Khang Hy Đại Đế - TẬP 4 - Chương 44

44

Tuần đêm góc thành gặp người đàn bà cô đơn

Khoe võ công khiếp lui kẻ cướp đường

Hạ Mạnh Phủ đã kinh hãi sắc mặt trắng bệch, chỉ một mực lạy ròng, nài nỉ van xin: “Tứ gia sáng suốt... Quả thật Nhị A ca bức bách không còn cách nào, làm chuyện không phải này... cầu xin Tứ gia siêu sinh...”.

“Ừ”. Dận Chân đồng ý không rõ là việc gì, anh cầm bức thư, cẩn thận đưa cho Đức Lăng Thái, “Lấy lửa hơ cho khô. Cẩn thận một chút, đừng có làm nhàu nát”. Rồi anh cười nói với Hạ Mạnh Phủ: “Ngươi làm điều không phải đó, quả là có tội với trời, không thể cầu xin! Bảo ta làm sao che chở cho ngươi?” Hạ Mạnh Phủ toàn thân lắc lư, cứ run bần bật chỉ biết lạy khan. Một hồi lâu mới đem chuyện gặp Dận Nhưng, xem bệnh thế nào, viết thư thế nào, rồi sai mình đem thư ra như thế nào, kể lể tỉ mỉ đầu đuôi. Mọi người nghe ai cũng sững sờ. Dận Chân ngồi ngây suy nghĩ cả buổi, bỗng thấy như bị hít phải luồng khí lạnh, nếu cứ thế này đưa tên Hà đi tranh công, chẳng những người bè đảng Thái tử xem mình là phản nghịch, ngay cả người khác cũng khó tránh khỏi bàn tán nói mình cháy nhà ra mặt chuột, là cách hành động của tiểu nhân. Nhưng việc này sờ sờ ra đó, khó lòng che dấu, nếu cố dẹp đi thì hậu quả không thể tưởng tượng nổi. Khi Hạ Mạnh Phủ nói xong, Dận Chân đã có chủ định, anh thở dài nói: “Nhị A ca mưu đồ khổ sở biết bao! Tấm lòng này nếu dùng cho việc trung hiếu thì đâu đến nổi bị lâm vào vòng bất trắc! Ngươi nói xem, có đúng không, Đức Lăng Thái?”

Đức Lăng Thái đâu biết vị Ung thân vương này trong phút chốc đã xoay chuyển bao nhiêu ý nghĩ, vội nói: “Đúng quá đi chứ! Nhị gia nếu mà nghĩ ra, rồi đường hoàng chính đáng trình lên một bản điều trần, chẳng tốt sao? Nhưng lại dấu diếm, lén lút thế này chẳng ra cái thể thống gì!”

“Đúng là như vậy”. Dận Chân gật đầu, như vô cùng nuối tiếc, “Ta là con người cho dù tim có vỡ ra thì người ta cũng không biết. Thực ra ý nghĩa huyền diệu của Phật tam thừa, quy cho tới cùng là chữ ‘thiện’. Xét việc làm của ngươi hôm nay, chỉ cần vào tâu, thì người đã bị xử chết lăng trì. Bây giờ bảo ta làm sao đây?” Anh làm ra vẻ trầm ngâm, một hồi lâu, mới khoát tay gọi mọi người vào, chỉ Hạ Mạnh Phủ nói: “Mạnh Phủ là người trước nay cẩn thận, trong cung, bất kể người lớn kẻ nhỏ hễ có bệnh, ông ta khám bệnh cũng hết lòng. Thế tử thứ hai của ta Hoằng Lịch thuở nhỏ bị đậu mùa, cũng do ông ta hầu hạ qua khỏi. Bây giờ ta muốn bảo lãnh cho ông mạng sống. Nếu các ngươi không muốn, ta cũng bảo lãnh; còn nếu muốn, ta tính như thế này, nói ra để mọi người tham gia”.

Mọi người nghe, đều nhìn nhau, vừa rồi lục soát Hạ Mạnh Phủ, Dận Chân rất là nghiêm túc, sao bây giờ lại nói như vậy? Một thái giám bèn chọc cười, nói: “Cứu một mạng người còn hơn xây tháp bảy tầng, không có nguyên do thì ai chịu làm người ác, để cho oan hồn quấn chân! Tứ gia cứ việc sai bảo!” Dận Chân nói: “Đó mới là người minh bạch! Hồi trước sắc trắng trong cung cụ Phật bà, nói là oan hồn quấn chết! Nhị gia bị tù bảy năm, muốn được ra cũng là lẽ thường tình. Chỉ không nên lén sai người mang thư, mà hại Hạ Mạnh Phủ mang tội nặng đến nổi quỷ không ra quỷ, giặc không ra giặc. Ta nghĩ, coi như Hạ Mạnh Phủ tự thú báo cáo tố giác Dận Nhưng, sự việc coi như cho qua. Một là, đức Vạn tuế nhất định sẽ có thưởng, Hạ Mạnh Phủ, ngươi lấy khoảng một ngàn lượng bạc chia cho những người đêm nay có mặt ở đây, mọi người đều được lợi, ngươi cũng được sống - như vậy được không?”

Nghe xong những lời này, ai cũng nở mày nở mặt: Hôm nay tí nữa thì để Hạ Mạnh Phủ đi ra cửa, tra ra vụ án lớn này toàn là công lao Dận Chân, thưởng tiền không nên nghĩ tới, nhưng không biết vị vương gia này sẽ trách phạt như thế nào. Ai ngờ, ông lại đề ra ý kiến này như làm một trò xiếc! Bỗng chốc kẻ nói qua người nói lại. Người này nói: “Tứ gia là đức Phật đầu thai, tấm lòng từ bi, chà chà!” Người kia bảo: “Chúng ta không có công lao mà được hưởng lộc, lẽ ra Tứ gia phải được thưởng!” Có người không ngớt lời ca ngợi, có người chắp tay niệm Phật, biến cái cửa vườn cấm thành đạo trường siêu sinh. Đức Lăng Thái thấy Dận Chân đưa mắt nhìn mình, cũng vội nói: “Nô tài phụng chỉ giữ cung, chỉ cầu mong không xảy ra chuyện gì, hoàn toàn nghe theo Tứ gia sai bảo”.

“Như vậy nhé, ta quy y đạo Phật, lòng luôn nghĩ tới chuyện cứu vãn chúng sinh.” Dận Chân sắc mặt đượm vẻ xót thương người đời, “Ngươi còn không mau cảm ơn mọi người!” Nói xong đi thẳng ra bên ngoài, còn quay đầu lại dặn: “Ta phải đi tuần tra một vòng quanh Tử Cấm Thành, ngày mai đến vườn Sướng xuân tâu rõ việc này, các ngươi gắng bảo vệ, không được làm hỏng quy tắc của ta!”

Mưa lại nặng hạt, Dận Chân chê trong kiệu ngột ngạt, anh thay một đôi ủng láng da hươu, đội mũ lông nhung, cười nói với Tính Âm: “Ta không muốn ngồi kiệu, bảo chúng đi theo phía sau, chúng ta đi bộ được chứ?” Nói xong hai người sánh vai cùng đi.

Đêm đã khuya, sương mù dày đặc mịt mùng, hơi nước lạnh phả lên trên gương mặt hơi nóng của Dận Chân, làm vô cùng mát mẻ dễ chịu. Im lặng đi một quãng, Dận Chân bỗng hỏi: “Ngươi không kiêng một món thịt cá nào, sao lại xuất gia làm hòa thượng?”

“Tôi luyện công phu tiểu đồng”. Tính Âm cười nói: “Cạo trọc đầu là hòa thượng, để chút bím là tiểu đồng”.

Dận Chân im lặng một chặp, lại hỏi: “Năm đó đêm trọ tại quán giặc ở Hoài Bắc, đến nay ta vẫn không rõ vì sao ngươi cứu ta? Lúc đó ngươi có biết ta là Hoàng A ca không?” Tính Âm ngước đầu trong bóng tối, ánh mắt sáng lên, ông nói: “Tôi tuy không biết ngài là Hoàng tử, nhưng thấy được ngài là người tốt. Ngài và họ Lưu tranh nhau mua đứa con gái họ Lữ, ban ngày tôi đã thấy rồi... Mẹ tôi cũng bị người ta mua đưa đến Quảng Đông. Lúc còn nhỏ tôi đi theo tiên sinh Ngũ Thứ Hữu, lại theo đại hiệp Lý Vân Nương học võ, rồi sau theo Khổng Tứ Cách cách đi Quảng Tây, lúc Tôn Diên Linh phản lại triều đình, tôi đang ở phủ Tứ Cách cách... Tôi bò ra từ đám mả lạng, làm người hai đời rồi...” Dận Chân liền dừng chân, bỗng hiểu ra, nói: “Ngươi... Khi còn nhỏ tôi đã nghe Tứ Cách cách nói tới, phải chăng ngươi là... Khỉ đen?”

“Đúng, Khỉ đen”, Tính Âm cười nói: “Tứ gia, nghe tên không bằng thấy mặt, từ nhỏ tôi là con khỉ ngang ngạnh, là Trình Giảo Kim đánh không chết, bây giờ lại cột vào cán cờ của ngài rồi!” “Không không!” Dận Chân thay đổi sắc mặt, nói: “Là Dận Chân có phúc, cùng chung sớm hôm với anh hùng nghĩa hiệp!” Tính Âm than thở: “Tôi đến nương nhờ ngài, không nghĩ tới điều này, tôi muốn được gặp lại cô Tư, không ngờ tới kinh vừa lúc đám tang bà...”.

Hai người lại im lặng, đi men theo con đường quan đất cát phía ngoài Ngự Hà. Không lâu, Dận Chân hỏi: “Vì sao ngươi lưu lại ở phủ ta?”

“Một đời tôi, cầm gươm làm việc nghĩa, giết người vô số, vốn định ngang dọc sông hồ, an dân trừ bạo”. Tính Âm trước giờ hào phóng buông tuồng, rất ít xúc động tình cảm như thế này, giọng ông hơi run, “Không ngờ, thời thái bình thịnh trị, kẻ xấu càng giết càng nhiều, giết một người cứu một mạng chi bằng bảo vệ một ông quan thanh liêm, ít nhất cũng che chở được một đám, xem bên tả xét bên hữu, thấy Tứ gia đúng là người tôi ngưỡng mộ. Cho nên, không muốn đi nữa”.

Bây giờ Dận Chân mới thật hiểu đám người Văn Giác, Ô Tư Đạo, thực tình ban đầu một mực giúp mình làm việc, về sau lại hết sức ủng hộ mình đoạt đích, làm Hoàng đế, lòng anh vừa cảm động vừa vui mừng, nhưng cũng hơi sợ. Đang suy nghĩ lan man thì Tính Âm hỏi: “Tứ gia, ngài đã phải chịu khổ không ít chứ?”

“Có khổ”. Dận Chân nói lạnh lùng: “Có điều không phải cái khổ đói rét, không phải cái khổ da thịt, mà là nỗi khổ trong lòng. Ta từ nhỏ vốn vô cùng yếu đuối, những kẻ yêu ta trên đời hoặc chết, hoặc bị tù, không có người nào kết cục tốt, đó là cái lạnh buốt thấu xương tủy! Lạnh như vậy dù có đốt lò sưởi thì cũng biến thành khối băng, cho nên ta sớm trở thành người có trái tim đá - Ngươi thấy hết rồi đó, ta không hút thuốc, rượu thịt cũng rất ít ăn, gia quyến không được chiều chuộng, không hề tìm hoa hỏi liễu, tuy không phải là hòa thượng nhưng thực ra là đầu đà khổ hạnh. Lòng anh lạnh một chút, kẻ ác phải sợ anh! Bọn chúng sợ ta là sợ ở chỗ này”. Anh nói rất chậm, từng chữ tùng câu rơi ra nghe keng keng như tiếng vàng tiếng đá, Tính Âm nghe lòng dấy lên từng cơn lạnh buốt.

Hai người vừa nói vừa đi, quanh Tử Cấm Thành một vòng, các nơi đều bình yên. Dận Chân rút chiếc đồng hồ vàng trong túi ra xem, đã là cuối giờ Tuất đầu giờ Dậu, bèn cười nói: “Việc công xong rồi, chúng ta trở về thôi. Không quá ngày mai chuyện Hạ Mạnh Phủ truyền ra, chúng ta im lặng đợi nghe tin”. Tính Âm đang định đáp lời, thì trong quán rượu họ Ngô, nghe vang lên tiếng tình tang chiếc đàn tranh cổ, qua màn mưa thu gió mát, truyền ra một giọng ca nữ lảnh loát, thật là buồn đau:

Từ Nương mày ngài buồn trăng sớm

Tức quỳ tất lụa lạnh gió tây.

So dây đàn buốt lòng còn hận

Chỉ được người nhàn lệ hồng rơi.

Tính Âm thấy Dận Chân nghe say sưa, bèn cười nói: “Tứ gia, bài ca này có gì đáng nghe? Chúng ta mau về thôi, không chừng Ô tiên sinh còn đợi ở phủ!” Dận Chân chần chừ một lát, mới lắp bắp: “Kỳ lạ... hình như đã nghe mấy câu từ này ở đâu rồi...”. Đang định đi thì bên trong lại hát:

Tạm dựa sắc xuân mà sinh sống

Vườn rừng xem đủ mấy cây hoa

Chẳng thẹn như ta ngâm thơ đục

Lại ngờ trong mộng một đời hoa

“Á!” Gân xanh trên mặt Dận Chân giật giật mấy cái, anh đã nhớ ra rồi, hai bài thơ này anh đã đọc thấy trong tập vở của Dận Nhưng! Anh im lặng quay người đi, làm cho Tính Âm chẳng hiểu ra sao cả, đành chỉ bước theo. Dận Chân trở về chiếc kiệu to, cởi áo ngoài, chỉ còn chiếc áo kép màu tương, bên ngoài là chiếc áo cánh lụa Thạch thanh, anh nói với Tính Âm: “Bảo chúng về trước đi, Ô tiên sinh nếu còn đợi ở phủ thì mời nghỉ tại nhà Phong Vãn, ngày mai sẽ gặp. Chúng ta vào quán trà xem sao!”

Quán trà họ Ngô là quán trà to nhất phía trong cửa Tây Tiện, trước lấy tên “Lầu Gia Hưng”, là nơi nữ tài tử Kim Lăng Ngô Thúy Cô diễn trò. Lúc Ngô Thúy Cô nuốt thủy ngân tự vẫn, có một người cháu xa đang sống ở kinh, cái sản nghiệp lớn như vậy đã thuộc về anh. Đổi tên thành “Quán trà nhà họ Ngô”. Hai người vừa bước vào, hầu bàn đã ra đón ngay, cười hỏi: “Thưa hai quý ông, xin mời lên lầu có chỗ ngồi tốt! Uống trà hay mời khách?”

“Ừ”. Dận Chân trả lời nặng trình trịch, anh đưa mắt nhìn vào trong, một thiếu phụ khoảng hăm bảy hăm tám hai tay vuốt đàn, bên cạnh một ông già tóc bạc gõ nhịp, đang hát một đoạn “Lệnh xuân mộng”

Hoa lê vây quanh Cẩm hương đình, bướm xuân làm mềm bình phong ngọc. Ngoài hoa chim ríu rít kêu mấy tiếng. Mộng hoảng kinh, nửa còn mơ màng nửa đã tỉnh...

Câu hát vừa dứt, mọi người khen hay rối rít: “Hay! Bài hát này còn hay hơn bài trước!” Có người còn cười rống lên làm trò khôi hài: “Ngoan ngoan, con thân yêu! Làm thế nào mà kinh hoàng giấc mộng đẹp?” Một đám ồn ào náo loạn. Thấy quá dung tục, Dận Chân chau mày, vừa lên lầu vừa nói: “Ta muốn cô gái này hát riêng cho ta, ngươi bảo bọn họ tản đi!” Nói xong đi lên lầu. Tên hầu bàn ngơ ngác chưa kịp trả lời thì Tính Âm đã lấy một đĩnh bạc hai mươi lượng ném vào tay hắn, hỏi: “Thế nào, khó hả?”

Tên hầu bàn có lẽ chưa hề thấy ông chủ nào rộng lượng như vậy, hắn nghi ngờ nhìn đĩnh bạc, thấy đĩnh bạc trắng tinh hình tổ ong, những đường vân trên mặt chạy vào giữa tâm, rõ ràng là hoa văn Đài Châu chính cống. Hắn cười híp mắt, nói: “Kéo cắt trong tiệm hỏng rồi, không trả được bạc lẻ.” Tính Âm cười nói: “Đợi cho kéo sửa xong, ngươi trả lại cho trưởng quầy của ngươi là được”. Nói xong liền lên lầu. Thấy Dận Chân ngồi một mình trên chiếc ghế, trầm ngâm dưới ánh đèn, ông không dám làm kinh động, chỉ đứng hầu một bên. Một chốc, tên hầu bàn tay bưng một mâm trà, bên trên bày nhiều món điểm tâm tinh ngon, hắn vừa đi vừa hò hét, rồi bày bàn trà và nói: “Thưa ông, tức khắc có đủ. Trưởng quầy nói hôm nay kết toán sổ sách, bảo họ tan rồi”. Nói xong định lui ra, nhưng Dận Chân gọi giật lại hỏi:

“Ngươi đừng vội, ta muốn hỏi một câu”.

“Xin ông cứ hỏi”.

“Người hát rong đó quê ở đâu, tên là gì?”

“Bẩm thưa ông”, tên hầu bàn vội cười nói: “Bà người ở đâu, tôi quả thật không biết, chỉ biết năm Khang Hy thứ 50 mở quán, tên là Văn Tam Nương, năm ngoái hát rộn cả kinh thành, bấy giờ mới biết bà ở trong vườn quả hồng”. Nói xong thấy Dận Chân im lặng, hắn bèn lui ra.

Dận Chân nghe không ra manh mối gì, anh hớp một ngụm trà, đang trầm ngâm, thì nghe phía cầu thang tiếng bước chân nhỏ gọn, Văn Tam Nương ôm chiếc đàn tranh vén rèm bước vào, ngồi xổm xuống cúi đầu, quay sang phía Dận Chân chào vạn phúc hai lần, nói nhỏ: “Xin thỉnh an đức ông!” Bây giờ Dận Chân mới nhìn kỹ, nhìn xa thấy dáng người yểu điệu thanh tú, bây giờ ở gần nhìn kỹ thì dung mạo không xuất sắc lắm, góc mắt trước trán có những nếp nhăn nhỏ, mặt vàng võ, tỏ ra dáng mệt mỏi, chỉ có đôi tay trắng như ngà, mềm mại mượt mà đáng yêu. Người đàn bà thấy Dận Chân nhìn, đâm mất tự nhiên, bèn thi lễ nói: “Quý ông muốn nghe khúc hát gì?” Dận Chân có ý đồ, cười nói: “Muốn nghe hai bài nàng vừa mới hát, biết nàng không phải tầm thường. Ta sống lâu ở kinh thành, sao không nghe danh tiếng nàng! Tôi có một người bạn, điền một bài từ Nam hương tử ban nhạc trong nhà không cách nào hát hay được, muốn nhờ giọng nàng hát cho nghe có được không?”

“Hát thì được, nhưng chưa chắc đã đúng tôn ý quý ông”. Văn Tam Nương ôm đàn, nghiêm nét mặt ngồi xuống, so dây, khẽ nói: “Xin quý ông cho lời ca”. Dận Chân nghiêng đầu hơi suy nghĩ, chậm rãi ngâm:

Không quen chốn mây mưa, con hươu nhỏ trong lòng quá bận. Nhưng tình lang quá đỗi ôn tồn, đỗ quyên khảm khắc di vật còn đây. Trong rào mấy dạo lòng sầu muộn, sợ cuộc vui tàn khó chia tay, hoa tàn ngọc rửa không ngủ được, khó toàn mộng đẹp, giường ngà uổng thay!

Ngâm xong anh nhắp trà, chằm chằm nhìn Văn Tam Nương, im lặng.

Văn Tam Nương đã hoàn toàn tê dại, không nói, không động, không đàn, không hát, chỉ đờ đẫn ôm đàn ngồi ngây ra, toàn thân tê cứng. Tính Âm thấy lạ, bèn cười nói: “Này, sao nàng không hát?” Văn Tam Nương bỗng ngước đầu lên, hai con mắt tỏa ánh hào quang rạng rỡ, miệng mấp máy mấy cái, nói: “Ngài... Ngài là ai, đã xem bài Nam hương tử này ở đâu?” Lời vừa dứt, ngoài cửa bỗng truyền vào một tiếng kêu dài, ông già đầu bạc bạn hát dưới lầu vén rèm xông vào, cúi đầu lạy Dận Chân, khóc to nói: “Tứ gia, ngài còn nhận ra lão nô tài không?”

“Bảy Mươi Tư đấy a!” Dận Chân sững sờ, một hồi lâu mới nhớ là quản gia của Dận Tường, anh thở dài, đứng lên, lấy tay sờ Văn Bảy Mươi Tư, nói: “Ta đã tới quanh đây tìm ông mấy lần, đều nói ông đã dời nhà. Cứ tưởng ông chuyển về Sơn Tây rồi! Nói thế nào đây, làm sao lựu lạc tới bước này? Phủ ta rất gần đây, có khó khăn sao không tìm ta?” Văn Bảy Mươi Tư nước mắt già giọt ngắn giọt dài, nghẹn ngào không nói nên lời. Thực tình ông có đến phủ Ung thân vương, nhưng người đã thất thế, Dận Tường lại mắc vòng tù tội, ai chịu bẩm lên cho! Không thể nói rõ ra như vậy, mãi một lúc lâu, Văn Bảy Mươi Tư mới bình tĩnh lại, ông nức nở: “Cũng do lão nô tài hồ đồ, Tứ gia thân phận sạch sẽ, sợ gây phiền phức cho Tứ gia”. Dận Chân cười nói: “Văn Tam Nương này có phải là con ông, hay là con dâu?”

Văn Bảy Mươi Tư nước mắt ròng ròng, đưa mắt nhìn Tam Nương, lắc đầu nói: “... Đều không phải, nói ra nô tài chết mất...”.

“Ta hiểu rồi, không cần nói nữa”. Dận Chân nói: “Ta sai người đi Thông Châu tìm hai lần, người ta đều nói sau khi Thập tam gia phải mang họa, phủ Thuận Thiên đã tịch thu trang trại anh ta, còn đi khắp nơi tìm người đàn bà họ Trịnh, cũng khó khăn cho nàng phải trốn đi, lại lưu lạc làm nghề hát rong...”. Trịnh Xuân Hoa không đợi Dận Chân nói xong, nước mắt như mưa tuôn, cổ họng nghẹn lại, chỉ chực bật lên thành tiếng, nhưng nàng cố nén, ậm ào, không sao đáp lời được. Dận Chân thấy nàng thê thảm như vậy, nhớ lại thái độ Dận Nhưng đối với anh, ban đầu gắt om lên sau thì bỏ cuộc, đến nỗi ra tay độc đưa nàng tới chỗ chết, nhưng nàng vẫn không hay biết gì, anh cảm thấy hôm nay mình xử lý vụ Hạ Mạnh Phủ được tình được lý. Nghĩ tới việc xếp đặt thế nào cho Trịnh Xuân Hoa, vì do dự không quyết ngay được, anh chau mày trầm ngâm im lặng.

Trịnh Xuân Hoa biết chỗ khó của anh, nàng khóc một lát rồi nói: “Tứ gia, việc ngày trước không nói tới nữa. Tôi là người đã sống quá phần mình, cũng không còn hy vọng gì, nghe nói ngài hôm nay coi quản phủ Nội vụ, tốt xấu...”. Nàng nói chưa dứt, Dận Chân đã ngắt lời, nói: “Việc Nhị gia, nàng đừng lo lắng, ta đương nhiên là phải chiếu cố. Chỉ riêng nàng, ta thấy quá đỗi si mê. Ta muốn biết, bây giờ nàng có ý nguyện gì, bản thân nàng dự tính thế nào?” Trịnh Xuân Hoa im lặng. Có ý nguyện gì? Chính nàng cũng không biết nói sao. Nàng chỉ mong được sống, gặp lại Dận Nhưng một lần, mong được thấy Dận Nhưng tự do, lại nổi lên ở Đông Sơn. Nhưng việc này có thể nói cho Dận Chân sao? Suy nghĩ hồi lâu, nàng đành thở dài, nói: “Tôi người không nên người, quỷ không thành quỷ, vốn là một người không biết xấu hổ. Trên đời này không có con đường cho tôi đi. Có lẽ, một ngày nào đó, con người kia khá lên hoặc chết đi, thì đó là lúc kết thúc cuộc đời tôi...”. Nàng nói rất điềm nhiên, rõ ràng là những lời tâm huyết được suy nghĩ từ lâu.

Dận Chân nghe rung động cả người, đột nhiên ngước đầu nhìn chằm chằm vào ánh nến lung linh, rất lâu mới nói: “Vì sao chỉ nghĩ tới cái chết? Còn có con đường khác đi được chứ!”

“Con đường khác?” Trịnh Xuân Hoa nhìn Dận Chân với ánh mắt khó nổi hình dung, “Vào cung làm Hoàng phi hay Vương phi? Làm cung nga hay đi giặt quần áo? Nếu không thì dứt khoát đi hát rong trong dân dã, xin ăn?” Lời chưa nói xong, Dận Chân chắp tay nói vội vã: “A di đà phật, tội lỗi, há chẳng nghe phép Phật vô biên?”

Trong khoảnh khắc, Dận Chân đã có chủ ý. Anh không “đồng bệnh tương lân” với Trịnh Xuân Hoa như Dận Tường. Một mặt anh thương xót thân thế thê thảm khổ đau của người đàn bà này, nhưng quan trọng hơn, hiện giờ Dận Nhưng là một con sâu trăm chân cứng mà không chết, chưa hiểu rõ Hoàng đế “Thả Thái Giáp về Đồng Cung” rốt cuộc có ý nghĩa gì, để lại người đàn bà này, không gì khác hơn là trong tay thêm một cái bia cho người ta ngắm! Nghĩ vậy, Dận Chân nói: “Thế này nhé, tối nay, nàng theo ta về phủ, ngày mai bảo Cao Phúc Nhi đến am Tịnh Tổ làm cho nàng cái thẻ, trước hết về phủ ta tóc tu hành, để ta sẽ làm một cái miếu nhỏ phía bên miếu Ngọc Hoàng. Nàng cứ yên tâm tu hành ở đó suốt nửa cuộc đời, mặc kệ cho thời cục nhiễu nhương - Như vậy được không?”

Bốn người ra khỏi quán trà họ Ngô đã gần tới giờ Tý. Trời đã ngớt mưa, từng tảng mây hồng trên nền trời xanh đang di chuyển chậm chạp về phía đông, vầng trăng tà lúc ẩn lúc hiện, chiếu xuống đường phố cảnh mông lung mờ ảo, tạo nên cảm giác thần bí khó lường. Mấy con người lặng yên bước trên con đường đọng nước, mỗi người ôm một nỗi tâm tư, không ai buồn nói gì. Vừa bước qua cầu Kim Ngao Ngọc Đông, Tính Âm đột nhiên kéo tay Dận Chân nói: “Tứ gia! Phía sau có người theo dõi!”

Mấy người cùng dừng bước, Dận Chân bỗng tỉnh ngộ, không chừng đã sớm có người theo dõi Văn Bảy Mươi Tư và Trịnh Xuân Hoa, nhằm đợi mình mắc câu! Hôm nay đồng thời bắt mình với Trịnh Xuân Hoa, ngày mai lập tức trở thành cái tin rung động kinh thành - Bản thân mình một đời thông minh, một lúc hồ đồ, vì sao không nghĩ ra chuyện này? Anh lo sợ mồ hôi lạnh toát ra ướt trán. Đang lúc bối rối, bốn cái bóng đen đã chặn đường qua cầu, đều là những võ sĩ dữ tợn, bím tóc quấn quanh cổ, hai tay chống nạnh đứng lặng thinh, trong tối không nhìn rõ mặt!

“Các anh em”, Tính Âm khoát tay cho Dận Chân rồi bước tới trước vái một cái cười nói: “Đạo nào đấy? Xin làm ơn!” Tay cao to đứng trên bậc đá giơ tay ra nói giọng nặng trình trịch: “Đừng hỏi là đạo nào, cho năm trăm lượng bạc, thì các anh đi!” Tính Âm cười hì hì, nói: “Năm trăm bạc không phải nhiều. Tối mai người anh em tự mình mang tới được chứ?”

Tên cao to quay đầu cười nói: “Bay nghe xem hắn thông minh đấy chứ! - Mi quá lần khân, cần gì phải tối mai? Để ba người kia ở đây, mi đi lấy ngay bây giờ!”

“Nếu ta không chịu thì sao?” Tính Âm chọc tức một câu, “Ta trước nay nói một là một!” “Vậy thì mời anh xơi một trăm cú đấm!” Tên cao to vừa nói vừa đấm một cú vào sườn Tính Âm như trời giáng, Tính Âm lảo đảo, lui lại hai bước, miệng nói: “Một trăm đấm thì một trăm đấm! Con người ta cần tiền chứ không cần mạng!”

Bốn người ban đầu cười ồ lên, rồi vây Tính Âm, bụp bụp, người này một đấm người kia một đá đánh cho Tính Âm tơi bời. Tính Âm ở giữa, bị đánh nghiêng bên này, ngã bên nọ, loạng quạng, đứng không vững, vừa xuýt xoa kêu đau, vừa đếm 97, 98, 99... một trăm! - Sao còn đánh nữa! Sao bọn bay đánh mãi thế?” Dận Chân ban đầu sợ giùm cho Tính Âm đến toát mồ hôi, thấy ông ta làm như vậy, biết là Tính Âm bản lĩnh cao cường, làm trò đùa với mấy tên cướp, nghe phía sau có tiếng bước chân, bỗng vui mừng kêu lên: “Tính Âm, vì sao không đánh trả?”

“Không phải không đánh trả!” Tính Âm như không còn cách nào khác, cười nói “Mà sợ bọn chúng chịu không nổi, tôi sợ phá giới!” Nói xong ông lách mình nhẹ nhàng, hai tay đánh trả một đấm, chỉ thấy hai cái bóng đen bỗng bay cao lên năm sáu thước, tiếp theo hai tiếng bỏm bỏm, hai tên đã chìm xuống dưới nước. Rồi không biết thế nào, vặn người, mỗi tay túm một tên. Đám Dận Chân há mồm trợn mắt ra mà nhìn, thấy vị hòa thượng này nhắc hai tên cướp đi lên đầu cầu, nói với sáu bảy tên cướp đi theo sau: “Trả người cho chúng bay! Có chút xíu bản lĩnh thế này mà cũng đi làm giặc cướp! Đem hai cái xác chết về mà ngâm rượu!” Vừa nói hai tay đẩy ra, hai tên to cao bung thẳng ra như có lò xo đè mấy tên ngã chúi kêu khóc om sòm!

Thấy không ai dám tiến tới nữa, Tính Âm khoát tay, nói: “Tôi ân hận đêm nay tay bị vấy bẩn rồi! Đức ông chúng ta đi thôi! Này, đứa nào không phục thì xem con sư tử đá này!” Nói xong, lấy tay vuốt nhẹ vào cổ một con sư tử đá. Mọi người ban đầu không biết ông đang làm trò quỷ gì, thảy đều ngơ ngác, thì nghe kêu “bịch” một tiếng, đầu con sư tử đá đã lăn xuống sông! Mấy tên giặc huýt sáo ra hiệu, chúng chạy đi mất tăm. Dận Chân vô cùng ngạc nhiên. Văn Bảy Mươi Tư nói: “Ông có bản lĩnh lớn như vậy, vì sao không bắt một tên để làm chứng?”

“Bắt nhân chứng có gì khó đâu?” Tính Âm nói lạnh lùng: “Sợ bắt rồi không biết hỏi cái gì, nhưng lại gây khó cho Tứ gia!”

Báo cáo nội dung xấu