Mưa Đỏ - Chương 16
Những dòng thư gửi mẹ của Cường:
“Ngày... tháng... năm...
Khi còn sống, bố đã có lần nói với con, không ai sinh ra đã là anh hùng phải không mẹ? Anh hùng cũng sợ chết, thậm chí là sợ chết nhất, nhưng nếu biết vượt qua được nỗi sợ chết thì là anh hùng. Và không ai sinh ra đã muốn mình thành một đao phủ nhưng có những hoàn cảnh không thể không biến mình thành một người như thế. Trận đánh giáp lá cà trưa nay của chúng con xét về một góc độ nào đó cũng là anh hùng. Anh hùng hay đao phủ thì con chưa đủ thời gian để nhận biết nhưng rõ ràng có những điều còn cao hơn cả những danh từ này, như lòng tự trọng, như sự hận thù cái ác chẳng hạn. Cái ác ở đây, mẹ ơi, chúng con lại không đổ tại tất cả cho những người lính dù phía bên kia, mà chính là những kẻ ngoại quốc đứng đằng sau họ, đang biến họ thành những vật thế mạng cho các chủ thuyết phi nhân đã đè nặng lên đất nước mình mấy chục năm qua. Pháo từ Cửa Việt lại bay vào trận địa, bay xuống sông, rồi lại bao người tử tế, lương thiện phải rời bỏ sự sống? Pháo của họ đấy, những kẻ ở cách nửa vòng trái đất không hiểu nguyên cớ gì mà bỗng dưng nhảy vào can thiệp một cách ngang nhiên và ngụy tạo là ngăn chặn một làn sóng Đỏ như thế...”
★
Bóng tối như một tấm voan đen rách nát, hôi hám và ngột ngạt trùm xuống Thành cổ.
Mệt và lênh loang đầu óc, không còn ai thấy đói nữa. Mà có đói cũng không thể nhai nổi mấy cái nắm cơm khô xác này. Thế là tiểu đội lại đi tong mất ba con người. Những người trai trẻ vừa mới bổ sung hôm qua.
Trầm ngâm một lát như thả hồn đi đâu rồi Bình quay qua Hải gù:
- Này, cậu có thấy lạ không? Tiểu đội mình không biết bao nhiêu người chết, người bị thương rồi mà số cũ anh em mình vẫn chưa ai phải vùi thây xuống đất hay phải cáng qua sông. Trời Phật phù hộ à?
Hải gù đang loay hoay với cây M72 được tháo dỡ từng bộ phận trên tay, không nhìn lên:
- Phù hộ mẹ gì! Chẳng qua những thằng cũ có kinh nghiệm hơn, khôn ngoan hơn nên đạn nó chưa chạm tới. Ông Tạ bảo, thằng nào chỉ cần trụ được ở đây chục ngày mà không chết thì sẽ thành tinh thành cáo không bao giờ chết được nữa. Mà này, cái bọn Mỹ này giàu thật chứ chả bỡn, khẩu súng được cấu trúc kỳ công thế này mà bắn phát vứt đi, phí quá!
Đang nói thì cái bóng gầm ghì của Đại đội trưởng đi tới. Bộ quần áo trên người ông cũng rách tơi tả như người rừng. Mọi người vội đứng dậy. Ông trừng mắt nhìn tất cả khiến ai nấy dáo dác nhìn nhau không hiểu.
- Các cậu đánh đấm cái kiểu gì thế hả? - Câu hỏi văng ra nặng như đá tảng.
- Dạ, báo cáo... báo cáo... - Tạ thực sự lúng túng đưa tay gãi đầu nhưng không thấy tóc đâu lại thõng xuống.
- Báo cáo! - Bình vổ nhích lên một bước. - Tôi xin nhận kỷ luật vì đã ngủ gật không phát hiện ra chúng từ đầu.
- Ai nữa? - Vẫn cái giọng nặng trịch.
- Dạ... - Đến lượt Tú bước lên, cúi gằm mặt. - Tại cháu nữa ạ! Lúc ấy không hiểu sao cháu cứ bắn tứ tung...
Đại đội trưởng bỗng cười toác:
- Mấy cái thằng, không khảo mà xưng. Ai đã hỏi tội nào. Nghe đây các bạn, trung đoàn vừa có điện khen tiểu đội các bạn chiến đấu dũng cảm, đã đánh tan được một chiến thuật mới là tập kích ban ngày của bọn dù. Tôi đến đây chuyển lời khen. Hết! - Rồi bỗng nhìn quanh, nghẹn giọng. - Lại hy sinh gần một nửa phải không?... Hơi tốn nhỉ? Cố gắng đừng để mất thêm nhé! Nhớ ghi lại tên tuổi, quê quán các cậu ấy cẩn thận để sau này còn báo về cho gia đình. Thôi, cố mà ăn một miếng rồi tranh thủ chợp mắt đi. Khổ!
Ông đi đến bắt chặt tay từng người rồi đi nhanh sang khu vực khác cũng đang im ắng như không có bóng người.
Sen bước đến ôm sát Tú vào người, ánh mắt thật ấm áp:
- Trưởng thành, trưởng thành lắm! Nhận thức là một quá trình, mình tin điều đó. Chúc mừng em!
Tú ngượng ngập chuồi người ra như không muốn nhận cái ôm mà mình không đáng được hưởng này:
- Em trưởng thành à?... Em sợ quá nên chỉ bắn tung tóe, chẳng may lại trúng...
- Lòng dũng cảm và sự trưởng thành của người lính nhiều khi chỉ cần một hành động tung tóe, nhưng có hiệu quả như thế.
Tú càng ngượng nghịu, mặt cứ cúi gằm xuống, hai má cứ đỏ rần lên.
Đêm đó tự dưng cậu chàng lại không ngủ được. Chả biết do lời khen hay do cú ngáp phải ruồi lại được khen ấy mà cứ loay hoay mò tìm cái gì trên đất, dưới gầm sạp, trên nắp ba lô... Tạ ngóc cổ ra khỏi mấy cái ba lô đang chèn kín mặt, hỏi:
- Thằng cu sao thế, đánh tuột linh hồn ra đằng đuôi rồi à?
Tú ngơ ngác:
- Em tìm con dế. Nó cứ kêu rát tai mãi không ngủ được nhưng... tìm không ra.
Bình cười hô hố:
- Thằng này tâm thần rồi, lúc thì u u ruồi nhặng, lúc lại inh ỏi dế kêu. Ở đây chỉ có ma kêu chứ không có dế diếc gì hiểu chưa? Ngủ đi ông nỡm, cho người khác còn ngủ!
Cường cũng cười, thả chân khỏi ván nằm được kê bằng mấy thùng đạn, bước đến cạnh Tú:
- Còn kêu không?
- Còn.
- Bây giờ thế này, em bịt chặt tai lại đi!
Tú làm theo, thò hai ngón tay cáu bẩn vào sâu trong màng nhĩ.
- Rồi. Còn không? - Cường hỏi.
- Còn, nghe to hơn.
Cường bẹo vào cái má còn căng của Tú, cười:
- Vậy thì chỉ tại nghe bom pháo nhiều quá nó kêu trong tai thôi, không có con nào đâu. Ngủ giấc sáng mai là sạch.
Tú thả tay, chớp mắt ngẩn ngơ:
- Ừ nhỉ? Đúng là kêu trong tai. Nghe dế kêu, em thấy nhớ nhà quá...
Cuối hầm, Hải gù đang bụm miệng ho khụ khụ. Càng nín càng ho, tiếng ho như xé cổ. Tạ ngồi dậy thò tay xuống nắm chim chim một cục đất ướt bằng quả nhót đưa vào tay Hải:
- Nuốt đi! Nuốt đại đi là hết!
Hải đưa cục đất lên mũi, nhăn mặt:
- Như mùi bốc mả!
Nhưng cũng cố nhắm mắt nhắm mũi đưa vào mồm. Cục đất ngắc ngứ mãi một lúc mới trôi được xuống khỏi cổ. Anh há to mồm, chẹp chẹp mấy cái, cười như trẻ thơ:
- Hết rồi! Hết thật rồi! Tiểu đội trưởng này, nếu bây giờ bảo phương pháp chữa ho tốt nhất là nuốt đất mùn có trộn xương thịt người thì cả nền y học thế giới phải nhảy cẫng lên.
Cường cũng bật cười. Giây phút ấy anh đâu có biết rằng, chỉ mấy tuần sau, cũng cơn ho này, cũng cục đất nhoét này đã vận vào chính người Tiểu đội trưởng khắc nghiệt biết chừng nào!
Tại cửa hầm, Bình cũng không ngủ.
Anh bị cái bệnh mất ngủ quái ác này từ hồi còn là sinh viên, vào đây, tưởng đánh đấm mệt nhoài có thể ngủ được nhưng lại mất ngủ hơn. Trời, chả lẽ cái chuyện với người đàn bà giàu có và hoang dâm đã biến anh thành trò chơi, thành món đồ trang sức đó lại khiến cho đầu óc anh không bao giờ trở lại được trạng thái bình thường? Người đàn bà... Cho đến bây giờ, dẫu phải vùi mình vào chiến trận đến ngạt thở nhưng con người ấy, khuôn mặt ấy, những câu nói khủng khiếp ấy vẫn không rời khỏi được trí não của anh.
Mới sáu tuổi, lũn cũn theo người cha tính tình nghiêm khắc ra Bắc tập kết, học hết trung học ở trường Học sinh miền Nam ở Hải Phòng rồi về Hà Nội vào Đại học Xây dựng, đúng theo cái nghề kỹ sư cầu đường của người cha. Nhưng không hiểu sao anh lại không thích chút nào cái môn học đầy những con số khô khan và những bản vẽ vô hồn này. Anh yêu phong cảnh và thích ngắm những nét mặt muôn hình vạn trạng của con người nên quyết định chuyển sang Đại học Mỹ thuật. Ba anh kiên quyết không cho, còn nói cái nghề đó chỉ làm hư người, vẽ với vời, vớ vẩn, chả có tích sự gì. Anh kiên quyết lại. Thế là hai cha con gần như không nhìn mặt nhau. Để tránh nặng nề, anh bèn xin ra ở ký túc xá. Ba anh không nói gì nhưng sau một đêm ngủ dậy, tóc trên đầu ba dường như bạc nhiều hơn.
Năm đó anh vừa bước vào năm thứ hai của một trường đại học mỹ thuật danh giá nhất. Mà lạ thế, ở đời càng danh giá lại càng nghèo. Nghèo tàn nghèo mạt, nghèo đến nỗi ngày đi học, đêm về anh phải ra bến Phà Đen bốc vác thuê kiếm sống, kiếm tiền nộp học phí. Thế rồi một lần anh được bà chủ thuyền buôn đồ gốm hơn anh gần hai chục tuổi đã ly dị chồng nhưng còn đẹp, còn mỡ màng, vô tình để ý đến. Sau khi biết anh là dân sinh viên hội họa, bà có ý mời anh đến nhà để chỉ dẫn cho cậu con trai mới lớn cũng rất muốn theo ngành mỹ thuật, sẽ giả lương cao và có nơi ăn ở tử tế. Vậy thì còn gì bằng, anh đồng ý ngay. Nhưng có biết đâu rằng, người đàn bà giàu có đang vào tuổi hồi xuân ấy chỉ lấy đó làm cái cớ để ngấm ngầm thực hiện một hành vi khác. Cái hành vi mà ngay từ lần gặp đầu, anh đã mang máng nhận ra nhưng không dám tin qua câu nói cùng cái nhìn lúng liếng của bà: “Cậu có một vẻ đẹp đàn ông lạ lắm, hơi hoang dã mà vẫn thư sinh, vừa bụi bặm lại vừa nhã nhặn, một khuôn mặt mà tôi đi tìm cả đời cũng không ra.” Thế rồi cái gì phải đến đã đến. Gái lỡ thì, trai đang xoan, suốt thời gian hơn một năm sau đó, họ dính chặt vào nhau gần như không rời ra nửa bước. Bà ta như trẻ lại đến chục tuổi, người ngợm cứ phây phây, còn anh lại cứ gầy rạc đi, lúc nào cũng như kẻ đói ngủ nhưng lại không ngủ được. Có lần, dụi sâu vào cái chỗ đáng lẽ không nên dụi của anh, bà ta nói thật: “Em đã gặp không ít đàn ông nhưng chưa một ai làm em sung sướng đến phát điên như mình cả!” Khốn khổ, đó cũng chính là lúc anh bắt đầu thấy sợ. Sợ sự quản lý như cai ngục quản lý phạm nhân, sợ sự ham muốn không biết thế nào là đủ, sợ mùi da thịt, sợ tiếng rên như con thú bị thương của bà ta, sợ hết. Sợ đến nỗi mỗi lần phải gần tấm thân nhưng nhức những thịt là thịt đó, anh cứ phải nhắm mắt nhắm mũi làm cho xong. Căn bệnh mất ngủ của anh bắt đầu xuất hiện từ những đêm truy hoan mang tính tra tấn ấy. Cuối cùng không thể chịu nổi nữa, anh đã nói lời chia tay, sẵn sàng trở về kiếp bốc vác thuê như cũ. Điên giận, bà ta xối xả mắng anh là đồ ăn cháo đá bát, đồ đĩ đực, đồ chó nôn ra lại liếm, đồ thối thây, đồ rạc rài, chắc lại có con đĩ nào nó trát cái của nợ của nó vào mặt rồi chứ gì?... Tóm lại dân gian có bao từ độc địa nhất bà ta đều phun hết vào mặt anh, phun nhầy nhụa đủ để anh buộc phải bắn ra khỏi cuộc sống khá nhung lụa đó với câu nói táng tận cuối cùng “Mày đến đây trên răng dưới cát-tút thì mày đi cũng chỉ dưới cát-tút trên răng”. Rồi rít lên đòi anh phải trả lại hết những gì bà ta đã mua sắm cho anh, từ chiếc xe máy, cái đồng hồ, bộ đồ vẽ cho đến tất cả những thứ quần áo quý. Thì trả, đúng là trên răng dưới... thật. Nhưng thế đã xong đâu, ba ngày sau, bà ta xộc đến trường, ăn mặc, phấn son như cô đồng, bước thẳng vào phòng giám hiệu lớn tiếng vu cáo anh là đê tiện, là gã lừa đảo, là thằng lưu manh, là một tên bẩn thỉu chuyên gạ gẫm những người phụ nữ tội nghiệp để lừa tình, lừa tiền... Nhục quá nhưng anh không thể thanh minh và cũng không muốn thanh minh, trong khi chờ xét kỷ luật, kể cả có thể bị đuổi khỏi trường, nhân có đợt tổng động viên vào mặt trận, anh xin đi luôn, đi như một kẻ trốn chạy, đi mà chỉ báo với người cha trước vài giờ. Trước khi đi, không hiểu sao bà ta lại đến tìm anh, khóc xin tha tội, nói chỉ vì yêu anh quá và bảo nếu anh chịu trở lại sống với bà ta như cũ thì bà ta thừa sức can thiệp để anh không phải đi. Kinh tởm, anh nhổ một búng nước bọt xuống đất rồi xách ba lô lên tàu...
★
Vẫn không ngủ được, chán, anh bèn mượn ánh sáng pháo dù đang thất thểu rơi xuống, dùng mũi dao găm khắc sồn sột cái gì trên một miếng tôn. Tạ ngóc cổ lên hỏi:
- Mày làm cái gì thế? Gãi ghẻ à?
- Nhớ nghề chạm khắc, em tranh thủ khắc tên tuổi, quê quán từng người trong tiểu đội vào đây, mỗi người mỗi miếng, nếu có chết cũng còn cái để đánh dấu, còn chết ngày nào, ở đâu, người còn sống sẽ khắc sau.
Tạ ngồi hẳn dậy, vẻ rất khoái:
- Phải đó, mày khắc tao kĩ kĩ vào để tao chuyển về trước cho con vợ tao.
Cường cũng ngồi dậy, vẻ tò mò:
- Sao lại trước?
- Vì đằng nào chẳng chết mà để đoán được ngày chết, nơi chết khó mẹ gì, dễ như ăn chuối.
Từ góc tối trong cùng, tiếng Sen nói ra:
- Thôi, bỏ cái trò mèo ấy đi! Đang không lại tính đi tự báo tử cho mình? Có thể chết nhưng không thể tự đào mộ trước như vậy được, nó gọi là thất bại chủ nghĩa.
Tạ cười thật hiền rồi thôi, không nói thêm gì nữa, chuyển mình ngồi chồm hỗm xem cậu bé Tú đang diệt muỗi.
Có lẽ chỉ ở tâm hồn trẻ thơ hoặc chỉ ở cái nơi gọi là Thành cổ này mới có cách diệt muỗi kỳ quái như thế. Thoạt đầu là cậu dùng tay đập phành phạch, đập liên tục nhưng tiếng vo ve vẫn võng vãnh đến nhức đầu. Cáu, cậu bèn nghĩ ra một cách như để giết thời gian: bắt muỗi bằng hộp Coca Cola Mỹ có gắn bấc đèn. Bấc cháy, muỗi thấy sáng lao vào, nổ lách tách. Mỗi khi có con muỗi bị nổ, gãy cánh, quay tròn nhủi xuống đáy hộp, cậu lại khoái chí kêu lên: “A, con AV10 này, mày chết này... A, lại con L19 này, chết cha mày chưa? Ấy, con này nhanh quá, cho nó là phản lực F4 đi! Còn chú này béo ú, đích thị là con B52 rồi. Cháy này, rơi này! Hoan hô!” Vẻ nghịch ngợm của Tú làm sinh động cả căn hầm, xua đi mọi nặng nề u ám đang úp chụp xuống từng ngóc ngách tâm hồn.
Cũng không ngủ được, Tạ bò ra ngoài cửa hầm, ngồi xuống với Cường đã ngồi sẵn ở đó.
- Tao nhớ vợ quá! - Tạ nói. - Buổi sáng tao đi, cô nàng chân đất lẽo đẽo tiễn suốt mười cây số mặt đê, nước mắt rơi lã chã, phải quát to một tiếng mới chịu về. Vừa quay về vừa chùi nước mắt, chốc chốc lại vấp một cái. Quát? Khốn nạn, sao tao lại quát nhỉ? Hỏi thật nhé, ở vào trường hợp ấy chú có quát không?
- Chắc chắn là không!
Cường nói và chợt nôn nao nghĩ đến hình ảnh Thanh một mình ngồi lại khi anh quyết định bỏ đi trên cái bờ bãi sông Hồng hôm ấy.
- Thế tao mới quỷnh. Giờ nghĩ lại cứ cồn cào cả gan ruột. Mà thực chất tao có ra cái gì đâu, một thằng chuyên đi chặt củi, bốc vác thuê, được cô con gái ông chủ nhà mê rồi khăn gói quả mướp đi theo mà lại còn... quát? Nhưng hỏi này, chú mày có người yêu chưa?
- Có nhưng... người ta bỏ em rồi.
- Sao bỏ? Đẹp giai, tốn gái như chú, chú không bỏ thì thôi chứ ai lại dám hỗn hào bỏ chú?
- Cô ấy đẹp, con nhà, lại sắp đi học nước ngoài. Ai dại gì dính với thằng lính cứ nằng nặc bỏ tất cả ra đi mà chưa chắc có ngày về. Đàn bà con gái mà anh.
- Tầm bậy mày! Cái gì mà đàn bà con gái?... Ai cũng như nó thì có mà mất nước. Vậy cái mặt đẹp của nó đáng để chú kê xuống đít mà ngồi.
Để câu nói của mình thêm sức nặng, Tạ nhổm lên dộng đít xuống đất lịch bịch mấy cái rồi nhay nhay, vẻ như chưa đã, anh nói thêm với chất giọng cố làm ra vẻ thâm trầm của một nhà hiền triết tỉnh lẻ:
- Vợ đẹp là vợ thiên hạ, ông bà dạy cấm có sai chữ nào. - Rồi chợt cảm thấy cái giọng ấy không hợp với mình, anh lại trở lại cái bỗ bã như cũ. - Mà cứ giả dụ như nó chờ mày được đi thì khi mày trở về, trong bụng nó chả có cả đống cái của nợ ấy à. Cứ như con vợ tao, đảm bảo còn sống trở về là nó vẫn khít khìn khịt. Sao, cái gì mà cười?
Cường vẫn cười. Chao ôi, cứ sống cứ nghĩ cứ nói năng thẳng đuột như cái lão tiều phu đốn củi này thì cuộc đời sẽ dễ chịu đi biết chừng nào? Cái gọi là thế giới bên trong con người phức tạp thật! Như anh, chưa bao giờ anh nghĩ đến cái sống cái chết nhiều như những ngày này. Sống nặng nề, chết mỏng manh, như trò đùa. Chả lẽ chiến tranh chỉ gói gọn trong cái định nghĩa khô cằn là ngày nào cũng chôn nhau nhưng chưa đến lượt chôn mình ư? Anh hiểu, trước sau gì rồi cái chết cũng sẽ tìm đến anh nhưng nó đến lúc nào, đến ra sao, đêm hay ngày, chóng vánh hay nhọc nhằn, đau đớn hay nhẹ bẫng thì chưa liệu được, và anh cũng đã sẵn sàng đón nhận nó như bạn bè đồng đội lần lượt từng người đã đón nhận. Song một khi nó chưa đến thì cái đầu con người cũng chia thành nhiều ngăn nhiều vách lắm. Không phải không có lúc nửa đêm chợt tỉnh, nhìn lên bầu trời đen kịt như một cái nắp quan tài, anh chợt hãi hùng nhận ra thế là mình sắp phải xa cái thế giới này, sắp phải xa tất cả: bầu trời, mặt đất, Hà Nội, xa mẹ... để rồi thoắt rùng mình khi có một ý nghĩ xám xì bật nở: hay là tìm cách trở về phía sau như có lần ông tư lệnh mặt trận bạn của mẹ đã gợi ý? Chính ông ấy gợi ý chứ có phải mình chủ động, mình hèn nhát tìm đường lui lại đâu. Nhưng rồi những khuôn mặt của Tạ, của Sen, của Bình, của Hải và đặc biệt nét ngây thơ đến tội tình của Tú đã khiến anh không thể, đã níu giữ anh lại như sự níu giữ của một cái gì hết sức thiêng liêng, sâu thẳm, cốt nhục chứ không đơn thuần chỉ là danh dự hay mục đích to lớn của trận đánh.
- Anh Tạ, thằng cu con anh lớn chưa? - Cường hỏi sau một lúc im lặng.
- Mười ba tuổi, nhưng nó cao gần bằng bố nó và chỉ vài mùa rẫy nữa là nó nhất định sẽ cao hơn tao. Không hiểu nó giống tính ai mà ghê lắm, nhất là đôi mắt, mắt chồn mắt thú chứ không phải mắt người. Mỗi lần tao chán đời đi uống rượu về là mắt nó lại nhìn tao như nhìn cái thằng vô tích sự. Mà kể ra cũng vô tích sự thật. Có mỗi thằng con mà không nuôi nổi, đành phải để nó nghỉ học giữa chừng đi phụ mẹ nó làm rẫy thì còn ra cái giống gì, nhục hơn chó! Thế là nhân có đợt nghĩa vụ quân sự, tao đi khám luôn và mấy tuần sau lên đường. Cũng là muốn sau này trở về, cái thằng con trời đánh nó không còn nhìn tao với đôi mắt ấy nữa, nó phải tự hào vì bố nó là một người lính anh dũng đàng hoàng chứ đùa à? Khà khà!
Tạ cười hiền khô. Lây cái cười đó, Cường hỏi tiếp:
- Anh đi bộ đội lâu chưa?
- Chục năm có lẻ.
- Vậy tại sao...
Biết lỡ lời, Cường kịp dừng lại nhưng Tạ lại dấn luôn:
- Tại sao tao chậm tiến chứ gì? Đã hỏi thì hỏi bố nó luôn đi lại còn tế với chả nhị... Đúng là dân sinh viên! Trả lời nhé, tại tao thất học và cả tại có lần tao đã cho thằng cha xã đội trưởng chỗ đóng quân một cái bạt tai vẹo mặt vì dám tòm tem với vợ của một cậu đi B, thế là đang thượng sĩ tụt xuống trung sĩ, tức nhưng không tiếc, có dịp tao lại bạt nữa. Mẹ, tòm tem với vợ thằng nào còn có thể nhắm mắt bỏ qua nhưng với vợ thằng lính, lại là lính chiến trường thì không tha được, cứ phải bạt cật lực. Khà khà...
Cái miệng Tạ lại nhệch ra trong một nét cười chả biết vui hay buồn.
- Thôi không khúc nhôi nữa. - Tạ phẩy tay. - Cứ như hai cái con đàn bà rỗi việc, tao đi kiểm tra một vòng đây, tranh thủ ngủ tí lấy sức đi, thằng em!
Tạ nói rồi xách súng đi ra khỏi cửa hầm, cái dáng đi vâm vam, chắc nịch như đi trên chính đất đai mồ mả nhà mình.
Nửa đêm rồi mà nóng nực vẫn hoàn nguyên nóng nực, chả dịu đi được chút nào! Ngoài này còn có chút gió loe hoe chứ trong kia bí bách lắm nên Cường vẫn nán ngồi lại chưa muốn vào.
Tiểu đội phó Sen bước ra ngồi xuống cạnh anh, vẫn cái giọng vừa xa lạ vừa gần gũi, nửa phê phán nửa thông cảm:
- Này, hành động tha cho thằng lính hồi chiều khi cậu đã định giáng thẳng viên đá xuống đầu nó là không ổn đâu, cái chất yêng hùng, hảo hớn, mơ hồ địch ta ấy nó chỉ có thể có trong tiểu thuyết dã sử Trung Hoa, còn đây là cuộc chiến tranh tổng lực của thế kỷ 20. Biết đâu tha cho nó lúc này, lúc khác nó lại găm súng bắn nát ngực cậu và nát ngực cả tôi? Cuộc chiến một mất một còn này, mọi hành động nhân đạo chung chung đều là tự sát.
Cường im lặng. Không hiểu sao lúc này anh không muốn đối thoại, không muốn tranh cãi gì hết, nhất là tranh cãi với một cái đầu thông minh, phức tạp như Sen. Anh chỉ muốn ngồi một mình, ngồi xa ra tất cả mọi sự để cho đầu óc nó vơi loãng đi một chút. Sen cũng không nói thêm gì nữa, cả hai nhìn ra khoảng không mờ mịt hình như đang có những ngọn gió nồng tanh, khô khát sắp thổi về.