Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 44

44

Hỏi gian tà, các đại thần thất sắc

Giảng nhân thứ vua Khang Hy làm mai

Cao Sĩ Kỳ cũng đã thấy người trên thuyền là Trần Hoàng, anh đứng giữa đám người mắt nhìn về phía xa xa. Chiếc thuyền nhỏ ngụp lặn trôi nổi xoay chuyển giữa dòng chảy cuồn cuộn xoáy trôn ốc. Trần Hoàng lúc khom lúc ngửa, hai chân như đinh đóng chặt trên thuyền, không mấy chốc đã dùng sào kéo được Nhược Chỉ lên thuyền chống vào bờ. Cao Sĩ Kỳ bất giác thở phào, quay người nói với Khang Hy: “Ông chủ, tôi đã biết Trần hà bá là ai rồi. Anh ta là...” Thấy Khang Hy đứng ngẩn tò te, như không biết gì, anh bèn ngừng lại, không nói tiếp.

“Báo cho Võ Đơn”, Khang Hy không nghe Cao Sĩ Kỳ nói gì, đã rời khỏi đám người, nói chậm chậm với Cao Sĩ Kỳ, “Mấy người sở bến sông giao cho quan địa phương xử. Nhược Chỉ cứu lên còn sống thì đưa sang thuyền Trẫm có chuyện muốn hỏi”. Nói xong đi ngay. Võ Đơn lệnh cho tiểu thái giám làm theo ý chỉ, rồi vội vàng chạy theo Cao Sĩ Kỳ.

Suốt trên đường về, Khang Hy không vui, từ xa đã nhìn thấy Cận Phụ quỳ trên mạn thuyền, nhà vua chỉ hơi gật đầu rồi vén rèm bước vào khoang. Cao Sĩ Kỳ vội tới trước vòng tay chào Cận Phụ, khẽ hỏi: “Cận Công, từ lúc xa nhau vẫn khỏe chứ? Ông nhanh chân thật, nhận được tờ trát của tôi rồi chứ?” Cận Phụ vội đứng dậy đáp lễ, nói nhỏ: “Đây là công trình sông, đương nhiên tôi đến được, tờ trát của anh tôi chưa thấy, nhưng qua công văn của tuần vũ An Huy mới biết thánh giá tới... Thế nào mà thấy Ông chủ không vui?”

Cao Sĩ Kỳ gật gật đầu, nghiêng tai lắng nghe, như có tiếng rửa ráy trong khoang, anh khẽ ho một tiếng rồi nói: “Nô tài Cao Sĩ Kỳ xin nộp chỉ cho Chúa thượng!” Một hồi lâu mới nghe Khang Hy nói: “Vào đây, Cận Phụ cũng vào đây”. Cận Phụ và Cao Sĩ Kỳ hơi khom lưng bước vào trong khoang.

“Cận Phụ”, sắc mặt Khang Hy không còn u tối như trước, chỉ có hơi mệt, đợi cho Cận Phụ làm lễ xong, Khang Hy dựa ngửa trên ghế nói: “Khanh đến đúng lúc. Hôm nay Trẫm xem Hoàng Hà đang lúc có cơn lũ hoa cải, nó không ảnh hưởng việc đào sông giữa của khanh chứ? Nghị tấu của khanh rốt cục hiệu quả ra sao? Trẫm vẫn chưa thật yên tâm!”

“Bẩm Hoàng thượng”, Cận Phụ dập đầu cười đáp: “Bản vạch tội của mấy vị ngự sử thần có đọc, quả thực không thể đồng ý được, Chúa thượng đến đây thì mọi việc đều rõ ràng. Từ đây về nam, một trăm tám mươi dặm rưỡi, qua Túc Thiên, Đào Viên đến cửa Thanh Giang, đều dùng Hoàng Hà thay cho sông đào. Dòng sông hiểm sâu quanh co, sóng nhiều nước xiết, thực là con đường nguy hiểm đối với vận chuyển. Dẫn nước Hoàng Hà vào sông giữa, chẳng những thuyền vận chuyển tránh được mấy ngày sóng gió nguy hiểm, hơn nữa sau khi chia dòng chảy, mực nước Hoàng Hà hạ thấp, hồ Lạc Mã cũng tránh được nguy cơ tràn ngập...” Đây là công trình lớn nhất nhằm trị thủy Hoàng Hà và giải quyết việc vận chuyển sông, triều thần có ý kiến nhiều nhất, nên Cận Phụ nói rất kỹ, tay chỉ mồm nói rất đĩnh đạc. Ông nói rõ hiệu quả công trình trị thủy Hoàng Hà mấy năm nay và tình hình lương thực tiền của bỏ vào, cuối cùng ông nói: “Có người nói thần thích làm lớn thích công to, bỗng dưng sinh sự. Chúa thượng tận mắt nhìn thấy đó, đoạn sông này nếu không xử lý, sông đào phía hạ lưu còn phải lo lắng dài dài. Thuyền rồng của Hoàng thượng còn bị trở ngại chen lấn huống chi các thuyền vận chuyển nhỏ khác? Mong Chúa thượng sáng suốt xem xét!”

Khang Hy vừa nghe vừa đối chiếu với những ấn tượng quan sát được, đã dịu bớt lo âu, gật đầu cười nói: “Cũng làm khanh vất vả. Người ta nói thì cứ để người ta nói, Trẫm không bắt tội khanh! Suốt dọc đường xem ra lòng Trẫm được an ủi, rất vui. Nhưng cũng không khỏi hồ nghi, một mình Cận Phụ, khanh có tài cán làm được như vậy sao? Trẫm nghĩ thuộc hạ của khanh tất có người thông kim bác cổ phụ tá, đúng không?” Cao Sĩ Kỳ bên cạnh cười nói: “Bây giờ ông không thể dấu được nữa rồi, hôm nay Hoàng thượng đã nhìn thấy Hà bá Trần Thiên Nhất của ông tại bờ sông”. “Trần Thiên Nhất!” Khang Hy bỗng tỉnh ra, té ra là con người mình đã gặp ở trấn Thiết Ngưu năm nào! Nhà vua gật đầu cười khà khà.

“Trần Thiên Nhất tên là Trần Hoàng, Thiên Nhất là tên hiệu”. Cận Phụ vội nói: “Thực ra cũng đã thấy tên anh ta qua những tờ sớ vạch tội nô tài, nô tài là “cọp”, còn anh ta người “làm ma giúp cọp” vì sợ liên lụy đến anh ta, trước nay nô tài chưa dám công khai tâu xin thưởng công cho anh ta... chứ nô tài đâu dám dấu Hoàng thượng. Những công trình sáng tạo như đập chia lũ, mở sông giữa, đắp đê xa... đều do anh ta vạch ra...”.

Khang Hy cười to: “Đây là một kỳ tài trị thủy đó! Không uổng gọi tên là “Hà bá”. Việc trồng cây giữ đất trên thượng du Cam Thiểm chắc cũng do anh ta kiến nghị? Việc này chưa thấy công hiệu, những lời dèm pha không ít đó!” Nói đến đây thì Minh Châu, Sách Ngạch Đồ nối nhau đi vào, một trước một sau. Minh Châu cười nói: “Chúa thượng cưng chúng tôi, hôm nay ngủ thật ngon giấc, đầu cũng hết choáng váng, chỉ phải vất vả cho Sĩ Kỳ - dịch thừa bên ngoài dẫn vào bốn vị thân sĩ, và một cô bé gái, Võ Đơn nhờ thần thỉnh chỉ, có gặp họ hay không ạ?” Bây giờ Khang Hy mới nhớ tới mình đã có chỉ trước, liền cười nói: “Bảo dịch thừa về đi, Trẫm đêm nay chưa chắc đã trọ ở chỗ anh ta, chưa biết chừng cũng không ở trên chiếc thuyền này, theo đường bộ ven sông đi xuống nam cũng rất thú vị. Còn những người khác gọi vào”. Nói xong lệnh cho Cận Phụ đứng dậy hầu chuyện.

Bốn vị hương thân dịch thừa phụng chỉ chọn đến đều khoảng trên dưới bảy mươi, người nào cũng đi đứng nặng nề, mắt già cũng đã mờ, đều mặc áo ngoài nhiễu đen có hoa, cẩn thận bước vào. Cao Sĩ Kỳ suýt nữa bật cười, tìm ở đâu ra những của quý sống đó? Nhưng Khang Hy như không để ý, nói miễn lễ, rồi tự mình hỏi đủ điều. Lại còn hỏi dân tình, phong tục địa phương, mùa màng thu hoạch, và ban cho ghế ngồi, cho uống trà, nói chuyện thoải mái, Hồng Nhược Chỉ cũng thay áo quần mới, thẹn thùng đứng một bên. Đi đường vất vả nhiều ngày, tiếp kiến mấy vị hương lão, Khang Hy tỏ ra rất vui vẻ. Mấy vị thân sĩ cũng nhiệt tình trò chuyện nhiều khi lời lẽ thiếu cân nhắc, Khang Hy bỗng hỏi:

“Các vị có biết bên cạnh Trẫm còn có mấy vị đại thần chứ?”

“Bẩm Hoàng thượng”, một vị nghiêng người nói, “Tiểu nhân có biết. Bên cạnh Hoàng thượng có Sách đại nhân, Minh đại nhân, Hùng đại nhân, Cao đại nhân, người nào cũng là nhân vật tài cán cực kỳ!”

Khang Hy quay đầu chỉ các vị Sách, Minh, cười hỏi ông lão, “Bây giờ các vị đều ở đây. Ông hãy nói xem, trong số này có vị nào là gian thần không?”

Câu hỏi làm cho mọi người đều giật mình, mặt mày bỗng biến sắc. Ngay cả Cận Phụ tim cũng đập thình thịch. Nhìn thấy ông cụ già nhất đeo kính lão lên nhìn chằm chằm từng người trong ba vị tể tướng, giống như quan sát mấy ông thần đất trong ngôi miếu, mọi người đều sợ hết hồn, sợ các cụ buột mồm nói ra ai là gian thần. Tuy là trò đùa cho vui, nhưng trong tình hình này là bia miệng dân gian, làm sao chịu nổi?

Cụ thân sĩ già đỡ kính lên, thận trọng nhìn một lượt mọi người rồi lắc đầu nói: “Thừa lệnh Hoàng thượng hỏi, kẻ hèn mọn tôi xem mấy vị bên cạnh Hoàng thượng không có vị nào là gian thần!” Mọi người nghe xong ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Nghe Khang Hy lại hỏi: “Lấy gì làm chắc?”

“Lão già thần đã 74 tuổi rồi”. Cụ già trịnh trọng đáp, “Từ đời vua Thần Tông nhà Minh trước, thần đã đi theo ông nội xem hát, bọn gian thần người nào cũng mặt bự tô phấn trắng, mắt ong, mũi bồ cạp, hoặc là đầu chồn mắt chuột, không ra thể thống gì. Còn những vị này đều là phúc tướng, thiên đình đầy đặn, trán rộng mặt vuông, mặt mày hồng hào, làm sao mà là gian thần được?”

Ông cụ chưa nói xong, mọi người trong khoang đã cười rộ lên. Người nào cũng cười bò ra, khom lưng tựa ghế đấm ngực mà cười, ngay cả Nhược Chỉ cũng bật cười một tiếng, rồi đỏ mặt quay sang phía khác cười lén. Bây giờ Cao Sĩ Kỳ mới rõ: mấy cụ già này bề ngoài lôi thôi lếch thếch, nhưng tinh thần không lẫn chút nào. Khang Hy ôm bụng cười, nói: “Nói rất hay, làm Trẫm cười chết đi được. Cao Sĩ Kỳ viết thư báo cho Hùng Tứ Lý, nói Trẫm mắc cười không chịu được, vui vẻ lắm ...”.

Rất lâu, Khang Hy mới quay mặt sang hỏi Nhược Chỉ: “Con là cháu gái của Hồng Thừa Trù?” Nhược Chỉ cúi đầu khẽ đáp: “Vâng...” Ánh mắt Khang Hy sáng rực lên, thở dài rồi hỏi tiếp: “ Nhà con không phải ở Kim Lăng sao? Vì sao lại tới đây?”

“Bẩm Vạn tuế”, Nhược Chỉ mắt đỏ lên vội cố nhịn, rơm rớm nước mắt đáp, “Nhà vốn ở bên hồ Mạc Sầu Nam Kinh, nhưng mười năm về trước đã lụn bại. Vì... vì quan gia trưng dụng đất trại, nên đã chia lìa tan tác. Sau khi cha bệnh chết, con theo mẹ rời Kim Lăng đi ăn xin. Không ngờ dân ở đây cũng nhận ra con là họ Hồng. Nỗi khổ sở một lời khó nói hết...” cô gái nghẹn ngào.

Thực ra Nhược Chỉ đã nói rõ sự tình: Hồng Thừa Trù quan hệ không tốt trong người Hán, dậu đổ bìm bìm leo, không ai là không nói xấu ông, đất trang trại bị cưỡng bức trưng thu sửa làm hành cung. Truy tìm nguyên nhân, triều đình vốn cũng không coi ông là người tốt. Khang Hy ngẫm nghĩ một lát nói: “Tường đổ, mọi người xô, sự đời mặn nhạt cũng là chuyện thường tình của con người. Trẫm soạn Truyện Nhị Thần cốt để răn đe đời sau, chứ không phải để gây khó cho các thần tử từng làm quan cho nhà Minh trước. Hồng Hanh Cửu không giống Ngô Tam Quế, cũng không báo đền công ơn Lý Tự Thành, với bản triều có công, không có tội. Đối xử với một gia đình quan lại như vậy có hơi quá chăng?” Vừa nói, ánh mắt lóe sáng, liếc nhìn mấy vị thân sĩ, rồi nói tiếp, “Giang sơn Đại Thanh giành được từ tay Lý Tự Thành, họ Hồng dẫn binh trời vào quan ải báo thù cho nhà Minh, cũng không thể coi là nghịch thần của nhà Minh trước. Các vị nói xem có đúng vậy không?”

“Hoàng thượng nói rất đúng!” Một thân sĩ cúi người đáp, “kẻ già hèn mọn không hiểu đạo lý này, trước nay đối xử không phải, xin Hoàng thượng trị tội”.

“Hiểu được là tốt, ý của Trẫm là đối nhân xử thế phải coi trọng đạo lý trung thứ. Bé Nhược Chỉ này chịu nhục nuôi mẹ, Trẫm cho là một người con gái hiếu thảo”. Khang Hy vừa nói vừa nghĩ, quay mặt hỏi Minh Châu: “Trong họ Hồng còn có ai làm quan?” Minh Châu vội nói “Hồng Sĩ Khâm, công tử thứ tư của Hồng Thừa Trù nguyên là thiếu khanh thái thường tự. Năm Khang Hy thứ 7, tuần vũ Giang Nam Diệp Bình Thu hạch tội ông ta cư tang không nghiêm, cách chức cho về nhà”. “Cư tang không nghiêm cái gì?” Khang Hy cười mỉa nói: “Hiếp đáp người ta thôi. Khanh làm công văn gửi bộ Lại, phục chức ngay cho Hồng Sĩ Khâm”. Cao Sĩ Kỳ bên cạnh cười nói: “Nhược Chỉ, cô rất khái tính. Cũng phải nghĩ thoáng một chút - bà mẹ chết đi vất đầu phố, ông bố chết đi không người khênh - bao giờ cũng vậy thôi! Hà tất hễ động một chút là nghĩ quẩn thiệt thân?”

Khang Hy ngẫm nghĩ một lát, lại hỏi: “Nhược Chỉ, con đã hứa gả cho người ta chưa?”

“Dạ chưa ạ...” Nhược Chỉ đỏ mặt.

Khang Hy quay mặt hỏi Minh Châu: “Nhớ ra khanh có hai người con trai, bao nhiêu tuổi rồi?” Minh Châu nghe nói đã hiểu ý vua, đang định trả lời thì Cao Sĩ Kỳ khoát tay cười nói: “Hay! Nô tài đang định làm mai mối, thì Chúa thượng đã nói rồi, Nạp Lan - Tính Đức, với cô bé này chẳng phải là một đôi trời xây đất dựng sao?” Khang Hy ngồi xếp bằng lại gật đầu cười nói: “Như vậy nhé. Tính Đức Trẫm thấy rất tốt, lại học giỏi, đưa cháu bổ sung làm thị vệ!”

Con trai được cho làm lính “tôm”, lại được thiên tử chỉ vợ cho, làm sao mong được một việc tốt như vậy? Minh Châu mừng rỡ cười nói: “Con trai lớn của nô tài Quỷ Tự năm kia đội ơn được đưa vào làm thị vệ, bản thân nô tài cũng là thị vệ, bây giờ cả nhà đều là thị vệ của Chúa thượng - lại được ban vợ cho cháu, nô tài quả là song hỷ vào cửa!” Rồi cởi miếng ngọc viền vàng ở thắt lưng đưa cho Nhược Chỉ, nói: “Vật này tạm coi như sính lễ, con hãy nhận lấy. Ngày mai ta sẽ sai người đưa hai mẹ con con về kinh”.

Trò chuyện thêm một hồi nữa, Khang Hy mới bảo mọi người ra về. Nghe nói các thuyền buôn đều tránh ra, vua lệnh cho Võ Đơn sai người đưa đội thuyền theo đường thủy đi tới Túc Thiên chờ lệnh, còn mình thì đi đường bộ. Nhớ lại buổi tối còn phải tới nhà bà Hàn Lưu, liền bảo Cận Phụ cứ đi làm việc. Bây giờ mới chịu nằm nghỉ - Nhà vua cũng đã thấm mệt.

Cận Phụ bước lên tấm ván rời thuyền, Sách Ngạch Đồ cũng theo ra ngoài khoang, nhìn trời chưa đến giờ Thân, liền rảo bước đuổi theo, vỗ vai Cận Phụ nói: “Nhà con trai bà Hàn Lưu ở đâu, ông có biết không?” Cận Phụ biết người này trước nay không tốt đẹp gì với mình, nhưng không làm gì được, liền cười nói: “Trước thì không biết, năm ngoái cùng Trần Hoàng đến đây xem xét thế đất có gặp Hàn Xuân Hòa. Anh ta mở cửa hiệu Mậu Sinh bên hồ ở phía tây trấn Lạc Mã chuyên mua bán đồ sứ, trà, cũng thường qua lại với Hổ Thần bên Hải quan, nghe nói đã đăng ký ở phủ Nội vụ...” Sách Ngạch Đồ cười nói: “Tôi đâu có điều tra ông, nói làm gì kỹ thế? Ông đợi một lát, tôi về thuyền thay quần áo thường, chúng ta cùng đi tới nhà anh ta - tối nay Hoàng thượng đến thăm nhà anh ta!” Cận Phụ nghe nói ngơ ngác, lại nghĩ ông ta nhất định đi tiền trạm tới nhà họ Hàn, liền cười gật đầu, đứng đợi dưới bóng mát rặng liễu trên bờ. Một lát, Sách Ngạch Đồ trở ra, cùng ngồi chiếc kiệu quan hai người của Cận Phụ.

Cửa hiệu Mậu Sinh của Hàn Xuân Hòa phía tây giáp hồ Lạc Mã, phía đông là bờ sông Hoàng Hà, quay mặt về hướng bắc, nằm ở góc đông nam trấn Lạc Mã, ba mặt đều có nước, ra cửa là bến thuyền, vô cùng tiện lợi. Ven theo phố một cổng gạch Thùy Hoa, một bức tường vôi, phía tây lại là một cổng lớn cho xe cộ, phía trong là kho chứa hàng. Nhìn từ xa, một tòa lầu bằng đá sừng sững, có lẽ dùng để phòng giặc cướp. Cận Phụ từ xa đã chỉ tay nói với Sách Ngạch Đồ: “Nó kia rồi. Tên Hàn Xuân Hòa này cẩn thận không kém bà mẹ bao nhiêu, buôn bán phát đạt lắm, còn xây một lầu tránh giặc!” Sách Ngạch Đồ hình như có điều tâm sự, ông gật gật đầu, cười nói: “Ngày thường tám người khênh một mình ông, bây giờ Hoàng thượng ở đây, bốn người khênh chúng ta hai người. Đã đến rồi thì xuống sớm hơn một chút, đỡ cho bọn chó này trong lòng khỏi mắng chúng ta”. Nói xong dậm chân xuống kiệu, chiếc kiệu lập tức dừng lại.

Bà Hàn Lưu phía sau đang cùng Trần Hoàng nói chuyện trường thiên đại luận, con trai Hàn Xuân Hòa, con dâu Hàn Châu Thị đứng một bên cười đùa vui vẻ. Nghe nói hai người Cận Phụ và Sách Ngạch Đồ đã vào cửa phủ, vội đứng lên chào đón, miệng cười ha hả, nói: “Ôi, trời thần Phật tổ! Cận đại nhân là khách thường xuyên, không cần phải nói, trận gió nào đưa ông ba Sách tới nhà chúng tôi vậy? Nhanh lên mời mau!” Nói xong liền giới thiệu từng người.

“Xin kính chào tể tướng Sách!” Trần Hoàng như miễn cưỡng ra làm lễ chào. Nghe bà Hàn Lưu về, anh vội vàng tìm đến, cốt để hỏi thăm tin tức A Tú. Đến khi nghe bà Hàn Lưu kể chuyện xảy ra ở trấn Long Hóa Phụng Thiên, bà nở mày nở mặt kể chuyện bây giờ A Tú được cưng chiều như thế nào, tôn quý như thế nào, không biết vì sao một cái gì như nỗi âu lo rầu rĩ tràn ngập lòng anh. Mấy năm ròng rã đội gió dầm mưa làm cật lực hết mình trên công trình thủy lợi, những tâm tư, cảnh ngộ xưa kia hầu như quên sạch, nhưng một khi gợi ra, thì đống tro tàn nguội lạnh kia lại bùng cháy, thiêu đốt tâm can, làm rối loạn nỗi suy tư, tâm thần bất định, anh ngồi im lặng, không nói không rằng.

Sách Ngạch Đồ thấy anh thần thái ngạo mạn tất nhiên không vui, nhưng bao nhiêu năm từng trải, ông đã học được tài thao lược, ngừng lại một lát, ông cười hì hì nói: “Tôi với Trần tiên sinh trước nay chưa gặp nhau, nhưng lòng đã gặp từ lâu rồi! Hôm nay Hoàng thượng còn khen anh là nhà trị thủy kỳ tài bác cổ thông kim, việc thăng chức chỉ trong tầm tay! Anh đã tới rồi thì tốt, đợi một chốc Vạn tuế đến đây, nhân tiện ta giới thiệu cho gặp là được - Ông Cận, ông thấy thế nào?” Cận Phụ vội cười nói: “Đương nhiên nên nghe theo Trung đường - Thiên Nhất, không mau tạ ơn Tể tướng Sách?”

“Trời ơi! Ông chủ đến thật sao?” Bà Hàn Lưu vỗ tay, “Ta cứ tưởng Hoàng thượng nói đùa vậy thôi chứ!” Bà lão túc trí đa mưu này bỗng hơi rối trí, bà vội đứng lên nói: “Hòa con, còn đứng đực ra đó, sai người đi kêu một ban hát, kêu một đầu bếp khá nhất ở đây đến hầu hạ! Không biết việc bảo vệ làm sao cho tốt đây?” Vừa nói vừa cùng Châu Thị đi ra, khoảng một trăm gia nhân trong trại lập tức bận rộn hẳn lên. Chỉ còn ba người đám Sách Ngạch Đồ ngồi lại ăn và nói chuyện phiếm. Cho mãi đến lúc trời tối hẳn, Cận Phụ mới từ giã, trở về thuyền dẫn đường cho Khang Hy. Những người khác vội ra hầu đợi ở phòng xếp ngoài cổng lớn.

Một lúc nghe tiếng vó ngựa lộp độp phía ngoài, tiếng Khang Hy nói cười càng lúc càng gần: “Cận Phụ, Trẫm cứ tưởng xa lắm, chứ một đoạn ngắn như thế này thì đi bộ hay biết mấy, làm gì phải đem theo mấy con ngựa này!” Mọi người vội bước ra ngoài quỳ đón. Khang Hy khoát tay rồi bước vào sân, cười nói: “Nghe nói Trần Hà Bá cũng ở đây, rất tốt! Gọi lại đây cho Trẫm xem xem!” Trần Hoàng nghe Khang Hy nói như sét đánh ngang đầu, toàn bộ máu trong người dồn lên, mặt đỏ nhừ, đợi Khang Hy ngồi xuống, anh bước tới, sụp xuống quỳ lạy:

“Thư sinh áo vải Trần Hoàng khấu kiến Thiên nhan, kính chúc vua ta vạn vạn tuế!”

“Được, được!” Khang Hy nhìn kỹ Trần Hoàng từ trên xuống dưới, mặt vui hớn hở, “Không phải chúng ta mới gặp lần đầu, có còn nhớ Trẫm không?”

Trần Hoàng sửng sốt, nghĩ mãi một chặp, lạy nói: “Xin Vạn tuế tha tội, Trần Hoàng không nhớ nổi là đã gặp Thánh nhan lúc nào...” Cao Sĩ Kỳ đứng sau lưng Khang Hy nhận chén trà do bà Hàn Lưu bưng ra, đi tới trước mặt Trần Hoàng, cười nói: “Thiên Nhất, anh gặp được Hoàng thượng sao viết thư không nói với tôi một tiếng?” Thấy Trần Hoàng đứng ngây ra không nói năng gì, Khang Hy cười ha hả, nói: “Năm đó Trẫm đi thị sát Khai Phong, chúng ta gặp nhau trên bờ Hoàng Hà tại trấn Thiết Ngưu, còn ăn cơm trong cùng một cái lều. Tay Võ Đơn ở cửa còn mắng ngươi là ‘đội một cái nón rơm không có chóp’ có nhớ không? Một bàn của Trẫm đầy rượu thịt ngươi ăn hết chứ!” Vừa nói vừa nhắp một ngụm trà.

“À...” Trần Hoàng bỗng nhớ lại, dập đầu liên tiếp nói: “Thần có mắt không nhận ra Thiên nhan, nói năng lỗ mãng xúc phạm... Hoàng thượng nói như vậy làm thần không còn chỗ nào dung thân được...”.

“Đứng dậy ta nói chuyện”. Khang Hy nói. Thấy Cao Sĩ Kỳ biết Trần Hoàng, bèn nói: “Cao Giang Thôn, té ra khanh với Trần Hoàng, bà Hàn Lưu quen biết nhau từ trước?” Cao Sĩ Kỳ bèn kể lại cuộc gặp gỡ tình cờ với Trần Hoàng và bà Hàn Lưu lúc anh vào kinh thi, chỉ không nói tình tiết Trần Hoàng với A Tú. Mọi người có mặt ai cũng cười to. Bà Hàn Lưu lại gần Minh Châu nói nhỏ: “Ông chủ chỉ dẫn theo mấy người các ông sao? Không thông thạo tình hình nơi đây, nên dẫn thêm mấy người nữa mới phải...” Minh Châu nói: “Ông chủ không muốn tiền hô hậu ủng làm người ta chú ý. Tính nết nhà vua bà còn chưa biết sao. Hơn nữa bây giờ không phải như mấy năm trước, đâu có xảy ra chuyện gì được?” Bà Hàn Lưu cuối cùng cũng không yên lòng, vội ra ngoài sai người đi ngó chừng xung quanh trại.

Nói chuyện phiếm một lát, Khang Hy thấy bà Hàn Lưu bận rộn bày rượu hát tuồng, liền ngăn lại nói: “Đến nhà bà là muốn yên tĩnh, xem nhà dân thường sống như thế nào, nếu bà cứ tất bật bận bịu thì Trẫm sẽ đi”. Rồi gọi Hàn Xuân Hòa lại hỏi kỹ chuyện buôn bán lời lỗ, mùa màng thu hoạch thế nào, sau cùng vuốt râu nói: “Ban đầu lúc Trẫm mới nắm quyền, trong lòng có ba chuyện lớn, một là triệt phiên, hai là trị thủy, ba là vận chuyển đường sông. Không ngờ triệt phiên gây rắc rối to, tốn bao nhiêu là tiền bạc nên kéo dài việc trị thủy, vận chuyển đường sông ra mấy năm. Bây giờ ba việc trên coi như đã thấy kết quả, lòng Trẫm rất vui, đã xóa đi việc cấm biển, cử Ngụy Đông Đình ở Nam Kinh chuyên làm việc này. Hàn Xuân Hòa, ngươi làm việc buôn bán cũng được, nhưng không nên nghĩ rằng chỉ thu tiền của người Trung Quốc. Những thứ như đồ sứ, trà, đại hoàng, đương quy... thu nhiều hơn một chút, nộp cho hải quan một ít thuế, chở ra nước ngoài một thuyền có thể đổi về một thuyền bạc. Việc tốt như vậy sao không làm? Đừng coi thường nghề buôn, sĩ nông công thương, nghề buôn xếp vào một trong bốn nghề của dân. Phạm Lãi, nhà buôn lớn thời Xuân thu còn làm tể tướng nữa cơ! Thấy bà quả phụ Tứ Xuyên có cách kiếm tiền, ông tổ Long gặp bà đối xử lễ phép bình đẳng, Huyền Cao nước Trịnh cũng là nhà buôn, cũng có công đối với xã tắc vậy”.

Khang Hy nói rủ rỉ, rất thân mật như nói với người nhà. Hàn Xuân Hòa nghe nói lòng ngầm khâm phục, vâng dạ rối rít. Bà Hàn Lưu vốn muốn tìm cho con trai một cơ hội tiến thân cũng thôi. Mọi người nói cười rất vui vẻ thì quản gia Mã Quý phía trước vội chạy vào, bẩm to: “Bẩm cụ bà, Lưu... Lưu Thiết Thành... chúng xông vào trấn, mượn... mượn lương thực! Phố nam mấy cửa hiệu đều cháy, đội ngựa đang... đang chạy về phía chúng ta!?

Báo cáo nội dung xấu