Khang Hy Đại Đế - TẬP 3 - Chương 49
49
Kính Khổng Tử Hoàng đế làm lễ lớn
Nghe tin dữ nàng Tô tỏ nỗi niềm
Sau khi tế Hiếu Lăng, Khang Hy vui chơi thích thú ở Nam Kinh. Nào là qua đêm trên sông Tần Hoài, xuôi dòng Đào Hoa, hồ Mạc Sầu, hồ Huyền Vũ, chùa Kê Minh, nhà lưng chừng núi, mỏm đá chim yến, bãi cò trắng, thành đầu đá, núi Thanh Lương, một ngày mấy nơi vui chơi thỏa thích. Từ khi lên ngôi đến giờ chưa lúc nào Khang Hy vui thú như bây giờ, chỉ khổ cho cả nhà Ngụy Đông Đình, dốc hết mọi thứ trong nhà ra cung phụng cho Khang Hy, ngày đêm tất bật, bận rộn rối như gà mắc tóc. Không ngờ đến ngày thứ tám, nhận được sớ tâu cấp tốc sáu trăm dặm của Phi Dương Cổ qua Hùng Tứ Lý chuyển về, Cát Nhĩ Đơn tập trung khoảng ba mươi vạn binh ở Ca Nhĩ Ca, thế như muốn rục rịch đánh xuống đông Mông Cổ. Cùng gửi theo sớ tâu có một mảnh tờ sớ của vương Khoa Nhĩ Tẩm, tâu nói Cát Nhĩ Đơn có hẹn đến xuân năm tới hội binh tại U-lan-bu-thông đánh xuống nam. Những sớ tâu của bộ Hộ, bộ Binh xin điều binh, điều lương đều đưa tới một xấp dày, đều có đóng ấn ngọc bốn tấc của Hoàng thái tử, có lời ghi “sự việc trọng đại, tâu xin Hoàng thượng quyết định”.
Nhận được mấy văn kiện khẩn, lòng Khang Hy trở nên căng thẳng, hứng du ngoạn đã tắt ngấm. Nhưng đồng thời cũng có chút hưng phấn: kế hoạch dụ địch về phía đông quả nhiên được thực hiện! Quả có thể cử binh tiêu diệt sạch quân chủ lực Cát Nhĩ Đơn tại Nội Mông! Nghĩ vậy, vua lập tức truyền chỉ lệnh các đại thần phòng dâng thư ngụ ở hành cung đến phủ Ngụy bàn việc.
“Đức Vạn tuế, lần đi thị sát phía nam này, thiên hạ thật là hòa đồng với nhau rồi!” Minh Châu vừa vào cửa đã nói rất hào hứng. Râu ông được cắt tỉa nghiêm chỉnh, hiện lên khuôn mặt rạng rỡ . “Các phiên bang bên ngoài, như Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng, bộ tộc Hồi Trác Mộc, Đài Cát ở Thanh Hải bảy tám năm không giữ đạo thần phục nay cũng dùng ngựa nhanh dâng biểu chúc mừng!”
“Ừm, tốt, tốt!” Khang Hy mặt mày hớn hở thuận tay nhận tờ danh sách lược kê ngắn gọn số biểu chúc mừng, liếc mắt nhìn qua, nói: “Khanh quả là làm việc giỏi giang, nét bút này xem qua cũng rõ rồi!” Minh Châu vội cười nói: “Gần đèn thì sáng mà! Nô tài ngày nào cũng gần gũi bút pháp của Chúa thượng, đương nhiên cũng có tiến bộ ít nhiều”. Khang Hy cười nói: “Thư pháp coi trọng khí thế thần vận, ý mà trung chính thì chữ mới xuất thần. Đây không phải là chuyện nói chơi cửa miệng, có phải việc gì khanh cũng học theo Trẫm chăng? Trẫm biết xem thiên văn, xem địa lý, tính được sự khác biệt giữa hoàng đạo, xích đạo, hiểu âm nhạc, thông thạo tiếng di, tinh diễn số học, khanh đều làm được chứ? E khanh còn phải học nhiều năm nữa mới được đấy!” Nói xong bỗng nhiên cười to.
Những lời cảnh cáo nghiêm trọng này, Khang Hy nói ra trong lúc vui cười, Cao Sĩ Kỳ nghe ớn lạnh xương sống, nhưng Minh Châu không cảm thấy gì, chỉ mỉm cười nghiêng mình nói: “Đương nhiên rồi! Căn bản nô tài cũng không dám nghĩ việc gì cũng học theo Chúa thượng, nô tài đâu có tài năng lớn như vậy?” Không khí lúc này rất sôi nổi vui vẻ, nên Khang Hy nói: “Sự nịnh bợ giả dối xưa cũng đã có, Trẫm không mắc bẫy đâu! Lòng Trẫm vui là vì rất nhiều bô lão đã viết thơ từ ca ngợi việc tế Hiếu Lăng, điều này khó có. Những người này không xuất phát từ tấm lòng chân thực, thì nhất quyết không tùy tiện dễ dàng làm loại văn chương này. Sao không thấy có Cố Viêm Vũ?” Minh Châu vội đáp: “Hai người Cố Viêm Vũ và Hoàng Tông Hy không được mời tới, nên không có biểu mừng và thư từ”.
“Rừng to rồi, chim gì cũng có”. Sách Ngạch Đồ mấy ngày nay tỏ ra rất hoạt bát, bộ ria mép chữ bát mới cắt tỉa đen lánh, ông chớp mắt nói, “Họ Cố, họ Hoàng rất không biết điều! Nô tài sẽ phát công văn cho tuần vũ Triết Giang, bảo hai người phải làm bổ sung dâng nộp lên!” Minh Châu cười nói: “Ông ba nói tuy đúng, nhưng Chúa thượng cần là sự thần phục thực lòng, bây giờ không cần bò không muốn uống nước, cố ấn đầu bò xuống bể nước bắt uống”.
Khang Hy gật gật đầu, nhẹ nhàng đặt tờ danh sách xuống bàn, nói: “Minh Châu nói rất đúng, cảm hóa con người phải dựa vào đức hạnh, không thể dựa quyền lực, có điều Trẫm không bắt buộc họ, còn có một ý nghĩa khác. Các người Cố Viêm Vũ, Hoàng Tông Hy đã là đương kim Thủ Dương nghĩa sĩ, trước sau như một trung thành với nhà Minh trước, phong độ khí tiết đó thật đáng quý, quả thật Trẫm thương kính tấm lòng, khí tiết của họ! Trong sơn dã có mấy người như vậy, Trẫm xem chẳng những không có gì xấu, mà ngược lại có thể duy trì phong cách thế gian, dựng lên mẫu hình đẹp cho kẻ sĩ, cần gì phải bức bách người ta vào thế bí?” Nói những câu này lời nặng ý sâu, quả nhiên đã qua suy sâu nghĩ kỹ, mọi người nghe như ngậm hột thị, càng ngẫm nghĩ càng thấy ý vị vô cùng. Cao Sĩ Kỳ lòng như trống rỗng, không phải anh không hiểu ý của Khang Hy, mà cảm thấy tâm tư của Khang Hy càng ngày càng sâu sắc khó lường: Nếu nói trong lòng ghét bỏ Minh Châu, thì không thấy có chút biểu hiện gì trên sắc mặt, đã không tiến hành tra xét, mà lại bí mật lưu giữ, đó là ý gì vậy? Vốn biết Khang Hy ghét Tiền Khiêm Ích, Hồng Thừa Trù, đám quan nhà Minh đầu hàng nhà Thanh, nhưng lại thương xót Hồng Nhược Chỉ! Ngài thiên tử non ba mươi tuổi này rốt cuộc nghĩ gì? Đang suy tư thì đã nghe Khang Hy nói như cười mà không cười: “Minh Châu, khanh đừng có vì lời Trẫm mà bạc đãi Nhược Chỉ, họa phúc, sống chết, vinh nhục là do ý Trẫm, Trẫm có cái lý của mình, khanh hiểu chứ?”
“Hiểu ạ!” Minh Châu vội đáp “Nô tài phải đối xử tốt với cô ta như trước nay”.
“Nói chuyện quân nhé”. Khang Hy xếp đống sớ tâu trên bàn, coi như trở lại câu chuyện chính, “Các sớ tâu này, nhất định các khanh đã xem qua rồi, Trẫm định lập tức trở về kinh để xử lý, các khanh thấy thế nào?”
Sách Ngạch Đồ nói: “Chúa thượng không nên vội trong lúc này, mùa xuân sang năm, tuyết tan, cỏ tốt Cát Nhĩ Đơn mới dám đến, đâu có thể đến đánh ngay lập tức? Chúa thượng vội vàng về kinh, tỏ ra sự thể khẩn cấp, lại làm cho kẻ dưới hoảng hốt không yên”. Minh Châu nói: “Sách Ngạch Đồ nói không sai, nhưng để một việc to như thế này trong lòng; e rằng Chúa thượng không còn hào hứng thưởng thức cảnh đẹp Giang Nam. Mấy ngày nay nô tài thấy, kỳ thực, Nam Kinh không có ý nghĩa lớn. Nhà cửa giống nhau, có điều mái hiên ngói không trát bằng bùn đất; tường cũng giống nhau, có điều quét vôi trắng nhiều hơn. Phía bắc, việc quân việc nước trọng đại xếp đống như núi, hình như không nên ở mãi đây nghe ca xem múa...”. Lời nói khôi hài, nhưng sắc mặt lại rất nghiêm túc, mọi người nghe, muốn cười nhưng không dám cười. Khang Hy cười nói: “Những cái đáng xem ở Giang Nam không phải ít, nhưng bây giờ Trẫm không thấy hào hứng là sự thật”. Mặt nhà vua có vẻ cười nhưng giọng có hơi run, “Hồi đó Trẫm bị người ta bắt ép như thế nào? Trẫm với tư cách là Ông vua Thiên triều mà ngay cả một cô gái yếu đuối cũng không che chở nổi. Trẫm đợi hắn mười mấy năm, quả nhiên hắn tới, hắn dám tới thật! Trời cao trao cho Trẫm trách nhiệm lớn, ổn định biên giới phía tây, tiêu diệt bọn sói ác, Trẫm đâu dám trái lệnh?” Nhà vua càng nói càng xúc động, mắt lóe sáng nghiêm nghị, lạnh lùng, hàm răng nghiến chặt, lời nói như phát ra từ các kẽ răng.
Thấy bộ dạng đó, Cao Sĩ Kỳ sợ nhất nhà vua nhắc chân là đi ngay, thì sẽ làm cho dân chúng Nam Kinh bất an, nên kéo dài giọng, cười nói: “Nô tài cho rằng Sách Ngạch Đồ nói có lý. Cứ thong dong nói cười mà về bắc là tốt nhất, vẫn theo đúng ý định, ở Nam Kinh thêm ba hôm, người đáng gặp thì cứ gặp, cũng theo kế hoạch đi Sơn Đông viếng miếu Khổng Tử, bái tiên sư. Ngoài thong dong, trong khẩn trương, điều động quân đội phía bắc, và lương hướng. Cứ đường hoàng như không mà việc lớn cũng làm, mà bá tánh cũng không vì thế mà xao động bất an, thế chẳng phải là lưỡng toàn, tốt đẹp cả sao?”
Khang Hy nghe vậy như bừng tỉnh ra. Việc đi thị sát phía nam vốn là tô điểm cho bộ mặt thái bình làm cho thiên hạ thấy đã đạt đến chỗ thịnh trị tốt đẹp, ổn định lòng dân Giang Nam. Bây giờ vội vã bỏ đi, bá tánh không nghi ngờ sao? Nguyên nhà vua muốn một bước về ngay Bắc Kinh, tức khắc bắt tay điều binh khiển tướng, ngự giá thân chinh. Bây giờ đã định thần lại, nhà vua khoan khoái cười nói: “Được, y theo ý các khanh! Từ lâu đã nghe tiếng Khổng Thượng Nhậm, cuốn Đào hoa phiến ông viết Trẫm cũng đã được đọc kịch bản gốc, lần này viếng miếu Khổng Tử, cũng muốn gặp mặt người này”. Cao Sĩ Kỳ nghiêng đầu suy nghĩ, nói: “Hoàng thượng tế Khổng Tử, cũng giống như cúng Hiếu Lăng, đều là việc lớn. Không có Hùng Tứ Lý thì không biết nghi thức sắp đặt ra sao, xin Hoàng thượng cho phép nô tài tức khắc thảo chiếu lệnh tuần vũ Sơn Đông chuẩn bị chu đáo”. Khang Hy suy nghĩ rồi nói: “Khổng Tử còn có tên là Tố Vương, là thầy của các đời đế vương. Đương nhiên Trẫm làm lễ với tư cách học trò - không, lấy tư cách là quan. Cứ theo lệ Hiếu Lăng, làm đại lễ ba quỳ chín lạy!”
Cao Sĩ Kỳ kinh ngạc nói: “Theo nô tài được biết, các đời đế vương viếng chầu Khổng Tử, chưa có ai làm lễ với tư cách quan. Nhiều nhất chỉ là hai quỳ sáu lạy, Hoàng thượng có phải...”.
“Thì có sao đâu!” Khang Hy ưỡn người lên, nói lạnh lùng, “Cũng là vì giang sơn xã tắc! Mạnh Tử nói xã tắc là trọng vua là khinh, ngày xưa ...” Nhà vua bỗng dừng lại, không nói tiếp. Vốn nhà vua định nói: Ngày xưa Nguyên Thế Tổ dẫn quân xông vào miếu Khổng Tử, nói Khổng Tử có giảng câu “Di địch mà có vua, không bằng Hoa Hạ mà không vua”, đã dương cung bắn một mũi tên vào tượng Khổng Phu Tử, làm cho văn nhân trong thiên hạ nghiến răng than thở. Vì sao Trẫm phải học theo ông ta? Bây giờ nói ra thì thật là bất nhã, nên Khang Hy dừng lại, chỉ nói: “Vậy thì chúng ta quyết định chậm một chút, ven theo đường bộ Trường Giang về phía đông, đến Qua Châu vượt sông”. Nói xong đứng lên đi. Mọi người ở lại bàn bạc các việc chuẩn bị, phòng vệ, đi đường, ăn ở... Cao Sĩ Kỳ thảo chiếu gửi cho tuần vũ các tỉnh Sơn Đông, An Huy.
Từ khi nghe phong thanh tin Cát Nhĩ Đơn chuẩn bị đánh xuống đông, Tú Quý phi nóng lòng thất kinh hồn vía, ngày mong đêm ngóng Khang Hy sớm trở về. Nàng là con gái Mông Cổ, từ nhỏ sống trên yên ngựa, từ khi theo Khang Hy, sống trong cung cấm với bao quy định nhàm chán chết người! Nói thêm một câu, đi thêm một bước, đều đã có bà vú, cung nhân quản giáo, giống như sống trong nhà tù, nàng đều nhịn được. Ký ức xưa cũ đối với Trần Hoàng dần dần xa vời mờ nhạt, nhưng mối thù sâu như biển máu cứ lặng lẽ tăng lên trong sự cô đơn vô cùng tận, như ngọn lửa đỏ phừng phừng thiêu đốt lòng nàng. Càng ngày nàng càng trở nên cao ngạo. Huệ phi Nạp Lan được tặng bức thêu Tô Châu Giang Nam, ngày sinh của Vinh phi Mã Giai, Quý phi Nữu Cô Lục dâng bản chép tay Kinh Kim cương được Thái hoàng Thái hậu khen thưởng... Mọi người đều chạy tới chúc mừng chuyện vãn, nàng đều lười không muốn đến. Chỉ có Đức phi Ô Nha cũng là người Mông Cổ, tuy tính cách đã không còn như cũ, nhưng hiểu sâu tâm tư nàng, nên thường lui tới.
Mãi tới ngày mồng 7 tháng 6, nghe nói xa giá Khang Hy vào thành, con tim A Tú đập thình thình, nàng suy tính gặp được Khang Hy thì nói thế nào để Khang Hy đưa mình cùng đi xuất chinh, đường đi nên chọn theo con đường nào, nên cưỡi ngựa hay nên ngồi xe, lúc thì muốn bắt ngay Cát Nhĩ Đơn, lúc thì muốn gặp lại cha, anh, chú. Nhưng lại nghĩ, vạn nhất Khang Hy không đưa mình theo thì làm thế nào? Bao nhiêu ý nghĩ dày vò A Tú, lúc thì mạch máu căng thẳng sôi sục, lúc thì lạnh ngắt như rơi vào hố băng. Nhưng Khang Hy trở về mấy ngày mà vẫn chưa được gặp, A Tú sai người tìm bà vú Tinh Kỳ hỏi, mới biết mấy ngày nay, Khang Hy đều tiếp đại thần. Lại nhân tế miếu Khổng Tử, tự viết mấy chữ “Vạn thế sư biểu”(Thầy mẫu mực muôn đời) ban bố cho các học cung trong thiên hạ. Còn việc quân sự thì một chút tin tức cũng không nghe thấy.
“Còn bà Hàn Thị?” A Tú hỏi, “Lẽ nào bà cũng bận đến nỗi không tới thăm ta được?” Bà vú Tinh Kỳ rất nhanh nhảu, vội cười nói: “Nhất định Quý phi mong Hoàng thượng tới? Bà quên rồi sao, bà có mang đã mấy tháng, làm sao Hoàng thượng lại giở đến thẻ của bà? Nghe nói bà mẹ Hàn lần này theo Hoàng thượng đi nam lập công to, được nghỉ phép ở nhà, không biết chừng còn được phong Cáo mệnh, chỉ sợ mấy ngày nữa mới trở về. Bà yên tâm đi, Hoàng thượng yêu bà như thế nào, không thể không tới”. Một bầu tâm sự tự mồm bà già này nói ra không chút che đậy làm A Tú đỏ mặt, nàng đang định nói thì con anh vũ trong lồng son dưới hành lang bỗng kêu lên:
“Hoàng thượng tới, Hoàng thượng tới! Quý chúa tiếp giá!”
A Tú ngước đầu nhìn, quả thấy Khang Hy mặc áo sợi gai trắng, ngoài khoác chiếc áo gai màu đá xanh, cũng không đội mũ, phe phẩy chiếc quạt xếp to đi tới. A Tú thấy mủi lòng, nước mắt ràn rụa, chỉ vì không thể trái với phép tắc hoàng gia, vội gạt nước mắt cúi đầu quỳ xuống, nói khẽ: “Nô tỳ A Tú thỉnh an Hoàng thượng!”
“Đứng dậy, đứng dậy!” Khang Hy nóng bức, mồ hôi nhễ nhại, nắm tay kéo A Tú đứng lên, “Nàng sức khỏe... về sau miễn cái lễ này. Cái nhà này cũng nóng quá, quạt cũng không ăn thua, phải lấy một ít đá lạnh đựng trong chậu hoa đặt trong góc phòng, lạnh quá cũng không tốt!” Khang Hy vừa nói vừa cười, quay đầu nhìn thấy bà vú Tinh Kỳ vẫn còn quỳ một bên, bèn nói: “Không nghe thấy Trẫm nói sao? Đi làm đi!” Bà vú già vội lui ra.
Bây giờ Khang Hy mới ngồi xuống ngắm kỹ A Tú: tóc phượng vấn cao, thoa sáng hạt châu, má thơm hơi đỏ, đầu cúi xuống cứ mân mê tà áo, vua bất chợt nói: “Sắc đẹp càng ngày càng thêm xinh, nàng trang điểm như thế này, hương thơm này, thật khiến người ta mất hồn! - Có nhớ Trẫm không?” vừa nói vừa xích tới gần, tay xoa cái bụng thon của A Tú hơi nhô lên, nhìn ra bên ngoài, ánh mặt trời chói chang, vua thơm lên má A Tú một cái, nói thân mật: “Nếu nàng sinh thêm cho ta một hoàng tử, thì là hoàng tử thứ mười ba đấy! Trẫm đã nghĩ kỹ đặt tên cho nó rồi, là Dận Tường, Tường là cát tường như ý, nàng có vừa lòng không, hả?”
A Tú rúc đầu vào trong lòng nóng hổi của Khang Hy, hồi lâu mới gật đầu ừm một tiếng, trong bụng không biết là chua hay là ngọt, nước mắt trào ra. Khang Hy vội vỗ về nói: “Nàng đừng như vậy, Trẫm biết nàng không quen sống trong cung, lâu rồi sẽ đỡ hơn. Hiện nay đang xây hành cung ở Nhiệt Hà, đến lúc đó cứ mùa hè là Trẫm đưa nàng đi, vừa mát mẻ, lại vừa gần Mông Cổ, nàng muốn cưỡi ngựa muốn săn bắn gì cũng được!” Ai ngờ, không vỗ về còn được nghe những lời này A Tú càng không chịu nổi, nàng bật khóc tức tưởi.
“Nàng làm sao vậy?” Khang Hy từ từ nâng khuôn mặt A Tú tràn đầy nước mắt, “Trong người không khỏe chăng?”
“Không phải...” A Tú nhẹ nhàng gỡ tay Khang Hy ra, nói “Chúa thượng chinh tây, có chịu đưa thiếp theo không?”
Té ra là như vậy! Khang Hy buông A Tú ra, hít vào một hơi thật dài, than rằng: “Nếu đi thì sao không đưa nàng theo được? Có điều bây giờ đi không được!” Nhìn ánh mắt ngơ ngác của A Tú, Khang Hy nói chậm rãi: “Việc này, nàng cũng đừng nên đau lòng, trong bụng Trẫm cũng đã tự có chủ trương. Nàng cũng biết đó, Cát Nhĩ Đơn rất mạnh, không thể hành động vội vàng. Cụ Phật bà hôm qua đi thăm Tô Ma Lạt Cô, cơm tối cũng không ăn được, thái y bảo phải nhịn ăn vì không tiêu hóa được, Trẫm phải đi thăm. Tô Ma Lạt Cô bệnh lần này xem ra không nhẹ, các người đã có thời gian hiểu biết nhau, nàng cũng nên đi thăm xem. À, về Bắc Kinh mấy ngày không trôi chảy chút nào, trong cung, ngoài cung hết chuyện nọ đến chuyện kia, Trẫm cũng phiền lòng...”. Nói xong, căn dặn nhiều điều rồi đứng lên đi.
Việc Tô Ma Lạt Cô bệnh, hôm qua A Tú đã nghe nói, vì nàng có mang, Thái hoàng Thái hậu sai người truyền lời, nói bệnh không can hệ gì, sợ người bệnh trong phòng không sạch sẽ ảnh hưởng đến cái thai, nên lệnh cho A Tú và Định phi Vạn Lưu Cáp đang mang thai không cần tới. Nay nghe Khang Hy nói thì bệnh không nhẹ. A Tú tiễn Khang Hy đi xong, lập tức sai người chuẩn bị kiệu đi thăm Tô Ma Lạt Cô. Vừa qua cửa Thùy Hoa cung Trữ Tú, thấy Cao Sĩ Kỳ phía trước đi tới, bèn dừng kiệu hỏi: “Anh đi khám bệnh cho đại sư rồi hả? Rốt cục bệnh thế nào?”
“Quý phi đó à!” Cao Sĩ Kỳ chào thỉnh an, rồi chau mày trầm ngâm nói: “Tôi vốn phụng chỉ tới xem mạch cho cụ Phật bà, cũng không nghĩ Tô đại sư bệnh đến mức đó, xem ra...” nói tới đây thì ngừng lời. Vốn anh định nói xem ra có người để lộ tin Ngũ Thứ Hữu chết; nghĩ ra không có bằng cứ gì, anh ngừng lời, chỉ nói: “Hồi đầu tôi có nói đại sư mắc chứng đèn khô hết dầu, xem ra đã tới lúc rồi! Sức người không thể làm gì được, cũng chỉ đành như vậy thôi”. A Tú gật gật đầu, rồi hỏi, “Anh đã xem mạch cụ Phật bà chưa?” “Vẫn chưa”. Cao Sĩ Kỳ đáp, “Tôi phụng chỉ đến cung Trai giới, người ở đó nói cụ Phật bà trở về cung Từ Ninh rồi, tôi vội trở về”.
A Tú nhìn chung quanh không có người, nàng lắp bắp một hồi mới nói: “Lần này tùy giá theo vua thị sát phía nam, đi đường thủy hay đi đường bộ, công trình sông nghe nói xây khá lắm?” Cao Sĩ Kỳ mới nghe đã biết là hỏi Trần Hoàng, anh không dám nói nhiều chung quanh chuyện này, nên cười nói: “Công trình sông xây rất tốt, đều do Cận Phụ biết dùng người giỏi, một tờ giấy tiến cử đưa lên, khối người thăng quan nhé! - Quý phi đi thăm Tô đại sư hả? Huệ phi và Nghi phi, Lương phi đều ở đó cả!” Không nghe A Tú nói gì, anh phất tay áo chào rồi đi.
A Tú bước vào tiểu Phật đường trong cung Chung Túy, vừa gặp Huệ phi Nạp Lan và Nghi phi Quách Lạc La, Lương phi Vệ Thị, bên trong từ biệt đi ra, bốn người chào nhau dưới chân bồn hoa. Lương phi Vệ Thị xuất thân là nô tỳ có tội, thân phận thấp hèn, gặp người rất ít nói chuyện, thấy A Tú làm lễ chào rồi lặng lẽ lui ra một bên, Quách Lạc La lại là Cách cách của chủ cờ vàng Chính, thân phận cao quý, vào cung sáu năm liên tiếp sinh ba hoàng tử, không thích bắt chuyện với người khác, chỉ cười suông một tiếng rồi vênh mặt đi, chỉ có Huệ phi, cũng lanh lợi hoạt bát giống như ông anh Minh Châu. Bà mỉm cười chạy tới nắm tay, kêu em ngọt xớt nói một thôi một hồi rồi mới cùng Lương phi đi ra. A Tú biết Nghi phi và Nạp Lan có thân mật, tuy người nóng, người lạnh, nhưng trong bụng không coi ra gì một Cách cách không có cha mẹ như mình. Nhưng hai người này, một người là kiều nữ của vương mũ sắt Mãn Châu, một người là em họ quan đại thần phụ chính, biết rõ là không làm gì được họ, trong lòng tuy lạnh nhưng cũng không dám tỏ ra trên sắc mặt, bà đứng đực ra dưới ánh mặt trời một chặp mới vén rèm bước vào Phật đường.
Tô Ma Lạt Cô nằm dựa trên sạp, mái tóc xõa tung chỉ hơi quấn lại một đoạn, thả thòng xuống từ chiếc gối đen. Trời nóng bức, đắp chăn kép vẫn khe khẽ run như không chịu nổi cái lạnh. Nhưng thần sắc xem ra còn khá, gương mặt nhợt nhạt tuy không còn sắc máu, nhưng vẫn mỉm cười. Thấy A Tú bước vào, đôi mắt bỗng lóe sáng, nói giọng yếu ớt: “Ngồi xuống, xích gần lại một chút, dễ nói chuyện”. A Tú nghe giọng nói văng vẳng như từ một nơi nào xa xôi truyền tới, bất giác nàng thấy rét run. Ngồi sát bên Tô Ma Lạt Cô, nàng ôn tồn nói: “Đại sư bây giờ thế nào? Tốt xấu gì cũng phải chú ý đến mình...” vừa nói vừa cảm thấy khóe mắt ướt ướt.
“Em yêu của chị”, Tô Ma Lạt Cô đưa tay ra, vuốt lưng A Tú, mắt nhìn lên trần trang trí trên đỉnh Phật đường, nói, “đại hạn tới rồi, e không qua được mấy ngày, cảm ơn em còn nghĩ đến tới thăm chị...”
A Tú lau nước mắt tém cái góc chăn cho bà, nói: “Đừng nói vậy, đây chỉ là cái hạn trong một lúc, Cao Sĩ Kỳ nói không can gì. Sao hạn qua rồi, chị còn đến chỗ em giảng kinh Phật, em rất thích nghe!” Tô Ma Lạt Cô thở dài một tiếng: “Một đời ta gây nghiệp chướng quá nhiều, bạc mệnh là do mình tự tạo ra. Mấy chục năm nay tự mình tu tỉnh, mới biết ta vốn không nên đến cái thế gian này, càng không nên làm người Mãn vào cung. Bây giờ sắp đi xa, quay về lại thuở ban đầu, những lời này chỉ có thể nói với em và Tứ Cách cách!”
“Ừm, em đang nghe đây...” A Tú nghẹn ngào nói, “chị phải nghĩ thoáng một chút, bệnh này không phải chỉ là bệnh ho sao? Thật ra không quan trọng mấy”.
Tô Ma Lạt Cô lắc đầu, nói chậm rãi: “Có một câu, chị phải nói với em, em mới ban đầu vào cung, chị đã từng khuyên Hoàng thượng thả em ra, bây giờ em đã có rồi... Lời này chỉ nói vuốt đuôi. Chỉ cần em phải lưu ý, trong mười mấy phi tần ở đây, người tốt bụng thì ít. Có người bề ngoài tốt nhưng mưu mô bên trong, có người không nói không rằng, chỉ lo tính cho mình - em có hiểu không? Vào cung coi như vào tù, nếu em sinh con trai, theo nó lo việc nhà, thì người thế cô lực mỏng như em, chỉ có thể làm nhân bánh cho người khác ăn... người sắp chết, lời nói cũng lành, tốt xấu gì em phải ghi nhớ lấy, yên phận tránh qua một bên là thượng sách...” đang nói bỗng ho một tràng dài, bà nhổ vào ống nhổ một búng đờm có máu, A Tú vội thu dọn, rồi nức nở: “Đại sư... đừng nói nữa, em đã hiểu rõ rồi. Ngày thường tuy chị không nói, nhưng em biết chị tốt với em, em cũng là người số khổ, em biết nỗi lòng chị!” “Chị sáu tuổi đã tiến cung, biết được nơi đây thế nào rồi, kiếp sau nhất định không tới”. Tô Ma Lạt Cô nói, nhắm mắt dưỡng thần một hồi lâu, bỗng mở mắt ra nói: “Có một lần ta đến cung Dực Khôn, nghe em đánh đàn Không hầu, thật hay, giống như về nhà cũ. Nhà chị không biết ở nơi nào tại Mãn Châu, có lẽ cách thảo nguyên không xa, em đàn thật là hay... đáng tiếc, ta ở đây không có Không hầu...”.
A Tú nghe bà nói, cõi lòng tan nát, vì thấy trong tủ có chiếc đàn cổ, bèn đứng lên lấy xuống, phủi sạch bụi, thấy dây quân đứt ra loằng ngoằng, nàng bỗng động lòng, nhớ lại chiếc Không hầu mình đã bứt đứt dây. Nàng vừa nối dây, vừa ngấn lệ cười nói: “Đại sư đã thích nghe, em xin đánh một khúc cho chị nghe”. Nàng thử dây cung thương, nhẹ nhàng bấm phím, tay phải gảy mạnh, tiếng đàn thánh thót tình tang ngân vang lên không trung. Không phải điệu “Bình sa lạc nhạn” (nhạn rơi cát bằng), “Dạ thâm trầm” (đêm thâm trầm), mà là “Nại hà kiều” mấy năm trước nàng từng gảy tại Tùng Chủng. Nhưng không dám ngâm lên lời ca, chỉ là hiểu lòng hiểu ý mà thôi.

