Nhẫn thạch - Chương 02

Người đàn bà nín thở và ấn
vào vết thương. Người đàn ông vẫn không có phản ứng. Chị ấn mạnh hơn. Vẫn không
hề có dấu hiệu phàn nàn. Cả trong mắt lẫn trong hơi thở. “Thậm chí anh không
còn thấy đau nữa sao?!” Chị đặt anh nằm ngửa lại, cúi xuống để nhìn vào mắt
anh. “Anh chẳng bao giờ đau đớn! Anh chẳng bao giờ đau khổ, chẳng bao giờ!” chị
thốt lên. “Em chưa bao giờ nghe nói một người đàn ông có thể sống với một viên
đạn trong gáy! Thậm chí anh không hề chảy máu, không một chút mủ, không hề đau,
không hề đau đớn! Đấy là một phép màu! Mẹ anh bảo thế... cái phép màu chết
tiệt!” Chị đứng lên: “Ngay khi bị thương, anh đã tránh được đau đớn.” Giọng chị
thé lên trong cổ họng nghẹn thắt. “Và chính em phải chịu lấy nỗi đau này! Chính
em phải khóc vì nó!” Nói xong, chị đi về phía cửa. Nước mắt và uất hận đầy mắt,
chị biến mất trong bóng tối của hành lang, trong khi cây đèn bão khiến bóng
người đàn ông run rẩy trên bức tường cho đến khi trời đã sáng hẳn, và những tia
nắng lọt vào qua những lỗ thủng trên nền trời màu vàng và xanh dương nơi tấm
rèm khiến ngọn đèn chập chờn lay động.

Một bàn tay ngập ngừng muốn
mở cánh cửa phòng. Hay là không mở được. “Bố!” Tiếng một trong hai đứa bé át
tiếng rít của cánh cửa. “Con đi đâu đấy?” Nghe tiếng kêu của người đàn bà, đứa
bé kéo cánh cửa lại và đi ra xa. “Con yêu, đừng quấy rầy bố. Bố ốm. Bố đang
ngủ. Đến đây với mẹ!” Những bước chân nhỏ chạy trong hành lang. “Còn mẹ, khi mẹ
vào đấy, khi mẹ kêu lên, mẹ không quấy rầy bố sao?” Người mẹ trả lời: “Có chứ.”
Im lặng.

Một con ruồi bay vào trong căn
phòng câm lặng. Nó đậu trên trán người đàn ông. Ngập ngừng. Lưỡng lự. Nó lần
theo các nếp nhăn, liếm làn da không mùi vị. Hẳn là không mùi vị.

Nó bò xuống khóe mắt của anh.
Vẫn ngập ngừng. Vẫn lưỡng lự. Nó nếm chất ghèn trắng ở mắt rồi lùi lại. Chẳng
có gì xua nó. Nó tiếp tục bò, lần vào trong chòm râu, trèo lên mũi. Bay đi. Dò
theo thân người. Trở lại. Lại đậu trên mặt. Bám lấy cái ống cắm vào chiếc miệng
hé mở kia. Nó liếm cái ống ấy, lần theo ống cho đến mép môi. Không có nước bọt.
Chẳng mùi vị gì. Nó tiến thêm, bò vào miệng. Và chui luôn vào trong ấy.

Cây đèn bão hoài công hắt lên
những luồng cuối cùng. Ngọn lửa của nó tắt phụt. Người đàn bà trở vào. Một nỗi
mệt mỏi sâu thẳm xâm chiếm chị - con người chị, cơ thể chị. Sau vài bước uể oải
về phía chồng, chị dừng lại. Còn do dự hơn cả ngày hôm trước. Cái nhìn của chị
nán lại đầy tuyệt vọng trên tấm thân bất động kia. Chị ngồi xuống giữa người
đàn ông và cuốn kinh Coran chị đã mở ra ở trang giáp bìa. Ngón tay chị chạm lần
lượt và các tên của Allah. Đếm những cái tên. Dừng lại ở cái tên thứ mười bảy. “Al-Qahhâr,
Người Ban Lộc”, chị thầm thì. Một nụ cười cay đắng làm nhíu khóe môi. “Em chẳng
cần lộc”, và chị cầm lấy chiếc lông công nhô ra khỏi cuốn kinh Coran. “Em chẳng
còn đủ can đảm đọc các tên của Allah.” Chị đưa chiếc lông lên mơn trớn đôi môi.
“Trời có mắt... Người sẽ cứu anh. Không cần có em. Không cần những lời cầu khẩn
của em... Người phải làm điều ấy.”

Tiếng gõ cửa khiến chị im
bặt. “Hẳn là lão Mollah.” Chẳng hề muốn ra mở cửa. Lại gõ cửa. Chị ngập ngừng.
Lại gõ. Chị rời căn phòng. Tiếng chân chị lạo xạo cho đến tận ngoài đường. Chị
nói với một ai đó. Tiếng nói của chị tắt lặng trong sân, sau các tấm kính.

Một bàn tay sợ sệt mở cánh
cửa phòng. Một trong hai đứa bé gái bước vào. Khuôn mặt dịu dàng dưới mái tóc
bù xù. Mảnh khảnh. Đôi mắt nhỏ nhìn chăm chăm người đàn ông. “Bố!” nó gọi; và,
nó tiến tới, rụt rè. “Bố, bố ngủ à? Bố có cái gì trong miệng thế?”, ngón tay nó
chỉ vào ống truyền dịch. Nó dừng lại cạnh bố, không dám đặt bàn tay lên má bố. “Nhưng
bố có ngủ đâu!” nó kêu lên. “Sao lúc nào mẹ cũng bảo là bố ngủ? Mẹ bảo là bố
ốm. Mẹ không cho con vào đây và nói chuyện với bố... Nhưng mẹ, lúc nào mẹ cũng
nói với bố.” muốn ngồi xuống cạnh bố, nhưng tiếng kêu của em gái nó, nấp trong
góc cửa hé mở ngăn nó lại. “Im đi!” nó bắt chước cách của mẹ bảo em, và nó chạy
đến chỗ con bé. “Đến đây với chị!” nó bảo con bé, rồi nắm tay kéo em tới chỗ
bố. Sau một thoáng nhìn nghi ngại, con em trèo lên ngực bố và nắm lấy chòm râu
bố mà kéo lấy kéo để. Con chị hăng hái kêu to: “Nào, bố ơi, bố nói đi!”, cúi
xuống phía miệng bố, và sờ vào ống truyền. “Bỏ cái thứ này ra! Và nói đi!” Nó
kéo ống truyền ra hi vọng nghe được một lời của bố. Chẳng có lời nào cả. Chỉ có
những hơi thở. Chậm và sâu. Nó nhìn chằm chằm vào miệng bố đang hé mở. Tò mò,
nó cho tay vào miệng và lôi con ruồi ra. “Một con ruồi!” nó kêu lên, và vẻ kinh
tởm, nó ném con ruồi xuống đất. Con em cười và kề chiếc má nứt nẻ của nó lên
ngực bố.

Người mẹ đi vào. Hoảng hốt,
chị thét lên: “Các con làm gì thế?!”, chị lao về phía bọn trẻ, “Đi ra! Đến đây!”,
và cầm tay lôi chúng đi. “Một con ruồi! Bố ăn một con ruồi!” bọn trẻ kêu lên,
gần như cùng một lúc. “Các con im đi!”, người mẹ ra lệnh.

Họ đi ra khỏi phòng.

Con ruồi, chìm trong nước
bọt, giãy giụa trên tấm thảm len.

Người đàn bà trở vào phòng.
Trước khi cắm lại ống dẫn vào miệng người đàn ông, chị nhìn lo lắng và ngạc
nhiên. “Con ruồi?!” Không nhìn thấy gì, chị cắm lại ống dẫn và đi ra. Một lúc
sau, chị trở lại rót nước ngọt - mặn vào túi dịch truyền, và tra thuốc vào mắt
người đàn ông.

Xong việc, chị ngồi xuống bên
chồng.

Chị không đặt bàn tay phải
lên ngực chồng nữa.

Chị không lần chuỗi hạt đen
của mình theo nhịp thở của chồng nữa. Chị đi ra.

Chị chỉ trở lại vào lúc có
tiếng gọi cầu kinh buổi trưa, không phải để lấy tấm thảm nhỏ, mở, trải ra nền
đất và cầu kinh. Chị chỉ trở lại để tra thuốc lần nữa vào mắt người đàn ông.
Một, hai. Một, hai. Và lại đi ra.

Sau lời gọi cầu kinh, giọng
khàn khàn của ông Mollah cầu Đức Thánh ban sự che chở cho các tín đồ trong ngày
thứ Tư này: “... Bởi, như đấng Tiên Tri đã nói: đây là một ngày tai họa khi
Pharaon và nhân dân của ông bị dìm chết và nhân dân của nhà Tiên tri Sâlih,
những Ad và Thamoũd bị trừ diệt...” Ông dừng lại rồi tiếp rất nhanh giọng đầy
lo sợ: “Hỡi các tín đồ thân yêu, như ta vẫn luôn chỉ cho các người, ngày thứ
Tư, theo truyện kể về Đấng Tiên tri của chúng ta, người cao cả nhất, là ngày
không được trích máu, không được cho, cũng không được nhận. Tuy nhiên, một
trong những truyện kể, do Ibn Younès truyền lại, trong thời Djihad ta lại có
thể thực hiện những điều đó. Ngày hôm nay, người anh em của các ngươi, vị Tư
lệnh đáng kính trao vũ khí cho các ngươi để các ngươi bảo vệ danh dự của mình,
máu của mình, bộ lạc của mình!”

Ngoài đường, những người đàn
ông hét vang: “Allah-o Akbar!” Họ chạy. “Allah-o Akbar!” Tiếng họ xa dần, “Allah-o...”,
và tiến đền gần đền thờ.

Vài con kiến lảng vảng quanh
xác con ruồi trên tấm thảm len. Rồi ùa vào mang nó đi.

Người đàn bà trở lại lo lắng
nhìn người đàn ông. Chị sợ, có thể, lời kêu gọi cầm vũ khí khiến anh ta bật
dậy!

Chị dừng lại không xa cánh
cửa. Các ngón tay chị lần trên đôi môi, rồi, bồn chồn, đặt vào giữa hai hàm
răng, như để moi những từ không dám bật ra. Chị rời căn phòng. Nghe tiếng chị
chuẩn bị gì đó cho bữa ăn trưa, nói chuyện đùa với các con.

Rồi giấc ngủ trưa.

Bóng tối.

Im lặng.

Chị trở lại, người đàn bà ấy.
Đỡ bồn chồn hơn. Ngồi cạnh người đàn ông. “Lúc nãy, là ông Mollah. Ông ta đến
cho buổi cầu kinh của chúng ta. Em đã thổ lộ với ông rằng từ hôm qua người em
đã bị uế, em đã có tháng, cũng giống như Eva. Ông ta không thích. Em không biết
tại sao. Vì em đã dám ví mình với Eva, hay vì em đã nói với ông ta chuyện em có
tháng? Ông ta vừa đi vừa lẩm bẩm trong bộ râu. Trước đây ông ta đâu có thế, có
thể đùa với ông ta. Nhưng, từ khi các anh tuyên bố, cái đạo luật mới ấy trên
đất nước này, ông ta cũng thay đổi. Ông ta sợ, khốn khổ cho ông ta.”

Chị nhìn cuốn kinh Coran. Chị
chợt giật mình: “Ôi, chiếc lông công?!” Chị tìm trong các trang sách. Không
thấy. Dưới gối, không thấy. Trong túi, tìm thấy. Sau một tiếng “ồ”, chị trở lại
chỗ cũ. “… Cái ông Mollah ấy khiến em mất trí!” Chị vừa nói vừa đặt chiếc lông
vào bên trong cuốn kinh Coran. “Lúc nãy em đang nói gì nhỉ?… Phải rồi, chuyện
em có tháng… Tất nhiên, là em đã nói dối ông ta.” Chị nhìn anh nồng nàn, nhưng
ranh mãnh nhiều hơn là ân cần. “Cũng như em đã dối anh… nhiều lần!” Chị thu đôi
chân vào ngực và ấn cằm vào giữa hai đầu gối: “Nhưng dẫu sao em vẫn phải thú
nhận với anh một chuyện…” Chị nhìn anh hồi lâu. Vẫn với vẻ lo lắng kì lạ trong
ánh mắt. “Anh biết không…” Giọng chị khàn đi. Chị nuốt nước bọt để lấy lại
giọng và ngẩng đầu lên. “Lần đầu tiên chúng ta ngủ cùng nhau… sau ba năm cưới,
em nhắc để anh nhớ! Đêm ấy em đã có tháng.” Cái nhìn của chị trốn người đàn ông
để lẫn vào những nếp chăn. Chị đặt má trái lên đầu gối. Ở mắt nơi có chiếc sẹo,
nỗi lo lắng đã biến mất. “Em không nói gì với anh cả. Và anh, anh đã tưởng… máu
đó là dấu hiệu em vẫn còn trinh!” Một cái cười nén lại khiến cả thân hình chị
đang ngồi thu lại cũng run lên. “Nhìn thấy máu, anh rất mừng, rất tự hào!” Một
lúc. Một cái nhìn. Và nỗi lo sợ sẽ nghe một tiếng thét giận dữ, một câu rủa.
Thế là dịu dàng và thanh thản, chị bèn thả mình trôi vào những góc khuất của
các kỉ niệm: “Đúng ra em phải không có tháng. Không đúng kì, nhưng em đã có
trước một tuần, đấy hẳn là nỗi lo lắng và sợ hãi sẽ gặp anh. Đấy, anh thử tưởng
tượng xem, làm vợ chưa cưới suốt một năm, rồi làm vợ một người đàn ông vắng mặt
suốt ba năm, đâu phải là chuyện dễ dàng! Em sống với tên anh. Vậy mà trước đó
thậm chí em chưa hề nhìn thấy anh, nghe giọng anh, chạm vào anh. Em sợ, sợ mọi
thứ, sợ anh, sợ chiếc giường, sợ máu. Nhưng đồng thời đó là một nỗi sợ mà em
yêu quý. Anh biết đó kiểu sợ ấy nó không khiến anh xa cách với nỗi ham muốn của
mình, trái lại, nó kích thích anh, nó chắp cánh cho anh, thậm chí có thể thiêu
cháy anh. Em sợ đúng như vậy đấy. Ngày lại ngày, nó lớn lên trong em, xâm chiếm
lấy bụng em, lòng dạ em…, đúng trước ngày anh đến, nó tuôn trào ra. Đấy không
phải là nỗi sợ xanh mặt. Không. Đó là một nỗi sợ màu đỏ, đỏ máu. Khi em kể
chuyện đó với bà cô em, bà khuyên em không nên nói gì cả… Vậy là em đã nín
lặng. Và như vậy là tiện cho em. Dù còn trinh, quả thật em lo sợ. Em tự nhủ sẽ
xảy ra chuyện gì nếu đêm đó em không chảy máu…” Bàn tay chị quét qua không khí
cứ như chị đang xua một con ruồi. “… Hẳn sẽ là một thảm họa. Em đã nghe bao
chuyện về đề tài đó. Em có thể tưởng tượng ra tất cả.” Giọng chế giễu: “Đem máu
uế làm máu trinh, là một ý tưởng thiên tài, đúng không?” Chị nằm xuống và cuộn
vào lòng người đàn ông: “Em chẳng bao giờ hiểu được tại sao ở các anh, đàn ông
các anh, lòng tự hào lại gắn chặt đến thế với máu.” Bàn tay chị lại đưa lên
không. Các ngón tay chị động đậy. Tưởng như chị ra dấu cho một ai đó vô tình
lại gần. “Nhưng anh có nhớ một buổi tối, ấy là hồi chúng ta mới sống chung cùng
nhau, anh về muộn. Say mèm. Anh hút thuốc. Em đã ngủ. Không nói một tiếng, anh
đã tụt quần em xuống. Em đã tỉnh dậy. Nhưng em vẫn làm như đang ngủ say. Anh
đã… đi vào em… anh sướng rơn lên… nhưng khi anh trở dậy đi rửa, anh đã nhận ra
là có máu trên cái ấy của anh! Giận dữ, anh quay lại và đánh em ngay giữa đêm
khuya, chỉ vì em không báo cho anh là em có tháng. Em đã làm ô uế anh!” chị
cười nhạo. “Em đã làm cho anh trở thành một người ô uế!” Bàn tay chị bắt lấy
trong không khí những kỉ niệm của chị, nắm chặt lại và đưa xuống để vuốt ve
trên bụng mình đang phồng lên và xẹp xuống theo nhịp nhanh hơn nhịp thở của
người đàn ông.

Bằng một cử động đột ngột,
chị để tay bàn tay trượt xuống thấp, bên dưới chiếc áo dài của chị, giữa hai
đùi. Nhắm mắt lại. Thở sâu, đau đớn. Chị ấn mạnh các ngón tay vào giữa hai chân
mình, cứ như chị sắp cắm vào ấy một lưỡi dao. Nín thở, chị rút bàn tay ra cùng
một tiếng kêu nén lại. Mở mắt, nhìn vào đầu các ngón tay: chúng ướt. Đẫm máu.
Đỏ máu. Chị đặt bàn tay trước khuôn mặt đờ đẫn của người đàn ông. “Nhìn xem!
Vẫn là máu của em đấy, máu sạch. Máu tháng với máu sạch nào có gì khác nhau?”
Bàn tay chị hạ xuống sát mũi anh. “Anh được sinh ra từ máu này đấy! Nó còn sạch
hơn cả máu của chính anh.” Các ngón tay giận dữ của chị chạm vào râu anh. Khi
chạm vào môi anh, chị cảm thấy hơi thở của anh. Một cơn rùng mình lo sợ chạy
khắp mặt da chị. Cánh tay chị run rẩy. Chị rụt tay về, siết các ngón tay, và,
áp miệng vào chiếc gối, còn kêu lên một tiếng nữa. Chỉ một tiếng. Dài. Xé ruột.
Và bất động. Lâu. Rất lâu. Cho đến khi người mang nước gõ cửa nhà bên, tiếng ho
sù sụ của bà già hàng xóm xuyên qua tường, khi người mang nước trút túi nước
của cậu ta vào vại chứa nước của người vào vại chứa của người láng giềng, khi
một đứa con gái của chị khóc trong hành lang. Đến lúc đó, chị đứng dậy và bước
ra khỏi phòng mà không dám nhìn chồng.

Sau đó, rất lâu sau đó, khi
lũ kiến đã mang được xác con ruồi đến chân tường ngăn giữa hai cửa sổ, người
đàn bà trở lại với một tấm đắp sạch và cái chậu nhỏ bằng nhựa. Chị nhấc tấm đắp
phủ đôi chân người đàn ông, lau bụng, hai bàn chân, dương vật cho anh… đắp lại
cho anh. “Còn kinh tởm hơn cả một xác chết! Chẳng có mùi gì hết.” Và ra đi.

Lại là đêm.

Căn phòng một màu đen tuyệt
đối.

Đột ngột, ánh chớp chói lòa
của một vụ nổ. Tiếng nổ dữ dội rung chuyển đất. Luồng hơi dội vỡ cả kính.

Những tiếng kêu thét xé rách
các cuống họng.

Một tiếng nổ thứ hai. Lần này
gần hơn. Nên, cũng dữ dội hơn.

Bọn trẻ khóc.

Người đàn bà kêu thét.

Tiếng chân họ hoảng hốt vang
lên trong hành lang và mất hút dưới tầng hầm.

Bên ngoài, không xa, có gì đó
bốc cháy, có thể là cái cây nhà hàng xóm. Ánh lửa xé toạc bóng tối trong sân
vào trong căn phòng.

Bên ngoài, có ai đó kêu lên,
những người khác thì khóc, và vài người nào đó bắn súng Kalachnikov, không biết
từ đâu và nhằm vào ai… họ bắn, bắn…. Cuối cùng tất cả dừng lại trong ánh sáng
máu xám của một buổi rạng đông mờ ảo. Im lặng dày đặc đổ ập xuống trên con phố
bốc khói, trên mảnh sân nay chỉ còn là một khu vườn chết, trên căn phòng nơi
người đàn ông, người phủ đầy nhọ, vẫn nằm như mọi khi. Bất động. Vô cảm. Với
những hơi thở, chậm.

Tiếng rít ngập ngừng của một
cánh cửa đang mở ra, tiếng bước chân thận trọng trong hành lang, không phá vỡ
khối im lặng chết người ấy, chỉ nhấn thêm. Những bước chân dừng lại sau cánh
cửa. Sau một lúc nghỉ dài - bốn hơi thở của người đàn ông, cửa mở ra. Là người
đàn bà. Chị bước vào. Cái nhìn của chị không dán ngay vào anh, thoạt tiên nó
xem xét tình trạng căn phòng: những mảnh kính, lớp nhọ đã in lên những con chim
di cư trên các tấm rèm, trên các kẻ sọc mờ nhạt của tấm thảm len, trên cuốn
kinh Coran vẫn để mở, trên cái túi truyền dịch đang tiết những giọt nước mặn - ngọt
cuối cùng. Rồi cái nhìn ấy quét qua tấm chăn phủ đôi chân cứng đơ của người đàn
ông, lướt qua chòm râu anh và cuối cùng đến đôi mắt anh.

Chị lo sợ bước đến gần người
đàn ông. Dừng lại. Ngắm nhìn cử động của ngực anh. Anh thở. Chị bước tới nữa,
cúi xuống, để nhìn rõ hơn mắt anh. Chúng vẫn mở, phủ bụi đen. Chị dùng mép tay
áo của mình lau mắt cho anh, cầm lấy lọ thuốc và nhỏ vào từng mắt. Một, hai.
Một, hai.

Thận trọng, chị vuốt khuôn
mặt anh để lau đi lớp nhọ, rồi cả chị nữa, chị cũng bất động. Lo âu đè nặng lên
vai, chị thở, như mọi khi, theo cùng nhịp thở của người đàn ông. Theo tiếng ho
sù sụ của bà hàng xóm xuyên qua sự im lặng của buổi rạng đông xám xịt, và khiến
người đàn bà quay đầu về phía nền trời vàng và xanh dương trên tấm rèm. Chị
đứng dậy và đi về phía cửa sổ, đạp vỡ những mảnh kính dưới chân. Qua các lỗ thủng
trên tấm rèm, chị tìm bà hàng xóm. Một tiếng kêu sắc nhọn xuyên thủng ngực chị.
Chị chạy bổ ra cửa, ra hành lang. Nhưng tiếng gầm điếc tai của một chiếc xe
tăng khiến chị phải ngưng lại. Tuyệt vọng, chị quay lại. “Cửa… cửa trổ ra đường
của nhà ta sập mất rồi! Tường nhà bên…” Giọng chị hoảng hốt chìm đi trong tiếng
gầm rú của cỗ xe tăng. Chị lại nhìn quanh phòng và dừng sững lại trên cửa sổ.
Chị bước lại gần cửa sổ, hé mở các bức rèm và rên rỉ: “Không thể thế! Không,
không thể thế!”

Tiếng xe tăng chìm đi, các
đợt ho của bà hàng xóm lại trở lại.

Người đàn bà ngã quỵ xuống
trên các mảnh kính nát. Mắt nhắm lại, giọng tắc nghẹn, chị van vỉ: “Lạy Allah…
nhân từ, con thuộc về…” Một tiếng súng. Chị nín thinh. Tiếng súng thứ hai. Rối
tiếng thét của một người đàn ông: “Allah o Akbar!” Và xe tăng lại bắn. Tiếng nổ
làm rung chuyển ngôi nhà, người đàn bà. Chị nằm bẹp xuống đất và bò ra cửa để
lần ra hành lang, chị chạy bổ xuống cầu thang tầng hầm và gặp bọn trẻ đang
khiếp đảm.

Người đàn ông vẫn bất động.
Thản nhiên.

Khi tiếng súng đã im – hết
đạn rồi, có thể thế, chiếc xe tăng bỏ đi. Im lặng dày đặc và ám khói trở lại
một hồi lâu. Trong cái đờ đẫn bụi bặm ấy; ở chân khoảnh tường ngăn đôi hai cửa
sổ, một con nhện đến lảng vảng gần xác con ruồi đã bị lũ kiến bỏ lại đấy. Nó
thăm dò cái xác. Nó cũng bỏ nốt, bò quanh phòng, rồi quay trở lại cửa sổ, bám
vào rèm, leo lên và lang thang trên những con chim di cư đông sững trên nền
trời vàng và xanh dương. Nó rời bầu trời và bò lên trần để rồi biến mất dọc
theo những thanh xà mục hẳn là để giăng tơ ở đấy.

Người đàn bà lại xuất hiện.
Một lần nữa với chiếc chậu nhựa, một chiếc khăn lau, một tấm đắp. Chị lau dọn
mọi chỗ. Những mảnh kính vỡ, lớp nhọ rải khắp phòng. Ra đi. Trở lại. Đổ nước
ngọt - mặn vào túi truyền, lại ngồi vào chỗ của chị cạnh người đàn ông để tra
vào mắt anh những giọt cuối cùng còn lại trong lọ thuốc. Một. Chị chờ. Hai. Chị
dừng lại. Lọ thuốc đã cạn. Chị ra đi.

Trên trần nhà, con nhện lại
xuất hiện. Nó treo mình ở đầu một sợi tơ, tụt xuống chậm rãi. Nó đáp xuống ngực
người đàn ông. Sau một lúc ngập ngừng, nó lần theo các đường quanh co của tấm
đắp dẫn đến chòm râu của anh. Ngờ vực, nó quay lại và chui vào các nếp vải.

Người đàn bà trở lại. “Vẫn có
trả đũa đấy!” chị báo tin; và vẻ quả quyết, chị bước đến chỗ người đàn ông. “Em
phải đưa anh xuống hầm.” Chị gỡ chiếc ống dẫn ra khỏi miệng anh, và đặt hai tay
dưới nách anh. Nâng anh lên. Kéo cái bộ xương ấy. Kéo lê đến trên tấm thảm len.
Dừng lại. “Em không còn sức nữa…” Tuyệt vọng. “Không, em không bao giờ đưa nổi
anh xuống cầu thang.”

Chị lại kéo anh lên tấm nệm.
Lại nhét ống dẫn vào. Và ngồi một lúc, không động đậy. Đứt hơi, căng thẳng, chị
nhìn anh khinh bỉ và cuối cùng bảo: “Thà một viên đạn lạc kết liễu anh một lần
cho xong!”, đột ngột đứng dậy để đóng các tấm rèm lại, và bước đi giận dữ rời
căn phòng.

Nghe thấy tiếng ho của bà
hàng xóm xé rách cái im lặng của buổi chiều nay, cũng như nó đang xé rách khuôn
ngực bà. Hẳn bà đang bước đi trên đống đổ nát của các bức tường. Bước chân bà,
chậm chạp và do dự, kéo lê trong khu vườn, đến gần ngôi nhà. Chẳng mấy chốc
bóng bà còng gập trên những con chim di cư ở bức rèm. Bà ho và lẩm bẩm một cái
tên không nghe được. Bà ho. Bà chờ. Vô vọng. Bà rời chỗ, bước xa xa, lại lẩm
bẩm cái tên ấy, và ho. Chẳng ai trả lời bà. Bà gọi, bà ho. Bà không chờ nữa. Bà
không lẩm bẩm nữa. Bà lầm rầm hát gì đó. Có thể là những cái tên. Rồi bỏ đi.
Xa. Rồi trở lại. Vẫn nghe thấy bà hát, mặc những tiếng động ngoài đường. Những
tiếng ủng. Những tiếng ủng của người có súng. Chúng chạy, những chiếc ủng. Tản
ra để nấp vào một chỗ nào đó, hẳn thế, sau các bức tường, trong đống vôi gạch
vụn… và chờ đêm xuống.

Hôm nay người mang nước không
đến. Cậu bé không vừa băng qua đ trên chiếc xe đạp vừa huýt sáo điệu Lai’li, Lai’li, Lai’li djân, djân, djân, em
đã làm tan nát trái tim anh…

Mọi người đều giấu mình. Lặng
tiếng. Và chờ.

Và đêm đã xuống trên thành
phố, và thành phố chìm vào cơn tê liệt của nỗi sợ. Nhưng chẳng có ai bắn súng
cả.

Người đàn bà lại vào phòng để
kiểm tra túi nước ngọt - mặn, và lại ra đi. Không một lời.

Bà hàng xóm già vẫn ho và vẫn
hát. Nghe không xa mà cũng không gần. Bà chỉ có thể đang ở đâu đó giữa những
đống gạch vụn nát của các bức tường mới đây còn ngăn cách hai nhà. Một giấc ngủ
nặng nề và đầy đe dọa xâm chiếm lấy ngôi nhà, tất cả các ngôi nhà, toàn bộ con
đường, trên cái nền những tiếng than thở được cất thành tiếng hát của bà hàng
xóm già. Và cứ vậy cho đến khi bà nghe được những tiếng động, tiếng động của
những đôi ủng. Bà liền ngừng hát, nhưng vẫn tiếp tục ho. “Họ trở lại!” tiếng bà
run lên trong cái khối đen ngòm của bóng đêm.

Chúng đến, những chiếc ủng.
Chúng lại gần. Chúng xua đuổi bà già, đi vào trong sân nhà, và tiến tới. Chúng
tiến đến tận cửa sổ. Qua những ô cửa sổ vỡ, một nòng súng vạch bức rèm có hình
những con chim di cư ra. Bằng báng súng, chúng phà cửa sổ. Ba người đàn ông vừa
hét lớn vừa nhảy bổ vào phòng. “Không ai được động đậy!” Và không có gì động
đậy. Một người trong đám bật đèn pin, rọi thẳng vào người đàn ông tê liệt, vừa
sủa lên: “Nằm im đấy, nếu không tao bắn vỡ sọ!” Ba người đều bịt đầu và mặt
bằng khăn đen. Họ vây người đàn ông, còn anh vẫn thở chậm chạp và lặng lẽ. Một
trong ba người đàn ông cúi xuống người anh, “Cứt, hắn có cái ống trong miệng!”,
rút ra, “Vũ khí của mày đâu?” y hét lên. Cái nhìn của người đang nằm vẫn vô
cảm, lạc vào trong bóng tối của trần nhà, nơi có thể con nhện đã dệt xong cái
lưới tơ của nó. “Người ta nói với mày đấy!” người cầm đèn pin hét lên. “Hắn ta
đi đời rồi!” người đàn ông thứ hai vừa kết luận vừa cúi xuống để gỡ chiếc đồng
hồ và chiếc nhẫn bằng vàng. Người thứ ba lục khắp phòng dưới tấm nệm, dưới gối,
sau bức rèm không có họa tiết, dưới tấm thảm len… “Chẳng có cái cóc khô gì cả!”
y than thở. “Đi xem ở các phòng khác!” người thứ nhất ra lệnh, y là người cầm
đèn pin và đặt chiếc ủng của y lên ngực người đàn ông. Hai tên kia vâng lời.
Chúng biến mất trong hành lang.

Tên ở lại dùng nòng súng của
y hất tấm chăn lên để nhìn cơ thể người đàn ông. Bối rối vì sự đờ đẫn và câm
lặng của người đàn ông, y nhấn mạnh gót giày lên ngực anh. “Mày nhìn cái gì
thế?” Y chờ một tiếng rên. Chẳng có gì cả. Không một tiếng than. Lúng túng, y
thử một lần nữa: “Mày có nghe thấy tao nói không?”, và dò xét khuôn mặt ngơ
ngác. Bực tức, y gầm lên: “Mày bị cắt lưỡi rồi à?” rồi làu nhàu: “Mày toi rồi
hay sao?” Cuối cùng y im lặng.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3