Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 47
47
Trù liệu quân lương, Hoàng đế trọng đạo nghĩa
Răn dạy con hiếu, mẹ già kể Xuân Thu
Khang Hy đang múa bút viết chữ ở gác Chẩm Hà trong hoa viên phía nam phủ Ngụy. Thấy Vu Thành Long đi vào, Lý Đức Toàn vội ra đón cười nói: “Vu đại nhân, xin vào đây đợi một lát, Chúa thượng viết xong chữ sẽ tiếp ngài”. Vu Thành Long gật đầu, rồi tới quỳ nghiêm trang ở nơi Lý Đức Toàn chỉ định.
Mẹ Ngụy Đông Đình, Tôn Ma Ma tóc bạc trắng ngồi đối mặt hơi chếch nhìn Khang Hy không chớp mắt. Tôn Ma Ma là vú nuôi của Hoàng đế Khang Hy, bà thương Khang Hy hơn con đẻ của bà. Lần này Khang Hy về Nam Kinh nghe nói ở ngay tại nhà mình, bà mong ngóng mấy đêm liền không ngủ. Không ngờ Khang Hy vào phủ, không ngớt tiếp các quan lớn, các thân sĩ, phụ lão, nhà buôn địa phương, cả phủ trên dưới làm theo ý vua, chạy như đèn kéo quân, rối tinh lên. Bà cụ thấy chưa đến lượt mình, liền mặc áo “phụng thánh phu nhân”, chống gậy đi tới, lặng lẽ tìm một chỗ ngồi trong góc sảnh, hai mắt chăm chú nhìn Khang Hy. Khang Hy thấy bà như vậy cũng cảm động, hễ có chút rảnh rang là đến bên bà hàn huyên mấy câu, hoặc có khi thưởng trà cho bà uống. Tuy không có nhiều thì giờ trò chuyện, bà cụ cũng cảm thấy hài lòng. Khang Hy lại còn tranh thủ thời gian viết cho bà mấy chữ, lòng bà vui mừng khôn xiết.
Khang Hy viết bốn chữ “Phúc hải thọ sơn”, bỗng ngước đầu hỏi: “Nhũ mẫu, lần này Trẫm đến trú ở đây, e rằng sẽ làm nhà ta tốn hàng đống tiền nhỉ?”
“Nhà họ Ngụy có phúc, nô tài mới có được vinh dự này, người khác nằm mơ cũng không mơ được nên dù có khuynh gia bại sản cũng cam lòng!” Bà Tôn nói, mặt mày hớn hở, “Chỉ sợ ông chủ không thoải mái, đó mới là tội lỗi của ta”. Khang Hy suy nghĩ một lát, nói: “Việc to tát như thế này việc tiêu pha cũng không phải là việc nhỏ, số tiền dùng trong kho bạc, trước sau gì thì cũng phải trả vào. Ừm, năm nay thuế được giảm ba phần, bảo Mục Tử Húc lấy từ ngành dệt ra giúp cho một ít. Bây giờ tuy không ai nói gì, nhưng để lâu, các ngự sử sẽ nói thôi”. Nói xong thổi khô chữ đưa cho bà Tôn, rồi mới quay mặt gọi Vu Thành Long: “Khanh quỳ mãi làm gì thế? Lại đây!” Bà Tôn thấy trời sắp tối, bèn gọi người bưng đèn lên, bà căn dặn đủ điều rồi mới đi ra. Khang Hy đưa tiễn hai bước rồi quay lại hỏi: “Vu Thành Long, khanh có biết Trẫm gọi khanh có việc gì không?”
Vu Thành Long suy nghĩ một lát rồi nói: “Nô tài không biết”.
“Trẫm có ý để khanh nhậm chức Tuần vũ Giang Tô”. Khang Hy thoải mái ngồi xuống, uống một ngụm trà, ung dung nói: “Việc này khanh xem thế nào?” Vu Thành Long thấy nóng trong lòng, vội khom người nói: “Chúa thượng điều chuyển không theo thứ bậc, đó là điều thần không ngờ tới. Là bề tôi, được thăng chức thì mừng mà cũng lo, chỉ sợ tài hèn sức mọn không đảm đương nổi, phụ lòng mong mỏi của Hoàng thượng”. Khang Hy hài lòng gật đầu, đặt nhẹ chén trà xuống bàn nói: “Khanh làm Tuần vũ, mỗi năm phải giao thêm cho Bắc Kinh bảy triệu vạn thạch lương thực. Khanh có làm được không”.
“Vạn tuế!” Vu Thành Long quỳ cái rụp xuống đất nói: “Thu nhập hàng năm của triều đình, hai phần ba đến từ Triết Giang, dân tình đã khổ vì thuế quá nặng. Dẹp xong giặc “Tam phiên”, bá tánh vừa thở ra nhẹ nhõm, đang mỏi mắt chờ tin nhà nước giảm sưu giảm thuế, thần đâu dám tham công trong dịp này trở thành ông quan sưu cao thuế nặng? Chính sách hà khắc mạnh hơn cọp, thần không dám phụng chiếu!” Nghe giọng ông cứng rắn như vậy, Khang Hy bỗng bật cười: “Ai cãi vã với khanh đâu? Trẫm đang bàn bạc với khanh mà! Trẫm nghĩ là việc này khó, nên giao cho khanh làm. Trong vòng năm năm, phải đánh giặc ở tây bắc, không có mấy triệu thạch lương thực, thì đánh làm sao được?” “Lẽ nào Hoàng thượng còn đánh giặc chưa đủ sao?” Vu Thành Long nhìn thẳng Khang Hy mà hỏi “Đây là ý của Minh Châu, Sách Ngạch Đồ hay do Hoàng thượng tự nghĩ ra ạ?”
Sắc mặt Khang Hy bỗng tái đi, lạnh lùng nhìn Vu Thành Long, cắp tay sau đít đi qua đi lại mấy bước, rồi dừng lại trước mặt Vu Thành Long, thấy ông ta bình thản nhìn mình, nhà vua bỗng cười nói: “Đương nhiên là ý của Trẫm. Trẫm xưa nay vốn là ngựa nhà trời đi mây về gió một mình, những người phòng dâng thư làm sao thao túng Trẫm được?”
“Đã là ý của Hoàng thượng”, Vu Thành Long nói như đinh đóng cột, “Thần thành thực cho rằng không được! Diệt đại loạn “Tam phiên”, nguyên khí quốc gia tổn thất đã nhiều, thu hồi Đài Loan lại thêm sương cho tuyết, nay lại tăng thuế thì bá tánh sống sao được? Vạn nhất kích cho dân nổi loạn thì triều đình làm sao đứng vững được?” Khang Hy nghe những câu hỏi cứng cỏi đó hình như không ngoài dự đoán nên cười nói như không: “Cho nên việc này không có khanh không được! Nếu là quan tham nhất định kích dân nổi loạn, nhưng với khanh thì không thế. Khanh là “thanh thiên” đối với họ, cho dù nộp lương thực nhiều hơn một chút, quá lắm là họ kêu khổ, chứ không làm phản. Đợi đến lúc bình định xong tây bắc, Trẫm sẽ hạ chiếu giảm, miễn tiền, lương thực cho Giang Nam. Khanh là đại thần, phải mạnh dạn lên chứ”.
Vu Thành Long thở dài nặng nề, im lặng một hồi lâu mới nói: “Không phải thần không muốn mang tiếng hà khắc, nhưng xin Hoàng thượng nghĩ đến dân đen thiên hạ, đừng lấy sưu cao thuế nặng mà làm mất lòng dân, làm tổn thất cái đức Nghiêu Thuấn của Hoàng thượng”.
“Câu này khanh nói đúng”. Khang Hy than, “Chính là Trẫm nghĩ đến bàn dân thiên hạ, hàng triệu nhân dân tây bắc, đất đai vạn dặm, hiện đang thoi thóp dưới gót sắt Cát Nhĩ Đơn. Nước La Sát nhòm ngó tây bắc đã lâu, nếu Trẫm bằng lòng chịu yên một bề ở trung nguyên không ngó ngàng tới, có một ngày, đất đai, nhân dân, vải vóc rơi vào tay kẻ thù, xe vua, bản đồ đất nước không ra khỏi ải Gia Dụ, Trẫm hỏi khanh, đời sau nhìn Trẫm vị Hoàng đế này như thế nào? Lại bình phẩm như thế nào về ông quan “thanh liêm” “yêu dân như con như khanh?”
Vu Thành Long rung động cả người, ông ngây nhìn Khang Hy, không biết trả lời thế nào.
“Thành Thanh Giang bị nước lụt vây khốn, khanh giữ lương thực cứu dân, Trẫm thăng chức cho khanh, khanh kiện làm cho công bằng thuế sưu, tiêu diệt bọn cướp trong địa phận, Trẫm lại thăng chức cho khanh”. Ánh mắt Khang Hy long lanh thần sắc, nhìn ngọn nến lung linh, nói tiếp: “Bây giờ mảnh đất tây bắc béo bở bị chà đạp, hàng chục vạn dân đói tràn vào trung nguyên lánh nạn, Vu Thành Long, khanh không nhìn thấy, không nghe thấy, nên không nghĩ tới, có đúng không?” Vu Thành Long nghe, trong lòng bỗng đau nhói, mặt đỏ gay, hồi lâu mới nói: “Thần tầm nhìn nông cạn, Hoàng thượng sáng suốt, vùng đất xa xôi cũng phải được thấm nhuần ân trạch. Đã như vậy, thần xin gắng sức tuân lệnh!” “Vậy mới là chỗ dựa của quốc gia chứ!” Khang Hy trở lại bình thường, cười hì hì nói: “Quan trung thành, trong triều không thiếu, hưởng bổng lộc thờ vua, chỉ cần có chút lương tâm, đều có thể làm được chữ “trung”. Cái khó là làm quan “sáng” biết việc lớn, nhìn toàn cục, biết chịu thiệt trước mắt, người đại trượng phu như vậy thật là đáng quý. Đứng lên nói chuyện đi!”
Vu Thành Long đứng lên hơi khó khăn, ngẫm nghĩ lời nói của Khang Hy, thật như kim đâm, học hành bao năm vẫn không thoát khỏi cốt cách nhà nghèo, cảm thấy xấu hổ, hồi lâu mới nói: “Nghe lời thánh dụ như thoát khỏi lú lẫn mê muội, thần có tội thất kính, xin Hoàng thượng xử nghiêm cho!” Khang Hy không để ý lời xin tội của Vu Thành Long, nói tiếp, “Những bề tôi như khanh và Quách Tú, Trẫm không hề nghi ngờ về chữ “thanh” và “trung”, nhưng tâm địa hẹp hòi cũng là bệnh nặng. Luôn có ý vạch tội, tức là khanh quá háo danh, háo thắng. Nghiêm khắc tự kiềm chế, đi tìm nguyên nhân sự việc, phải từ ý niệm này mà suy nghĩ, với hai chữ “thận độc” (thận trọng riêng mình) còn cách xa lắm!” Nói xong bất giác bật cười: “Khanh về đi!”
Vu Thành Long về tới đài phủ, thấy Vu Lộc dẫn một đám quan lại, người nhà đợi ở cổng, đèn đuốc sáng trưng, trong lòng kinh ngạc. Ông khom người bước xuống kiệu hỏi: “Không phải tết nhất, các ngươi làm cái gì vậy? Ta chẳng đã từng căn dặn, chỉ cần có một đứa đợi ở cổng là được rồi”.
“Thưa Trung thừa, không phải nô tài cả gan, chính cụ bà bảo ạ, Trung thừa trở về gặp cụ bà ngay!” Vu Lộc cười hì hì đáp. Rồi cả đám người đều quỳ xuống, người kêu “Trung thừa”, người gọi “phủ quân”, “bộ viện, phủ đài, phủ hiến”, loạn cả lên. Trước những lời ca tụng inh ỏi, người có nỗi niềm tâm sự như Vu Thành Long không biết thế nào, nên hỏi: “Có gì đáng ca ngợi đâu, đứng cả lên! Tai các ngươi rất thính, trong kia Hoàng thượng vừa nói với ta, ngoài này các ngươi đều biết cả, cụ bà về lúc nào?” Nói xong đi vào. Vu Lộc liền chạy theo sau, nói: “Ông vừa đi thì cụ bà đã về tới, cụ bà vừa dùng cơm tối xong, tể tướng Minh ngồi kiệu tới thăm, chúc mừng và tặng quà cho cụ bà...”
Nghe tới đây, Vu Thành Long dừng bước, đầu không ngoảnh lại hỏi: “Ông ta đưa quà gì? cụ bà có nhận không?” “Cụ bà trước nay có nhận quà tặng đâu, cụ đã từ chối rồi”. Vu Lộc vội cười nói, “Quà tặng thì chẳng đáng giá gì, chỉ một tượng Quan âm bằng sứ”. Vu Thành Long nhếch mép cười: Mẹ ông ta không giống những người đàn bà bình thường khác, trước nay không ăn chay niệm Phật, chỉ tôn nho trọng đạo. Nếu quả thật Minh Châu mang tới bức tranh chữ của Cao Sĩ Kỳ, có lẽ bà nghĩ tình cũng nhận rồi. Nghĩ tới Minh Châu tìm cách lấy lòng không phải chỗ, Vu Thành Long cũng yên tâm nhiều. Đi mấy bước, vào nhà, thấy mẹ đang ngồi bên bàn uống trà, ông tới trước quỳ xuống, nói khẽ: “Kính chào mẹ, con đã về”. Mấy người cùng theo vào, thấy ông quỳ cũng nhất loạt quỳ xuống.
“Thành Long hả?” Cụ bà hai mắt đều mù, nhưng tai còn tốt, bà chống gậy đứng lên, tay run rẩy sờ soạng, mái tóc bạc trắng lung linh dưới ánh đèn. Vu Thành Long bỗng động lòng, hai hàng nước mắt tuôn trào, lạy xong ông vội đứng lên đỡ bà cụ ngồi xuống chiếc ghế tựa, quay lại nói với mọi người: “Các ngươi hôm nay bận rộn suốt ngày, cụ bà đêm nay vất vả, ta sẽ hầu hạ, buổi học tối nay cho nghỉ. Đã nói ta thăng chức là vui, ngày mai lấy trong tiền bổng của ta mười lượng bạc, mọi người vui một bữa, sau này theo ta đi nhậm chức nha môn tuần vũ Nam Kinh”.
Nguyên là từ sau khi Vu Thành Long thăng chức quan đạo đã quy định cứ đến ngày ba bảy thì giảng Tứ thư cho thuộc hạ, thân binh và người nhà. Hôm nay tới ngày giảng bài, nên mọi người đều không dám đi đâu. Nghe Vu Thành Long nói như vậy, vội lạy cáo từ. Không ngờ cụ bà khoát tay nói: “Tất cả trở lại! Việc phải làm không thể không làm, ta làm trở ngại việc các ngươi sao? Ta còn muốn nghe học vấn con bây giờ có tiến bộ hay không!” Vu Thành Long vội vâng dạ liên tiếp, gọi hầu gái tới đấm lưng cho bà, đợi cho mọi người ngồi xuống, liền bắt đầu giảng.
“Hôm nay giảng Mạnh Tử luận bàn với Vương Bá về nghĩa, lợi, lấy đạo để dạy dỗ cảm hóa người thiên hạ”. Với khuôn mặt gầy, ông vuốt vuốt cuốn sách trên bàn nói: “Người thiên hạ không chỉ có quân tử, mà cũng có tiểu nhân. Người quân tử thời của ta, thánh nhân lấy nghĩa mà dẫn dắt. Chữ ‘nghĩa’ có thể giải là ‘dương ngã’, ‘dương’ xưa có nghĩa là tường (tốt), tức là do tôi bản tính nhân, đi theo đuổi cát tường. Nghĩa ở chỗ nào? Vốn là ở trong lòng tôi! Thơ xưa có nói: ‘Chữ lợi có dao dựa vào, người tham còn tự sát’. Cho nên, đối với người quân tử, lợi hợp với nghĩa thì làm, trái với nghĩa thì bỏ...” Vì người nghe ông giảng rất tạp, trình độ khác nhau, cho nên Vu Thành Long giảng bài trong nha, một mặt nói lý, một mặt lấy nhiều câu chuyện cũ của thánh hiền xưa để so sánh, người nghe không cảm thấy chán. Ông nói khoảng thời gian đến một canh giờ mới nghỉ, rồi quay người vái cụ bà một cái nói: “Xin mẹ chỉ dạy cho”.
Bà Vu đặt cây gậy sang một bên, ho lên một tiếng nói: “Giảng cũng được. Có điều theo mẹ nghĩ, lòng người cái nhân đó vốn do trời sinh ra. Trung thần, hiếu tử chỉ là giữ được lương tâm vốn có, không bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu trên đời. Nếu cố tâm theo đuổi nghĩa, thì ngược lại trong bản tính đã có cái ‘ác’ rồi, nó không phù hợp với cái đạo của thánh nhân. Cho nên Khổng Tử nói ‘nhân có xa không? Ta muốn nhân thì nhân đến vậy!’ Các vị đều là người trong triều đình, làm việc cho triều đình, làm việc cho mình, nếu có thể làm theo lương tâm mình, tự nhiên sẽ phù hợp với đạo của thánh nhân. Thành Long, ta nói có đúng không?” Vu Thành Long vội cười nói: “Mẹ giảng như vậy có tác dụng chỉ đá thành vàng, con còn sơ sót”. Thực khách lâu năm trong phủ Vu Thành Long nghe không cảm thấy gì, nhưng những người từ Nam Kinh mới đến, có mấy vị xuất thân là tiến sĩ nghe một bà già mù áo vải giảng giải thấu tình đạt lý như vậy, ai cũng kinh ngạc nhìn nhau, nhưng còn không biết Vu Thành Long đầy bụng văn chương chữ nghĩa đều tiếp thu từ bà quả phụ cô đơn khốn khổ này. Nói thêm một lúc nữa, Vu Thành Long mới bảo mọi người về nghỉ.
Trong sảnh chỉ còn hai mẹ con Vu Thành Long. Vu Thành Long hỏi mẹ đi đường ấm lạnh thế nào, lại tự mình rót một chén trà táo lửa, cung kính dâng lên cho mẹ, rồi lui lại đứng hầu một bên.
“Thành Long”, một lúc lâu bà Vu mới nói nhẹ nhàng, “lần trước con gửi thư cho mẹ, nói sẽ viết sớ vạch tội Minh Châu, không biết con đã viết chưa?”
“Dạ chưa ạ!”
“Sao vậy?” Bà Vu nghiêng đầu hỏi, “Sợ rồi phải không?” Vu Thành Long cúi đầu suy nghĩ một lát, nói: “Con có sợ gì đâu, chỉ vì nên cân nhắc một chút. Mẹ có tuổi rồi nghĩ chi đến những chuyện đó”.
Bà Vu mỉm cười, nói: “Con không cho mẹ nghĩ những việc đó, cũng là phải thôi. Nhưng con đã viết thư báo cho mẹ, mẹ không thể không hỏi con suy nghĩ như thế nào!”
“Oai trời khó lường...” Vu Thành Long thở dài, nói giọng phiền muộn.
Có lúc một câu nói như một cửa cống, có thể chặn được muôn ngàn lời nói sắp tung ra. Bà Vu như run lạnh, bàn tay run run sờ vào đầu cán gậy trơn nhẵn. Hai mẹ con im lặng hồi lâu, bà Vu mới nói:
“Ta biết là khó làm, cho nên quyết tới đây xem thử. Việc ở đời vốn như thuyền chèo ngược nước, làm gì có chuyện dễ dàng? Minh Châu nắm quyền bao nhiêu năm, lại là quốc thích, Hoàng thượng coi trọng, quan dưới ngợi ca, con không muốn phá gia diệt tộc, thì đừng làm việc đó”.
Vu Thành Long nghe nói “phá gia diệt tộc” lòng bỗng nặng trĩu, đang định bẩm lại thì bà mẹ đã nói chậm rãi: “Đây không phải là việc của đàn bà, ta vốn không muốn hỏi con. Nhưng trước đây mấy ngày có nhiều người đến nhà, nói huyên thiên làm mẹ hoảng kinh. Một hiếu liêm nhà họ Liễu phía đông thành Thanh Giang ngày hôm đó ở trường thi Nam Kinh bỗng dưng dán quyển tự vẫn. Vì không có tiền đưa, người bị đuổi ra khỏi trường thi có đến mấy chục người! Con bây giờ là Tuần vũ rồi, đi ra là kiệu to tám người khênh, đi vào nhất hô bách dạ vâng, đối với những việc đó đứng trên bờ nhìn người khác chết chìm, như vậy con là ‘đầy tớ dân’ hay là ‘chủ của dân’?”
“Dạ...” Vu Thành Long nghe mẹ phản bác, một lúc không biết đối đáp thế nào, đành chỉ nói: “Mẹ dạy phải”. “Còn ông Cận Phụ, ta thấy cũng không phải là người tốt!” Bà Vu lại nói, “Nhà họ Thái, họ Lưu, họ Hoàng ở đông thành vốn là hộ khá giả, vì ruộng bị ngập nước đi buôn bán, bây giờ ruộng khô rồi, thì phải trả về chủ cũ, lại chiếm lấy làm đồn điền, lại đem bán, đó là cái lý gì vậy? Như Hoàng mướp đắng, trung thu năm ngoái đến thăm ta, anh ta còn là người công trình sông, trước kia bản thân cũng có mấy chục mẫu ruộng, bây giờ cũng phải bỏ tiền ra mua. Nhà giàu nhà nghèo đều bị ông ta đốc sông cho vào một lò nướng! Ngày mừng thọ ta, Cận Phụ sai tên họ Trần đưa lễ hai trăm bốn mươi lượng, ta không nói tốt. Ta nói, ‘Họ Vu một nhà trong sạch, không tiêu loại tiền nhơ bẩn! Cận Phụ bổng lộc mỗi năm chỉ hơn một trăm lượng, làm sao có số tiền đó mà cho ta? Há chẳng phải là xâu xé trên mồ hôi nước mắt của nhân công công trình sông sao’. Cận Phụ, Minh Châu chẳng cùng một duộc như nhau?”
Vu Thành Long bỗng nảy ra ý kiến: Nếu từ chuyện Cận Phụ chiếm đoạt của dân hơn một vạn khoảnh ruộng mà vạch ra, lập tức sẽ trở thành vụ án to rung động cả trong triều ngoài cõi! Minh Châu trước nay đắc ý việc tiến dụng Cận Phụ, ông ta tìm mọi cách bênh che cho Cận Phụ, Trần Hoàng, như thế này chẳng phải một mẻ lưới tóm sạch hết cả lũ sao? Nghe lời mẹ, mắt ông rực sáng, gật đầu liên hồi. Không lâu bỗng thần sắc u buồn trở lại, ông lắp bắp: “Mẹ ơi... cái đó... đó, e rằng liên lụy đến mẹ già...”
“Cái gì?” bà Vu bỗng mở to đôi mắt, hai con ngươi không còn nhìn thấy gì, dưới ánh đèn phát ra ánh sáng vừa trắng vừa sáng, nhìn thẳng Vu Thành Long, bà nghiêm giọng nói: “Mày nói lại một lần cho bà già này được lĩnh giáo!”
“Mày có biết cái nghĩa của ‘chồng chết theo con’ không?” Bà Vu nghe con sợ quá không nói được, bèn đổi giọng nhẹ nhàng hơn, “Con là Nhạc Phi, ta là mẹ Nhạc Phi; con là Tần Cối, ta sẽ là mẹ Tần Cối! đó tức là ‘chồng chết theo con’! Con nên suy nghĩ cho kỹ!” Nói xong chẳng thèm để ý Vu Thành Long, gọi hầu gái lại đỡ bà đi thẳng vào trong.
Cách một ngày đúng là mồng chín tháng năm, quan tư lễ giám suy đoán là ngày tốt hoàng đạo tế lễ Hiếu Lăng. Thánh chỉ hạ lệnh, Tuần vũ Giang Nam hộ tùng đi lễ. Khắc chính giờ Thìn, Vu Thành Long phụng chỉ đến hành cung đúng hẹn. Dọc đường người đã đông nghịt, người nào cũng muốn chiêm ngưỡng dung nhan, phong độ Hoàng đế. Đèn hương hai bên đường kéo dài đến cửa đông. Tiếng pháo đùng, mùi thuốc súng lan tỏa cả toàn thành. Từ lúc Tỉnh Nan Vĩnh Lạc khởi binh Nam Kinh trở thành một kinh đô phụ của đời Minh. Mười hai vị Hoàng đế lên ngôi đều đến Hiếu Lăng cúng tế vua tổ, những người già trên sáu mươi tuổi còn nhớ chuyện gặp vua Sùng Trinh hồi nhỏ. Nhưng hơn bốn mươi năm từ khi quân Thanh vào quan trung thì không còn thấy cảnh tượng đó nữa. Vu Thành Long mang một bầu tâm sự, khi đi đến bên cầu Kim Thủy, cố cung nhà Minh, thì nghi lễ đã sắp xong. Nào cờ rồng, roi da, giáo bạc, tán vàng loang loáng từ phía trước kéo tới, ông đều không chú ý, trong lòng chỉ tính toán làm sao được gặp riêng Khang Hy một lần. Đang suy tính bỗng nghe phía sau vang dội một tràng tiếng hô to “Vạn tuế!” Vu Thành Long ngước đầu nhìn, quả thấy xe ngự của Khang Hy vàng tươi sáng rực hiện lên phía trước.
Đó là một chiếc kiệu khảm vàng cao một trượng rưỡi do ba mươi sáu thái giám hoàng môn khênh, rèm vén cao, Hoàng đế Khang Hy ngồi vững vàng ở giữa, mặt sáng như ngọc, râu xanh hơi rủ, mặc áo rồng vàng, đội mũ lụa cao. Minh Châu đi trước, Sách Ngạch Đồ, Cao Sĩ Kỳ theo sau. Đâu đâu cũng vang lên tiếng trống chiêng, tiếng pháo, tiếng hoan hô vang trời dậy đất, đứng trước mặt nói chuyện cũng khó nghe rõ.
Khang Hy ngồi trong kiệu, thấy quan dân tôn sùng mừng rỡ, vua giơ tay lên bỗng nghĩ lại là đi Hiếu Lăng cúng lễ, phải nên tỏ ra trang trọng nghiêm túc, liền thả tay xuống, chỉ mỉm cười gật đầu với những người cúi chào làm lễ.
Nhưng xa giá ra khỏi thành thì lập tức trở lại quang cảnh yên tĩnh, ở đây Kim Ngô giới nghiêm, bá tánh không đến đây được. Hai bên con đường vua đi treo những tấm phướn vàng, mãi tận đến con đường thần Hiếu Lăng. Khang Hy quay nhìn chung quanh, dưới chân núi một màu xanh um, những tượng đá, sư tử đá đứng sừng sững trong những lùm cây, thạch lựu, sơn trà hoa đỏ lóe sáng như ngọn lửa. Bỗng Khang Hy nhớ tới lời Ngũ Thứ Hữu nói khi giảng bài “Người giỏi mở đầu tất thận trọng khi kết thúc, người cầu cái gần tất tìm tới cái xa”. Đó là câu danh ngôn thấu tình đạt lý! Bản thân mười lăm tuổi đích thân nắm quyền hành, mười chín tuổi, gạt bỏ ý mọi người, quyết định triệt phiên, không mấy năm, ‘Tam phiên’ dẹp yên, họ Trịnh ở Đài Loan cuốn cờ quy phục, có thể nói là “bắt đầu tốt”, nhưng còn “kết thúc thì phải thận trọng”, dẹp ổn phía nam Bắc Đại Mạc, việc đó vẫn chưa thể biết được. Ông nội từng lấy “bảy đại hận” cáo cùng trời đất, đối với triều Minh vốn không thể nói điều thân thiện. Nhưng hôm nay phải thu phục nhân tâm người Hán, cầu cái “gần” này thì không thể không truy thờ vong linh Chu Nguyên Chương hơn hai trăm năm trước. Trời đất tạo hóa rất khéo xếp đặt thật làm người không thể nghĩ ra. Khang Hy quay người lại đang định hỏi những thân sĩ lão thành nhà Minh trước đã mời có đến chờ ở Hiếu Lăng không thì bất chợt pháo lễ vang lên ba tiếng đùng đùng đùng rõ to, chấn động làm chim muông bay cháo chác, phủ Nội vụ thả ra tám trăm con hạc báo điềm lành bay lượn khắp trời. Thái giám tư lễ Tần Thương Ái vội tới trước kiệu cúi lạy tâu rằng: “Vạn tuế, phía trước là Hiếu Lăng, xin tới điện bên cạnh nghỉ một lát!”

