gộp lại mà xử tội”.
“Những việc này, lúc tôi rời kinh, Hoàng thượng chưa có huấn thị”. Y Tang A nhướng đôi mắt hơi sưng liếc nhìn Cận Phụ, “chỉ có một việc, tể tướng Sách và tể tướng Minh xin Tử Hoàn lưu ý. Bốn châu Sơn Dương, Bảo Ứng, Cao Bưu, Giang Đô, ruộng đất bị nước ngập thành hồ ao, nếu tạm sung vào đồn điền tiếp tục trị thủy thì thôi. Đây vốn là ruộng có chủ, nghe nói đã bán đi rồi. Việc quan chiếm ruộng dân như vậy là không thể được.”
Việc đó mà cũng truyền tới Bắc Kinh! Trần Hoàng đứng bên nghe bỗng nổi nóng lên: Những chủ đất này khi ta làm đê đi quyên góp cho công trình một xu cũng không bỏ ra, chỉ đứng nhìn nước sông dâng lên. Vừa mới ngập bốn ngàn khoảnh ruộng, hơn một nửa còn chưa cày cấy được, thì đã chồm lên như con chó dữ! Vì các đại thần đương bàn việc, thân phận anh không được nói chen vào. Anh suy nghĩ một hồi cuối cùng không nhịn nổi nữa, liền nói to với Phong Chí Nhân bên cạnh: “Quả là cái thế giới to lớn này không việc gì là không có. Nói chúng ta mở khẩu đã là lỗi của quan trị thủy thì nên ném xuống sông cho cá ăn; chúng ta trị thủy tạo ra ruộng tốt, bán cho người đắp sông để giữ đê, thì lại nói chúng ta là giặc chiếm ruộng của dân! Đúng là sông trị được cũng chết, sông không trị được cũng chết. Vậy có lúc nào mà sống được? Tất phải nói rằng: Trước hết phải ăn no, chẳng cần học hành hiểu biết gì, sau thì moi móc tìm cách buộc tội người khác, là được tiếng tôi hiền ngay thôi!”
Y Tang A không ngờ một tên đồng liêu bé nhỏ lại có thể tìm dịp mỉa mai mình. Ông ta đang được thế ở ngôi vị cao, mới lên làm Thượng thư đã thay vua đi tuần du, vốn tuân theo chỉ dạy của Khang Hy, phải học cái độ lượng người tể tướng, nhưng bị người ta chọc tức trước đám đông thì làm sao nhịn được? Ông trừng mắt nhìn Trần Hoàng một lúc lâu, rồi cười khanh khách: “Túc hạ quả là khí khái! Xin hỏi quý danh quý tánh? Chẳng lẽ ta nói Cận Phụ là giặc bá chiếm của dân sao? Nhà nước trị thủy vốn là vì bá tánh, bồi thành ruộng đất đương nhiên cũng phải trả cho chủ cũ, đó là đạo lý hợp lẽ đất trời, ta nói không đúng sao?”
“Đã được hỏi tới, dám mạo muội xin nói, thưa Khâm sai: học sinh là Trần Hoàng!” Trần Hoàng đứng thẳng lên nói, “Quốc gia liên tiếp có chiến tranh, lúc Hoàng thượng kinh tế túng bấn đã đem việc trị thủy giao cho Cận đại nhân, chúng tôi đâu dám bê trễ chút nào! Đại nhân tuy không nói thẳng Cận đại nhân bỏ dân chiếm ruộng, nhưng ý trong lời nói. Học sinh đã nghe ra rồi, không thể không biện bạch một chút: Số ruộng này phần lớn là ruộng đổi tên thời Minh trước, nước ngập mấy mươi năm, dân chúng lưu lạc, đã không còn phân rõ địa giới chủ đất. Nhà nước đã bỏ tiền ra giành lại đất từ lòng sông, thì nhà nước là chủ đất! Cho dù trước là chủ đất, khi đắp đê đã không bỏ sức cũng không bỏ tiền, nay muốn chuộc ruộng, bỏ ra mấy lượng bạc thì có đáng gì?”
“Ngươi nói vậy là thế nào!” Thôi Nhã Ô dâng biểu bị Khang Hy bài xích, vốn có ý muốn gây chuyện, nghe Trần Hoàng nói có chỗ hở, liền hỏi lại một câu: “Nhà nước, quan phủ nhặt được tiền của dân lẽ nào không trả lại cho chủ cũ?”
Cận Phụ nghĩ thầm, nếu bây giờ không chặn được câu nói chiếm đất cướp của, thì chẳng những khó chối nổi tội danh, mà sau này làm khô được ruộng đất đều bị tước sạch. Tiền đắp đê bỏ ra sẽ thiếu hụt, lấy gì để khuyến khích dân công đắp đê? Càng nghĩ, càng thấy sự việc trọng đại, không thể không chặn họng vị thiên sứ này, ông cười lạnh lùng nói: “Số ruộng này không phải triều đình tự nhiên nhặt được, mà phải ‘Tốn hao nửa kho bạc nhà nước’ mới đổi được, Ví như Lý Tự Thành diệt nhà Minh trước, triều ta lại tiêu diệt Lý Tự Thành, đó là Hoàng thiên đưa Hoa Hạ về Thánh chủ lẽ nào nói triều Minh là chủ cũ thiên hạ mà vòng tay xin trả giang sơn đầy máu và nước mắt này cho họ Chu?”
Cận Phụ nêu ra một vấn đề trọng đại mà đúng là việc lớn mà triều đình kỵ nhất và di lão Giang Nam luôn ôm ấp trong lòng, một lúc không ai dám nói lời nào. Một hồi lâu Tống Văn Vận mới hỏi: “Thế nào mà Thành Long đến giờ vẫn chưa tới?” Một tên lính trước cửa vội nói: “Vu đại nhân bị cảm lạnh, người sốt cao, không thể ngồi dậy được”. Lại im lặng một lúc lâu.
Y Tang A mặt đã biến sắc, vì không tìm được lời bác bẻ Cận Phụ, ông cười khà khà nói: “Việc bến Tiêu Gia không hiểu ông anh xử lý thế nào”. Cận Phụ biết ông này cố ý gây khó, bèn thận trọng trả lời: “Phụ đã dâng biểu chịu tội, cầu xin Hoàng thượng cho phép bỏ của bồi thường, đang đợi ý chỉ Hoàng thượng để thực hiện”.
“Cận Phụ thật là một ông quan lắm tiền!” Y Lạt Ca mặt mày hớn hở, nói không mặn không nhạt, “Công trình to lớn như bến Tiêu Gia cũng bồi thường nổi?”
Cận Phụ đang định trả lời, ông già gác cổng đưa vào một cái thiệp dát vàng, ông chào rồi thưa: “Bên ngoài có một vị quan lớn xin gặp đại nhân,” Cận Phụ nhận tấm thiếp giở ra xem, trên có một dòng chữ nhỏ viết rất đĩnh đạc:
Cận Công Tử Hoàn, Ngu giáo đệ Ngụy Đông Đình xông hương xin khấu lạy.
Cận Phụ bất giác giật mình, vội đứng lên đưa thiệp cho ông thân binh, nói: “Nguyên thiệp không dám nhận, xin trả lại anh Hổ Thần đại nhân, mời mời vào!” Nói xong vái chào Y Tang A và mọi người rồi vội vàng đi ra.
Y Tang A đang lấy danh nghĩa Khâm sai cật vấn Cận Phụ, thấy ông này bỏ lại mình đi tiếp một “đại nhân” nào đó, trong lòng rất không vui. Ông Y Lạt Ca có làm ở phủ Nội vụ lại biết căn nguyên, vội ghé tai ông nói nhỏ: “Hổ Thần tức là Ngụy Đông Đình, tổng đốc hải quan bốn tỉnh, xin đại nhân cũng ra đón”. Nhưng Y Tang A tự cho mình là thiên sứ, không muốn hạ thấp địa vị cao quý của mình chỉ cười gật gật đầu, nói: “Hổ Thần, ta có biết”.
Ngụy Đông Đình là một người lớn nhất đến đây. Ông ta vốn đứng đầu đám thị vệ thân cận nhất của Khang Hy, mẹ ông Tôn Thị là vú nuôi Khang Hy. Từ năm Khang Hy thứ nhất đến thứ 17, Ngụy Đông Đình hàng ngày hầu giá, không rời phút giây, trong việc bắt Ngao Bái, triệt “Tam phiên” nhiều lần hộ giá có công, sớm được phong hầu tước, đuôi công hoa ba mắt, áo khoác ngựa vàng, thiên tử kiếm, không thiếu thứ gì. Trong số quan bổ nhiệm bên ngoài chỉ riêng ông thư từ công văn được đến thẳng cửu trùng, nhưng ông chưa hề can thiệp vào việc hành chính ở địa phương, tuy có gặp mặt Cận Phụ ở Nam Kinh, cũng chỉ gật đầu chào hỏi. Ông ta đến nha môn đốc sông có việc gì? Lòng Cận Phụ rối bời, thấy Ngụy Đông Đình đã vào nghi môn, ông cười nói to: “Chú Hổ Thần, chú làm việc thật chẳng giống người ta! Áo vải màu đen, kiệu nhỏ hề đồng, như gió rừng trôi dạt tới đây, chẳng khiến người thèm muốn sao? Nghe nói chú ở Nam Kinh ra khỏi nhà thường mang theo sách ngồi trong kiệu đọc, ham học đến vậy quả làm chúng tôi xấu hổ!”
“Đâu có, có gì ham học đâu!” Ngụy Đông Đình mỉm cười nói, “Tôi không phải là quan địa phương, hễ ra khỏi cửa bá tánh nhìn thấy đều cúc cung làm lễ, quả thật xấu hổ, nên cầm cuốn sách làm mộc che bớt đỡ thẹn thôi!” Vừa nói hai người nắm tay nhau bước lên bậc thềm, lại hỏi: “Tử Hoàn, nghe nói khâm sai đang ở chỗ anh, sao mà không thấy?” Bây giờ Y Tang A mới đứng lên, cúi người cười nói: “Ngụy đại nhân, sao ở Nam Kinh không gặp được ngài?” Cận Phụ vội vàng giới thiệu từng người một.
Ngụy Đông Đình mỉm cười nhìn bốn vị quan triều, cúi người đáp lễ từng người, rồi khiêm tốn nói: “Người anh em vốn là nô tài riêng của Hoàng thượng, vừa mới từ Quảng Châu trở về. Nghe khâm sai đại nhân ở đây, lo lắng cho Hoàng thượng, nên tới hỏi thăm!” Vừa nói vừa làm đại lễ vấn an Khang Hy. Y Tang A ngoảnh mặt về nam nhận lễ, mãn nguyện liếc nhìn mọi người một lượt, hai tay vờ đỡ Ngụy Đông Đình đứng lên, vừa cười vừa hỏi: “Hổ Thần đại nhân, ngài vừa ở bên ngoài trở về, còn đầy gió bụi đã đến vấn an Hoàng thượng. Lòng trung thành đó, người anh em về kinh nhất định tâu lên Hoàng thượng”. Ngụy Đông Đình hiểu ý câu nói của Y Tang A, như muốn hỏi ông đến có ý gì, bèn cười ha hả, nói: “Ngụy tôi một là đến gặp mặt thiên sứ, hai là nghe nói bến Tiêu Gia vỡ đê, nhân tiện thăm hai ông Tử Hoàn và Chấn Giáp xem có gì khó khăn. Đoạn sông này mà vỡ đê, bá tánh phải được cứu tế, công trình phải xây sửa lại, người anh em từ bên Hải Quan đem theo hai mươi vạn lạng bạc, tạm cho công trình sông vay, một chút của mọn không đủ gì đâu nhưng cũng mong được góp phần chút đỉnh”.
Ngụy Đông Đình khiêm tốn lễ độ, hờ hững nói rất dứt khoát, với tư cách của ông không phải là trò đùa. Bỗng chốc, đám Cận Phụ, Y Tang A, ai cũng trố mắt cứng lưỡi. Một lúc lâu, Y Tang A mới định thần lại, cười nói: “Ngụy đại nhân, quả là ngài biết cho than khi trời mưa tuyết!” Ngụy Đông Đình nghe trong lời ông ta có gai, nhưng là người rất từng trải hiểu đời, xưa nay chưa hề gây sự tranh cãi thị phi. Ông bèn nói: “Cho than khi mưa tuyết, đâu có dám, chỉ là làm theo sai bảo của Hoàng thượng thôi. Bên tôi có thể giúp cho một tay, lẽ nào dám xuôi tay đứng nhìn”. Vừa nói vừa lấy ngân phiếu ra giao cho Cận Phụ, nói: “Bảo chúng nó đến phủ Hải quan nhận bạc là xong”.
“E rằng không thích hợp chăng?” Y Tang A đột nhiên có cảm giác như mình bị hạ nhục. Tên Ngụy Đông Đình này nửa chừng xen vào, chẳng biết đầu cua tai nheo gì. Đã cố nhịn mà không nhịn được, liền cười nói: “Phá tường phía đông đem vá tường phía tây thì tường phía đông còn gì?” Y Lạt Ca uống trà giả vờ không nghe thấy. Thôi Nhã Ô là người không tinh đời, nhân dịp lại còn nói bóng nói gió: “Xem ra, làm quan cũng phải tìm bạn tốt, có quyền thế làm thân thích, khi có việc thì giúp đỡ lẫn nhau!” Tống Văn Vận bước tới chỗ khuất tán gẫu với Trần Hoàng, Phong Chí Nhân và Bành Học Nhân.
“Thôi đại nhân, ngài nói gì vậy?” Ngụy Đông Đình nghe Thôi Nhã Ô nói quả thật chịu không nổi liền quay mặt lại hỏi. Tuy nói đùa chơi, nhưng thần sắc đôi mắt của Ngụy Đông Đình làm Thôi Nhã Ô ớn lạnh, không dám nhắc lại lời vừa nói. Y Tang A lên tiếng: “Đốc sông và Hải quan chẳng liên quan gì với nhau, đại nhân khẳng khái mở hầu bao như vậy, chẳng trách Thôi đại nhân nghi ngờ, ngay cả học trò tôi cũng cảm thấy không thể hiểu được”.
“Vừa rồi mới bước vào tôi chẳng đã nói, đây là công việc Hoàng thượng sai làm ư”. Ngụy Đông Đình một lòng muốn nhân nhượng cho đỡ phiền, vội giải thích. Nhưng Y Tang A lại không chịu nghe, lập tức hỏi lại một câu: “Nhưng Hoàng thượng không giáng chỉ cho túc hạ can dự việc sông!”
“Thánh chỉ Hoàng thượng chỉ cho phép đại nhân thị sát sông đào, chứ không bảo ngài can dự công việc đê sông!”
Ngụy Đông Đình cứ nhường nhịn hết lần này sang lần khác, nhưng cuối cùng cũng phải tức giận, mặt biến sắc, đôi mắt nẩy lửa, ông nói: “Đê sông bị vỡ, đốc sông phải bị xử tội, chứ bá tánh có tội tình gì? Ngụy Đông Đình ta chức vụ Tổng đốc, việc sông việc biển vốn liên quan nhau, bỏ ra mấy lượng bạc giúp nhau, đại nhân moi móc như vậy, là có ý gì?”
“Ta là Khâm sai!” Y Tang A bị chất vấn không trả lời được, bèn nhướng cổ lên gân, cười gằn nói: “Cận Phụ không đáp ơn trên, không tròn chức phận, làm vỡ đê bến Tiêu Gia, ngập chìm hơn bảy mươi làng. Bay đâu!”
“Dạ!”
“Lột mũ ông ta!”
Trận lôi đình bỗng nhiên nổi lên, làm mọi người ngơ ngác. Đám Trần Hoàng vội lui ra khỏi đại sảnh, đứng lặng ở hành lang, mặt mày xám ngắt. Cận Phụ ung dung quỳ xuống, khoát tay ngăn tên lính định bước lên, tự mình tháo mũ ra, hai tay run run xoay chiếc đỉnh san hô, mồm nói: “Thần, tuân chỉ!” Ngụy Đông Đình đứng bên hô to:
“Khoan!”
Khâm sai cách chức đại thần nhất nhị phẩm, nếu không có đặc chỉ, trừ trường hợp khẩn cấp ra đều phải thỉnh chỉ. Hành động này của Y Tang A thuộc loại vượt quyền làm bậy, ông ta chỉ muốn ra oai trước mặt Ngụy Đông Đình. Ngụy Đông Đình tất nhiên biết rõ, tức giận phát run, bước tới một bước, ngẩng mặt cười nói với Y Tang A: “Xin túc hạ tạm thời tránh ra”.
“Hả, hả?” Y Tang A bỗng nổi giận “Ngươi có tư cách gì bắt ta tránh ra?”
Ngụy Đông Đình sắc mặt tối sầm lại, nói lên từng lời rành rọt: “Ta phụng mật dụ của Hoàng thượng, có lời muốn hỏi Cận Phụ!”
Nghe lời này, mọi người trong sảnh đều ngơ ngác nhìn nhau. Nhưng đã là mật dụ, vậy thì bất cứ người nào cũng phải tránh ra, tức thì mọi người rùng rùng đứng lên yên lặng cáo lui. Y Tang A không ngờ Ngụy Đông Đình dùng ngón này, mặt ông lúc xanh lúc đỏ, cả buổi mới định thần lại, mồm lẩm bẩm mãi “cái này”. Không cách nào khác ông đứng lên, vái Ngụy Đông Đình một cái, rồi lui ra. Ngụy Đông Đình thấy ông rất thảm thương, tiễn ông ta đi mấy bước, đến cửa sảnh, vỗ vai Y Tang A nói chân tình: “Anh Nhân, anh hãy suy nghĩ xem, nếu anh không bức tôi đến nước đó thì tôi đâu có làm như vậy? Ngụy Đông Đình đi theo Hoàng thượng bao nhiêu năm đã hiểu rất rõ, đương kim không phải là ông vua dễ dối gạt. Túc hạ làm việc gì cũng phải luôn nghĩ tới điều này, quyết không thể hành động theo cảm tính, sẽ tự chuốc tội vạ vào thân...” Y Tang A chỉ mơ hồ liếc nhìn Cận Phụ còn chưa lột mũ quan, gật gật đầu lê đôi chân nặng như chì bước ra. Bây giờ Ngụy Đông Đình mới quay người lại nhìn Cận Phụ yên lặng.
Trong đại sảnh chỉ còn lại hai người, một quỳ một đứng, hồi lâu không nói năng gì, chỉ có chiếc đồng hồ chuông vua ban kêu tích tắc đều đều tiết tấu không nhanh không chậm.
“Cận Phụ”, một lúc lâu Ngụy Đông Đình mới nói: “Đông Đình phụng chỉ hỏi ngài”.
“Thần Cận Phụ”. Cận Phụ nhè nhẹ dập đầu ba cái, “Xin nghe thánh huấn”.
Ngụy Đông Đình mở tờ tấu nghe sột soạt. Cứ cách mười ngày theo lệ ông có tấu mật đưa thẳng lên Khang Hy nói tất cả các thứ thời tiết nắng mưa, giá lúa cao thấp, thuế khóa sông đập, ngõ ngách quan trường, đấu tranh phe phái, văn thơ học thuật, cả đến chuyện lạ địa phương, truyện cười, nơi nào diễn tích trò gì ... không thiếu thứ gì. Đầu trang, cuối trang, bên góc, giữa hàng, chỗ nào cũng có lời phê chú của Khang Hy. Ngụy Đông Đình lựa những chỗ lời phê có liên quan tới Cận Phụ, hỏi lại theo từng trang. Như:
Trước có người tâu Cận Phụ vi chỉ không trồng cây trên đê, ngươi phải hỏi ông ta, là nguyên do gì? Viên đốc sông này lấy gì bảo đảm không lo lắng về cơn lũ mùa thu?
Lên phía bắc, thuyền theo sông đào vào vùng hồ Lạc Mã, năm nay lật chìm hơn hai mươi chiếc, hỏi Cận Phụ có cách gì hay làm cho đoạn sông này chảy chậm lại...
Chuyện đắp đập chắn chia lũ, trong triều ngoài địa phương đều không cho là hay, Trẫm không thể tự thân đến xem xét, thật buồn. Ngươi có thể hỏi Cận Phụ, việc làm này thời trước đã có cách gì hay, có thể chia lũ hay không? Ngươi có thể đến công trình sông xem xét, nếu có gì cần giúp đỡ, tạm thời có thể mượn bên Hải quan chút ít cũng được...
Có đến hơn mười điều. Chỉ có chuyện bến Tiêu Gia, Khang Hy chưa biết, nên chưa hỏi đến.
Ngụy Đông Đình lắng nghe Cận Phụ tâu trả lời từng điều một, rồi gật đầu nói: “Đại nhân xin mời đứng lên. Theo tôi đã nghe, đập chắn chia lũ xưa chưa có, mùa thu năm nay bị vỡ nặng như vậy, có lẽ phải thận trọng hành sự. Sau đây tôi phải xem thực tế vài chỗ, sau đó mới tâu cho Hoàng thượng rõ vỡ đập bến Tiêu Gia dìm chết hơn một ngàn ba trăm người, Cát Lễ đã có sớ tâu cụ thể. Ngài có gì tâu trình, đừng để chậm trễ, có thể báo qua tôi, tôi có thể thay anh mật tấu”.
Cận Phụ kinh ngạc nhìn Ngụy Đông Đình, thấy Ngụy Đông Đình thần sắc tự nhiên thoải mái, ánh mắt sâu thẳm, hình như lúc nào cũng trầm tư. Cận Phụ bỗng suy nghĩ: quả là một con người tốt! Sớm biết như vậy thì cần gì phải nhờ vả Minh Châu, chỉ cần quan hệ với họ Ngụy, thì đã có chỗ dựa đáng tin cậy! Nghĩ thế, ông nghiêng mình nói: “Đại nhân đã nói như vậy, đủ thấy tấm lòng ưu ái. Cận tôi quả thật khó nói nên lời...” Rồi ông kể tỉ mỉ một lượt cuộc tranh luận gay gắt với Vu Thành Long.
“Đại nhân không nên hiểu nhầm”. Như nhận thấy được tâm tư của Cận Phụ, Ngụy Đông Đình cười nói, “Tôi cũng như đại nhân, đều là nô tài của Hoàng thượng, lẽ ra phải thành thật đồng lòng với nhau. Hải quan và vận tải sông gắn chặt với nhau giúp đỡ nhau, thay đại nhân tâu lên sự thực là bổn phận của bản chức. Sau khi tướng Thi Lang vào triều thỉnh huấn, thủy sư sẽ xuống nam trong ngày một ngày hai. Cuộc chiến Đài Loan sắp nổ ra, Hoàng thượng lệnh cho tôi lo chuẩn bị lương thảo, tôi không thể không quan tâm!”
Cận Phụ nghe nói, có vẻ như an ủi, lại như khiển trách, bất giác đỏ mặt, vội tách bạch vấn đề ra nói: “Đập bến Tiêu Gia tuy vỡ rồi, nhưng xin đại nhân tâu giúp, tôi đã có cách bổ cứu”. Ông liếc nhìn Ngụy Đông Đình sắc mặt không chút thay đổi, “sau mùa xuân sang năm, không cần triều đình cấp thêm tiền bạc, chúng tôi liền bắt tay tu sửa đập chắn phân lũ. Lúc này tâu rõ, sợ Thánh thượng nói là tôi muốn tránh xử tội, chỉ đành nói lấy gia sản bồi thường”.
“Hả?”
“Bến Tiêu Gia vỡ đập chắn lần này thực ra là vì công trình còn chưa hoàn thành, tôi không thể chối từ trách nhiệm của mình”. Tiếp đến Cận Phụ nói lên kế hoạch mà mình đã bàn bạc cùng với đám Trần Hoàng, “Lưu lượng nước bến Tiêu Gia trong nháy mắt đã lên tới một ngàn năm trăm, đến sông Thanh Giang, mực nước thấp xuống bảy thước, lưu lượng nước trên sông trong nháy mắt đã xuống tới chín trăm năm mươi. Như thế có nghĩa là mỗi nháy mắt có chín trăm năm mươi lưu lượng nước Hoàng Hà từ bến Tiêu Gia chảy xuống hạ du. Đất ở hạ du từ những năm Vĩnh Lạc đã trở thành vùng đầm lầy, nước Hoàng Hà chảy qua rồi có thể bồi thành hai ngàn năm trăm khoảnh ruộng (tức 25 vạn mẫu Trung Quốc). Số đất vô chủ này đem bán mỗi mẫu ba lượng bạc, có thể thu được số bạc bảy mươi lăm vạn, đổi bạc thành công, thì tu sửa đập chắn phân lũ còn thừa ...”.
“Tôi còn có chỗ chưa rõ”. Ánh mắt Ngụy Đông Đình hơi lo buồn. “Việc tốt như vậy sao không chuẩn bị trước? Nếu năm trước xả nước tràn ra hạ du, thì chẳng đã giảm bớt mấy mươi vạn bạc?”
Cận Phụ nghe xong vội nói: “Đó là chỗ tôi hoạch định chưa chu đáo, đại nhân hỏi rất đúng, tôi không biết nói sao quả thực là sau khi vỡ đập, đo lường kỹ lưỡng lại mới thấy là được bù đắp trong sự tổn thất. Trong tớ tâu nhận tội tôi cũng không dám viết rõ. Kính xin Hổ Thần đại nhân tâu rõ ý Cận Phụ biết tội”.
“Điều tôi muốn hỏi chính là những việc này”. Ngụy Đông Đình uốn mình thư giãn, hớp một ngụm trà, cười nói “Tử Hoàn, tôi nói một câu chuyện phiếm, anh chỉ nghe là được. Anh tìm đâu ra một người đàn bà đưa tới Bắc Kinh, nhất quyết bắt người ta nhận thân nhân?”
Cận Phụ ngớ ra một hồi, mới nhớ ra là Tú Chi, ông bỗng giật mình, vội nói: “Hổ Thần, ngài đã nghe chuyện đó rồi à? Hoàng thượng nói ư?” Ngụy Đông Đình cười nói: “Không cần biết ai nói. Tôi thấy anh thực thà quá, đến việc này mà cũng dây vào, đó là điều cấm kỵ đấy. Nếu là tôi, thì bỏ ra ít tiền trước nuôi mẹ con bà ta, tìm cơ hội ngầm kết thúc với Quang Địa, thì ông ta cũng không tự ái, anh cũng lo chu toàn cho gia đình họ, đến nỗi gì mà làm cho mọi người đều khó chịu trong lòng vậy?”
Cận Phụ bỗng nhớ tới việc Minh Châu giữ nuôi Tú Chi, đã không nhận được thư, cũng không nghe nói Lý Quang Địa nhận người thân, trong đó xảy ra việc gì? Ông há hốc mồm, không dám hỏi lại: Việc đó phức tạp quá, ông không dám.
“Tôi chỉ tình cờ nói ra thôi, chẳng phải là chuyện quốc gia đại sự gì, chẳng có gì quan trọng đâu.” Đông Đình cười ha hả, “Mời các ngài Y đại nhân vào việc công đã xong, rượu khát cứ uống. Ông Tử Hoàn, ông phải trọn tình nghĩa người chủ đấy!”

