Nhẫn thạch - Chương 01
Đâu đó ở Afghanistan hay một nơi nào khác.
CĂN PHÒNG NHỎ. Hình chữ nhật.
Ngột ngạt dầu các bức tường màu xanh nhạt, và những tấm rèm có họa tiết chim di
cư sững lại giữa đà bay trên một nền trời vàng và xanh dương. Thủng lỗ đôi chỗ,
chúng để lọt những tia nắng đến chết lịm trên những sọc kẻ của một tấm thảm
len. Cuối phòng, một tấm rèm khác. Xanh lục. Chẳng có họa tiết nào. Rèm che một
cánh cửa đã bị bịt lại. Hay một cái kho chứa đồ vật.
Phòng trống trơn. Chẳng chút
trang trí. Trừ bức tường chia cách hai khung cửa sổ trên đó treo một con dao
găm nhỏ và, dưới chiếc dao găm, bức ảnh, một người đàn ông để râu mép. Khoảng
ba mươi tuổi. Tóc xoăn. Khuôn mặt vuông đóng khung bởi hai viền râu má cắt tỉa
cẩn thận. Đôi mắt đen sáng ánh lên. Chúng nhỏ, ở giữa là một chiếc mũi diều
hâu. Người đàn ông không cười, tuy nhiên anh ta có vẻ một người đang cố nén
cười. Khiến anh có một vẻ rất lạ, như đang ngầm chế giễu kẻ nhìn mình. Ảnh đen
trắng, được tô màu nhạt theo lối thủ công.
Đối diện với tấm ảnh, dưới
chân tường, vẫn là người đàn ông ấy, bây giờ đã già hơn, nằm trên một tấm nệm
màu đỏ trải ngay trên mặt đất. Anh ta có râu. Muối tiêu. Gầy. Quá gầy. Chỉ còn
da bọc xương. Xanh tái. Đầy nếp nhăn. Chiếc mũi trông càng giống mỏ diều hâu.
Vẫn không cười. Và vẫn cái vẻ chế giễu kì lạ ấy. Miệng hé mở. Đôi mắt, càng nhỏ
đi, lún sâu trong hố mắt. Cái nhìn dán lên trần nhà, vào những thanh xà gộc đen
sẫm và mục. H cánh tay, bất động, buông xuôi theo người. Dưới làn da trong mờ,
những đường gân trông như những con sâu mệt mỏi quấn lấy các đốt xương nhô lên
trên thân thể anh. Cổ tay trái đeo một chiếc đồng hồ, và đốt ngón áp út đeo một
chiếc nhẫn bằng vàng. Chỗ hõm cánh tay phải có một sợi dây truyền dịch tiết ra
một thứ nước không màu nhỏ xuống từ một chiếc túi nhựa treo trên tường, ngay
bên trên đầu anh. Phần thân còn lại phủ một chiếc áo dài xanh, có thêu ở cổ và
ở tay áo. Hai chân, cứng đơ như hai cây cọc, vùi dưới một tấm đắp màu trắng,
bẩn.
Một bàn tay, đung đưa theo
nhịp thở, bàn tay của một người đàn bà, đặt trên ngực anh, chỗ tim. Người đàn
bà ngồi. Hai chân co lại và thu vào ngực. Đầu gục giữa hai gối. Mái tóc chị
đen, rất đen, và dài, phủ đôi vai đung đưa, theo nhịp đều đặn của cánh tay.
Trên bàn tay kia, bàn tay
trái, chị cầm một chuỗi hạt dài, màu đen. Chị lần chuỗi hạt. Lặng lẽ. Chậm rãi.
Cùng nhịp với đôi vai. Hay cùng nhịp hơi thở của người đàn ông. Cơ thể chị trùm
kín một chiếc áo dài. Màu đỏ tía. Ở đầu ống tay áo, cũng như ở mép vạt áo đôi
họa tiết rời hình những bông lúa mì.
Ngang tầm tay chị, một cuốn
sách được mở ra ở trang giáp bìa và đặt trên một chiếc gối nhung, cuốn kinh
Coran.
Một đứa bé gái khóc. Nó không
ở trong phòng. Có thể nó ở phòng bên. Hay ngoài hành lang. Đầu người đàn bà
nhúc nhích. Mệt mỏi. Rời khỏi hai đầu gối.
Chị đẹp. Ngay ở góc mắt trái,
một vết sẹo nhỏ, làm khóe mắt hơi nheo lại, khiến cái nhìn của chị có một vẻ lo
lắng kì lạ. Đôi môi đầy, khô và tái, lầm rầm nhẹ nhàng và chậm rãi mãi cùng một
từ trong lời kinh.
Một đứa bé gái thứ hai khóc.
Nghe gần hơn đứa trước, hẳn là ngay sau cánh cửa. Người đàn bà rụt bàn tay khỏi
khuôn ngực người đàn ông. Chị đứng dậy và rời căn phòng. Chị đi rồi cũng chẳng
có gì thay đổi. Người đàn ông vẫn không hề động đậy. Anh vẫn tiếp tục thở lặng
lẽ, chậm rãi.
Tiếng chân người đàn bà khiến
hai đứa bé nín khóc. Chị ở lại bên chúng hồi lâu, cho đến khi ngôi nhà, mọi thứ
lịm đi; rồi chị trở lại. Tay cầm một chiếc lọ
nhỏ màu trắng, tay kia chuỗi hạt đen. Chị ngồi xuống bên cạnh người đàn ông, mở
nắp lọ, cúi xuống để tra giọt thuốc vào mắt phải, hai giọt vào mắt trái anh.
Vẫn không rời chuỗi hạt. Không ngừng lần chuỗi hạt.
Các tia nắng, lọt qua các lỗ
thủng trên nền trời màu vàng và xanh dương ở tấm rèm vuốt ve lên lưng người đàn
bà, và trên đôi vai đung đưa đều đều theo nhịp lần chuỗi hạt nơi các ngón tay
chị. Xa, đâu đó trong thành phố, tiếng một quả bom nổ. Dữ dội, có thể nó đã phá
tan vài ngôi nhà, vài giấc mơ nào đó. Có kháng cự. Những tiếng đáp trả xé nát
cái im lặng nặng trĩu của buổi đứng trưa, khiến các tấm kính rung lên, nhưng
không đánh thức những đứa bé dậy. Chúng khiến đôi vai người đàn bà sững lại một
khoảnh khắc - vừa đúng hai hạt trên chuỗi hạt. Chị nhét lọ thuốc vào túi. “Al-Qahhâr,”
chị thì thầm. “Al-Qahhâr,” chị nhắc lại. Chị lại nhắc lại theo mỗi nhịp thở của
người đàn ông. Và cứ mỗi từ, chị lại lần một hạt trên chuỗi hạt.
Hết một vòng chuỗi hạt. Chín
mươi chín hạt. Chín mươi chín lần “Al-Qahhâr”.
Chị đứng dậy để trở lại chỗ
ngồi trên tấm nệm, cạnh đầu người đàn ông, và lại đặt bàn tay phải lên ngực
anh. Chị lại bắt đầu một vòng chuỗi hạt. Khi đã xong một vòng nữa chín mươi
chín lần “Al-Qahhâr”, bàn tay chị rời khuôn ngực người đàn ông và dịch xuống
cổ. Thoạt đầu các ngón tay chị lẫn vào trong chòm râu rậm của anh, dừng lại ở
đó một hay hai hơi thở. Rồi lộ ra, lần đến môi, vuốt ve chiếc mũi, đôi mắt,
vầng trán, và cuối cùng, lần vào trong mớ tóc dày cáu bẩn của anh. “Anh có cảm
thấy bàn tay em không?” Thân mình gập lại, cúi mình xuống trên người anh, chị
nhìn chăm chăm vào mắt anh. Chẳng có dấu hiệu nào hết. Chị ghé tai vào môi anh.
Chẳng một tiếng động. Vẫn cái vẻ nhớn nhác ấy ở anh: miệng hé ra, cái nhìn lạc
vào những thanh xà tối sẫm trên trần nhà.
Chị vẫn còn cúi xuống để thầm
thì: “Nhân danh Allah, hãy tỏ một dấu hiệu để cho em biết là anh cảm được bàn
tay em, rằng anh vẫn sống, rằng anh trở lại với em, với chúng em! Chỉ một dấu
hiệu thôi, một dấu hiệu nhỏ thôi để cho em còn có được sức lực, còn có được
niềm tin.” Đôi môi chị run lên. Chị van xin: “Chỉ một từ thôi...”, đôi mắt chị
lướt sát vào tai người đàn ông. “Em mong ít ra anh còn nghe được tiếng em.” Đầu
chị ngả xuống gối.
“Người ta bảo em rằng sau hai
tuần là anh có thể cử động được, anh có thể ra dấu được... Vậy mà đã ba tuần
rồi... hay gần ba tuần rồi. Vẫn chẳng thấy gì cả!” Chị quay người lại để ngả
lưng ra. Cái nhìn của chị cũng lạc về cùng hướng với cái nhìn của người đàn
ông, đâu đó giữa những thanh xà đen sẫm và mục.
“Al-Qahhâr, Al-Qahhâr,
Al-Qahhâr...” Người đàn bà chậm chạp ngồi dậy. Nhìn chăm chăm vào người đàn ông
một cách tuyệt vọng. Chị lại đặt bàn tay lên ngực anh. “Nếu anh còn thở được,
vậy thì anh có thể ngưng hơi thở lại, phải không? Hãy ngưng lại đi!” Hất mái
tóc ra sau gáy, chị năn nỉ: “Hãy ngưng lại chỉ một lần thôi!” và lại nghe tai
vào miệng anh. Chị lắng nghe. Chị nghe thấy. Anh thở.
Tuyệt vọng, chị lẩm bẩm: “Em
không còn chịu được nữa.”
Sau một tiếng thở dài bực
bội, chị đột ngột đứng lên và lặp lại, to tiếng hơn: “Em không còn chịu được
nữa...” Kiệt sức. “Từ sáng đến tối, cứ đọc mãi tên Allah, em không còn chịu
được nữa!” Chị bước mấy bước về phía tấm ảnh, không nhìn ảnh, “đã mười sáu ngày
rồi...”, ngập ngừng, “không...” và đếm trên các ngón tay chẳng lấy gì làm chắc.
Bối rối, chị quay lại chỗ cũ
để nhìn xuống trang kinh Coran đang để mở. Chị soát lại. “Mười sáu ngày... Hôm
nay em phải gọi tên thứ mười sáu của Allah. Al-Qahhâr, đấng Thích Thống. Đúng,
đúng rồi, tên thứ mười sáu...” Trầm tư. “Mười sáu ngày!” Chị lùi lại. “Đã mười
sáu ngày em sống theo nhịp thở của anh.” Gay gắt. “Mười sáu ngày em cùng thở
với anh.” Chị nhìn chăm chăm người đàn ông. “Em cũng thở như anh, hãy nhìn xem
này!” Chị hít vào thật sâu, rồi đau đớn thở ra. Theo đúng nhịp thở của anh. “Dẫu
không đặt tay lên ngực anh, bây giờ em cũng có thể thở đúng cùng nhịp với anh.”
Chị cúi xuống trên người anh. “Và ngay cả khi không ở bên cạnh anh, em cũng thở
cùng nhịp với anh.” Chị lùi ra xa. “Anh có nghe thấy tiếng em không?” Chị kêu
lên những tiếng: “Al-Qahhâr”, và lại lần chuỗi hạt. Vẫn theo đúng nhịp ấy. Chị
đi ra khỏi phòng. Vẳng lại tiếng chị: “Al-Qahhâr, Al-Qahhâr...” trong hành lang
và ngoài kia...
“Al-Qahhâr...” xa dần.
“Al-Qahhâr...” nhỏ hơn.
“Al...” bặt đi.
Mất hẳn.
Im lặng một lúc. Rồi “Al-Qahhâr”
lại vang lên bên cửa sổ, trong hành lang, sau cánh cửa. Người đàn bà trở vào
trong phòng và dừng lại bên người đàn ông. Đứng đấy. Bàn tay trái vẫn lần chuỗi
hạt đen. “Thậm chí em có thể nói cho anh biết trong khi em đi ra ngoài kia, anh
đã thở ba mươi lần.” Chị ngồi thụp xuống. “Và ngay cả lúc này, khi đang nói với
anh, em vẫn có thể đếm được hơi thở của anh.” Chị nâng cao chuỗi hạt lên để nó
nằm trong tầm nhìn bất định của người đàn ông. “Đấy, từ lúc em vào, anh đã thở
bảy lần.” Chị ngồi xuống trên tấm thảm len và nói tiếp: “Các ngày của em, em
không chia chúng thành giờ, các giờ không thành phút, phút thành giây... một
ngày đối với em bằng chín mươi chín vòng chuỗi hạt!” Chị nhìn dán lên chiếc
đồng hồ đang giữ lấy các đốt xương ở cổ tay người đàn ông. “Thậm chí em có thể
nói với anh là còn năm vòng chuỗi hạt nữa thì ông Mollah sẽ gọi mọi người cầu
kinh buổi trưa và kể chuyện cuộc đời đấng Tiên Tri.” Lặng đi một lúc. Chị tính “Đến
vòng thứ hai mươi, người mang nước đến sẽ gõ cửa nhà hàng xóm. Như thường lệ,
bà già hàng xóm có tiếng ho sù sụ sẽ ra mở cửa. Đến vòng thứ ba mươi, một cậu
bé sẽ vừa đạp xe qua đường vừa huýt sáo điệu Lai’li, Lai’li, Lai’li djân, djân, djân, em đã làm tan nát trái tim anh
ghẹo đứa con gái nhà ông hàng xóm...” Chị cười. Một nụ cười buồn. “Và khi em
lần đến vòng thứ bảy mươi hai, cái lão Mollah ngu đần ấy sẽ tới thăm anh, và
vẫn như mọi ngày, sẽ trách mắng em bởi vì, lão ta bảo, em không chăm sóc anh
chu đáo, em đã không nghe theo những lời căn dặn của lão ta, em chểnh mảng việc
cầu khấn... Nếu không thì anh đã lành rồi!” Chị đặt bàn tay mình lên cánh tay
người đàn ông. “Nhưng anh, anh làm chứng cho em. Anh biết rằng em chỉ sống cho
anh, bên cạnh anh, với hơi thở của anh!” Chị phản pháo: “Nói phải đọc mỗi ngày
chín mươi chín lần một trong chín mươi chín tên của Allah thì dễ lắm... Mà phải
đọc như vậy trong chín mươi chín ngày! Nhưng cái lão Mollah đần độn ấy nào có
biết được phải ở một mình bên cạnh một người đàn ông đang...”, chị không tìm ra
được từ, hay không dám nói ra từ ấy, “... và một mình với hai đứa bé gái là thế
nào đâu!” chị gắt thầm.
Im lặng một lúc lâu. Gần năm
vòng chuỗi hạt. Năm vòng người đàn bà ngồi dán mình vào tường, mắt nhắm lại.
Lời gọi cầu kinh buổi trưa bứt chị ra khỏi cơn đờ đẫn. Chị cầm lấy tấm thảm
nhỏ, giở ra và trải trên nền nhà. Bắt đầu cầu kinh.
Xong, chị vẫn ngồi trên tấm
thảm để nghe ông Mollah rao giảng sự tích đấng Tiên Tri cho ngày hôm nay trong
tuần: “... và ngày hôm nay là một ngày máu, bởi đúng vào một ngày thứ Ba Eva
lần đầu tiên đã mất máu uế, một trong những đứa con trai của Adam đã giết chết
em trai mình, người ta đã giết chết Grégoire, Zacharie và Yahia - cầu cho linh
hồn họ được an lành, - cũng như các phù thủy của Pharaon, Assaya Bent Muzahim,
vợ của Pharaon, và con bò của các con Israel...”
Chị nhìn quanh. Căn phòng.
Chồng chị. Cái cơ thể trong khoảng trống không ấy. Cái cơ thể trống không ấy.
Cái nhìn của chị đầy lo âu.
Chị đứng lên, gấp thảm lại, đặt vào chỗ cũ, trong góc phòng, và đi ra.
Một lúc sau, chị trở lại xem
mực huyết thanh trong túi truyền. Còn rất ít. Chị nhìn chăm chăm cái chia giọt,
theo dõi khoảng cách giữa các giọt. Rất ngắn, ngắn hơn nhịp thở của người đàn
ông. Chị chỉnh lại nhịp chảy, đợi hai giọt, rồi đi ra vẻ quả quyết: “Em ra hiệu
thuốc mua huyết thanh.” Nhưng trước khi bước qua ngưỡng cửa, chân chị ngập
ngừng, giọng chị than thở: “Em mong họ lấy được thuốc...” Chị rời khỏi căn
phòng. Nghe tiếng chị đánh thức các con, “đến đây các con, ta đi ra ngoài,” và
nghe chị ra đi, có tiếng bước chân của bọn trẻ chạy theo trong hành lang, trong
sân...
Sau ba vòng chuỗi hạt, hai
trăm bảy mươi lần thở, chị trở về.
Người đàn bà đưa các con vào
phòng bên cạnh. “Mẹ ơi, con đói”, một đứa khóc. “Sao mẹ không mua chuối?!” đứa
kia kêu. Người mẹ dỗ: “Mẹ sẽ cho các con bánh mì.” Mặt trời đã thu lại những
tia nắng từ các lỗ thủng trên nền trời vàng và xanh dương ở tấm rèm, người đàn
bà lại xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Chị nhìn người đàn ông hồi lâu, rồi lại gần,
kiểm tra hơi thở của anh. Anh thở. Túi thuốc truyền đã cạn. “Hiệu thuốc đóng
cửa,” chị bảo, và, vẻ chịu đựng, chờ đợi cứ như sẽ có những chỉ dẫn khác. Chẳng
có gì cả. Chẳng có gì ngoài những hơi thở. Chị bước ra ngoài rồi trở lại tay
cầm một cốc nước. “Phải làm như lần trước, với nước ngọt - mặn...”
Nhanh nhẹn và thành thạo, chị
gỡ dây truyền ra khỏi cánh tay anh. Rút kim tiêm. Súc ống truyền, nhét vào mồm
anh đang hé mở, và ấn sâu cho đến khi chạm tới ống tiêu hóa của anh. Rồi chị đổ
nước trong cốc vào túi dịch truyền. Chỉnh giọt, kiểm tra khoảng cách giữa các
giọt. Cứ mỗi hơi thở một giọt.
Và lại ra đi. Khoảng mươi
giọt sau, chị trở lại. Khăn đội đầu cầm tay. “Em phải đi đến nhà bà cô.” Chị
vẫn chờ... có thể là chờ anh cho phép. Cái nhìn của chị lạc đi. “Em điên mất
rồi!” Vẻ căng thẳng, chị quay lại và bước ra khỏi phòng. Sau cánh cửa, trong
hành lang, tiếng chị, “em mặc...”, bước đi rồi trở lại, “mặc anh nghĩ gì về bà
ấy...”, bước đi, “... em thì em yêu bà ấy”, quay trở lại, “em chỉ còn mỗi bà
ấy... các chị em của em đã bỏ rơi em hết rồi, các anh em của anh cũng vậy...”,
bước đi, “... gặp bà ấy”, trở lại, “phải thế...”, bước đi, “bà ấy khiến anh bực
mình... và cả em nữa!” Nghe tiếng chị ra đi cùng với hai con.
Họ đi vắng suốt ba nghìn chín
trăm sáu mươi lần thở của người đàn ông. Ba nghìn chín trăm sáu mươi lần thở,
suốt thời gian đó chẳng có gì xảy ra ngoài những việc người đàn bà đã đoán
trước: người mang nước đến gõ cửa nhà bên cạnh. Một người đàn bà có tiếng ho sù
sụ mở cửa cho cậu ta... Vài hơi thở sau, một cậu con trai vừa băng qua đường
trên chiếc xe đạp của cậu vừa huýt sáo điệu Lai’li,
Lai’li, Lai’li djân, djân, djân, em đã làm tan nát trái tim anh…
Họ trở về, chị cùng hai đứa
con. Chị để chúng lại trong hành lang. Cộc lốc, chị mở cửa. Chồng chị vẫn nằm
đó. Vẫn tư thế ấy. Vẫn nhịp thở ấy. Còn chị, chị tái mét. Tái hơn cả anh. Chị
dựa vào tường. Sau hồi lâu im lặng, chị rên lên: “Bà cô em... bà ấy đã bỏ nhà
ra đi rồi... bà đi rồi!” Vẫn tựa vào tường chị trượt người xuống đất. “Bà ấy đi
rồi... đi đâu? Không ai biết... em không còn ai nữa hết... không còn ai hết!”
Giọng chị run lên. Cổ họng thắt lại. Nước mắt chảy dài. “Bà ấy không hề biết
chuyện gì đã xảy đến với em... bà ấy không biết! Nếu không bà ấy hẳn đã để lại
cho em một tin nhắn, bà ấy hẳn đã chạy đến cứu em... bà ấy ghét anh, chắc chắn
là thế rồi, nhưng bà ấy yêu em... bà ấy yêu các con... nhưng anh...” Tiếng nức
nở cắt mất giọng chị. Chị xích ra xa tường, nhắm mắt lại, hít sâu để nói lên
một tiếng. Mà không được. Cái tiếng ấy ắt phải rất nặng, nặng trĩu ý nghĩa,
nặng đến đè nát giọng chị. Chị giữ lấy nó tận trong sâu thẳm của chị, và tìm
một điều gì đó khác, nhẹ hơn, êm dịu hơn, dễ nói ra hơn: “Còn anh, anh biết
rằng anh có một người vợ và hai đứa con gái!” Chị tự đánh vào bụng. Một lần.
Hai lần. Như để cố trục cái từ nặng trĩu ra khỏi gan ruột. Chị ngồi xổm xuống
và thét lên: “Khi anh kê cái khẩu Kalachnikov chó chết của anh lên vai anh có
nghĩ đến mẹ con tôi giây nào không? Quân ch...”, chị vẫn kìm lại một từ.
Một lúc, chị bất động. Mắt
nhắm lại. Đầu cúi xuống. Chị rên lên đau đớn. Hồi lâu. Đôi vai chị đung đưa
theo nhịp thở. Bảy hơi thở. Bảy hơi thở, và chị ngẩng đầu lên, chùi mắt bằng
tay áo có những họa tiết hình bông lúa mì. Sau khi nhìn hồi lâu, chị lại gần
người đàn ông, cúi xuống trên khuôn mặt anh và nói “em xin lỗi”, vuốt ve khuôn
mặt anh. “Em mệt. Em kiệt sức mất rồi”, chị thầm thì, “Đừng để em lại một mình,
em chỉ có anh”, cất cao giọng: “Không có anh, em chẳng là gì nữa hết. Hãy nghĩ
đến các con gái anh! Em sẽ làm gì với chúng? Chúng còn quá nhỏ...” Chị ngừng
vuốt ve anh.
Bên ngoài, đâu đó, không xa
lắm, ai đó vừa bắn một viên đạn. Một người khác, ở gần hơn, đáp lại. Người thứ
nhất bắn một viên thứ hai. Người kia không đáp lại nữa. “Hôm nay lão Mollah sẽ
không đến,” chị nói có đôi chút nhẹ nhõm. “Lão ấy sợ đạn lạc. Lão cũng hèn như
các anh em của anh.” Chị đứng dậy và đi vài bước. “Các anh, đàn ông các anh đều
hèn!” Chị trở lại. Rầu rĩ, chị nhìn chăm chăm người đàn ông “Những người anh em
vẫn lấy làm tự hào khi nhìn thấy anh chiến đấu chống kẻ thù của họ, bây giờ họ
đâu cả rồi?” Hai hơi thở và sự im lặng của chị đầy ắp phẫn nộ. “Lũ hèn!” chị
thốt lên. “Họ phải lo cho các con anh, cho em - cho danh dự của anh, danh dự
của họ, đúng không? Mẹ anh, cứ luôn miệng sẽ hi sinh thân mình vì mỗi nhúm tóc
của con trai, bà ấy ở đâu rồi!? Bà chẳng bao giờ muốn chấp nhận con trai của
bà, cái người anh hùng đã từng chiến đấu trên tất cả các mặt trận ấy, chống lại
mọi kẻ thù, lại có thể nhận lấy một viên đạn trong một cuộc ẩu đả thảm hại với
một kẻ - lại ở trong chính phe của mình kia chứ - đã từng bảo: tao nhổ vào l.
mẹ mày! Vừa vặn một câu chửi!” Chị tiến tới một bước. “Thật nực cười, thật phi lí!”
Chị nhìn thơ thẩn khắp căn phòng, rồi dừng lại nặng nề trên người anh có thể
đang nghe chị nói tiếp: “Anh có biết... gia đình anh, trước khi rời bỏ thành
phố, đã nói gì với em? Rằng họ không thể lo cho vợ anh lẫn các con anh... anh
phải biết: họ đã bỏ rơi anh. Họ chẳng thèm đếm xỉa gì đến tình trạng của anh,
tai họa của anh, danh dự của anh!... Họ đã bỏ rơi chúng ta...”, chị thét lên. “Chúng
ta, em!” Chị đưa cánh tay cầm chuỗi hạt lên phía trần nhà, và van xin: “Lạy
Allah, xin hãy giúp con!... Al-Qahhâr, Al-Qahhâr...” Và khóc.
Một vòng tràng hạt. Mệt lả,
chị lúng búng: “Tôi... tôi đang... tôi... điên mất rồi”, ngả đầu về phía sau, “sao
tôi lại nói với anh ấy tất cả những điều đó? Tôi điên rồi. Hãy cắt lưỡi con đi,
lạy Allah! Hãy nhét đầy đất vào họng con,” ôm lấy mặt, “lạy Allah, xin che chở
cho con, con đang lạc lối, hãy chỉ đường cho con!”
Không một tiếng nói.
Không một con đường. Bàn tay
chị lẫn trong mái tóc chồng. Từ trong cuống họng khô khốc của chị tiết ra những
từ van vỉ: “Hãy trở lại đi anh, em van anh, trước khi em mất trí. Trở lại đi
anh, dù chỉ là cho các con của anh...” Chị ngẩng đầu lên. Qua dòng nước mắt,
cái nhìn của chị đóng cứng theo cùng hướng nhìn bất định của người đàn ông. “Lạy
Allah, xin làm cho anh ấy tỉnh lại!” Giọng chị trầm xuống: “Thế mà anh ấy đã
chiến đấu rất lâu nhân danh Người. Vì Djihad!” Chị ngừng lời, rồi lại tiếp: “Còn
Người, Người để cho anh ấy ra thế này đây?! Còn các con của anh ấy? Còn con?
Người không thể làm thế, không, Người không có quyền để cho chúng con phải thế
này, không còn người đàn ông nào cả!” bàn tay trái của chị, bàn tay cầm chuỗi
hạt, kéo cuốn kinh Coran về phía chị. Phẫn uất bật lên thành tiếng trong cổ
họng chị. “Hãy chứng minh cho chúng con thấy là Người tồn tại, hãy làm cho anh
ấy tỉnh lại!” Chị mở cuốn kinh Coran ra. Ngón tay chị lần theo các tên Allah
trên trang giáp bìa. “Con thề với Người con không bao giờ để cho anh ấy đi đánh
nhau như một tên u mê khốn khổ nữa. Dù là nhân danh Người! Anh ấy sẽ là của
con, ở đây, với con.” Một tiếng nức nở thắt chặt cổ họng chị, chỉ để thoát ra
được một tiếng kêu nghẹn tắt: “AlQahhâr...” Chín mươi chín lần “Al-Qahhâr”.
Căn phòng tối dần. “Mẹ ơi,
con sợ. Tối đen.” Tiếng một trong hai đứa bé rên rỉ trong hành lang, sau cánh
cửa. Người đàn bà đứng dậy ra khỏi phòng.
“Đừng sợ, con. Mẹ đây mà.”
“Sao mẹ lại kêu lên thế? Mẹ
làm con sợ”, đứa bé khóc. “Mẹ có kêu lên đâu, mẹ nói với bố con đấy chứ”, người
mẹ dỗ. Họ đi xa cánh cửa. “Tại sao mẹ lại gọi bố là Al-Qahhâr? Bố con giận à?”
“Không, bố sẽ giận nếu ta
quấy rầy bố.”
Đứa bé đã nín.
Đêm đã xuống hẳn.
Và đúng như người đàn bà đã
đoán, ông Mollah không đến.
Chị trở lại với một cây đèn
bão. Chị đặt cây đèn xuống đất cạnh đầu người đàn ông và lấy từ trong túi ra lọ
thuốc nhỏ mắt. Chị cẩn thận tra thuốc vào mắt anh. Một, hai. Một, hai. Rồi chị
rời căn phòng, lúc trở lại mang theo một tấm đắp và một chiếc chậu nhỏ bằng
nhựa. Chị nhấc tấm đắp vẫn che đôi chân người đàn ông. Chị lau bụng, hai bàn
chân, dương vật người đàn ông. Xong, chị phủ tấm đắp sạch lại cho anh, kiểm tra
khoảng cách giữa hai giọt nước mặn - ngọt và cầm đèn bước ra.
Tất cả lại tối sầm. Rất lâu.
Mờ sáng, khi cái giọng khàn khàn của ông Mollah gọi các tín đồ cầu kinh, tiếng
bước chân kéo lê vang lên trong hành lang ngôi nhà, tiếng đến gần căn phòng, đi
ra xa rồi trở lại. Cánh cửa mở ra. Người đàn bà bước vào. Chị nhìn người đàn
ông. Chồng chị. Anh vẫn ở đấy, vẫn tư thế ấy. Tuy nhiên đôi mắt anh khiến chị
tò mò. Chị bước tới một bước. Mắt anh nhắm. Chị bước lại gần hơn nữa. Một bước.
Không có tiếng động. Rồi, hai bước. Chị nhìn anh. Chị không nhận ra điều gì
khác. Chị nghi ngờ. Đi lui, chị rời căn phòng. Không đầy năm hơi thở sau, chị
trở lại với cây đèn bão. Mắt anh vẫn nhắm. Chị ngã bệt xuống đất. “Anh ngủ
sao?!” Bàn tay chị, run rẩy, đặt lên ngực người đàn ông. Anh thở. “Đúng rồi...
anh ngủ!” chị kêu lên. Ánh mắt chị tìm một ai đó trong phòng để nói lại lần nữa
với họ: “Anh ấy ngủ!”
Trống trơn. Chị sợ.
Chị cầm tấm thảm nhỏ, giở và
trải trên nền đất. Đọc kinh sáng xong, chị ngồi đấy cầm lấy cuốn kinh Coran, mở
ra ở trang có đánh dấu bằng một chiếc lông công, chị nhấc chiếc lông ra và cầm
trong tay phải. Bàn tay trái, chị lần chuỗi hạt.
Sau khi đọc vài đoạn kinh,
chị đặt chiếc lông công vào, khép cuốn kinh lại, và ngồi một lúc tư lự, còn
nhìn mãi chiếc lông nhô ra khỏi cuốn sách thiêng. Chị vuốt ve chiếc lông, thoạt
tiên một cách buồn bã, rồi căng thẳng.
Chị đứng dậy, xếp tấm thảm
lại và đi về phía cửa. Trước khi bước qua cửa, chị dừng lại. Quay lại. Quay lại
chỗ chị vẫn ngồi bên cạnh người đàn ông. Một bàn tay ngập ngừng, chị banh một
mắt anh ra. Rồi mắt kia. Mắt anh không nhắm lại nữa. Người đàn bà cầm lấy lọ
thuốc và nhỏ vài giọt vào hai mắt anh. Một, hai. Một, hai. Kiểm tra túi dịch
truyền. Vẫn còn nước ngọt - mặn. Trước khi đứng lên, chị dừng lại một lúc và
nhìn người đàn ông lo lắng, chị hỏi anh: “Anh còn có thể nhắm mắt lại được
không?” Cái nhìn ngơ ngẩn của người đàn ông không trả lời chị. Chị năn nỉ: “Được
chứ, anh làm được mà! Hãy làm lại một lần nữa đi!” và chờ. Hoài công.
Lo lắng, chị khéo léo luồn
bàn tay vào dưới gáy người đàn ông. Một cảm giác, một nỗi âu lo, khiến tay chị
run lên. Chị nhắm mắt, cắn chặt răng. Hít vào thật sâu. Đau đớn. Chị đau khổ.
Vừa thở ra, chị rút tay ra và, dưới ánh đèn, nhìn kĩ các đầu ngón tay run rẩy.
Chúng đều khô. Chị đứng lên để lật người đàn ông nằm nghiêng. Đưa cây đèn lại
sát gáy anh để nhìn kĩ một vết thương nhỏ vẫn còn mở miệng, tím nhợt, đã cạn
hết máu, nhưng chưa đóng sẹo.