Nhẫn thạch - Chương 03
Sau khi đã thở rất sâu, giận dữ, y nắm lấy cổ áo người đàn ông và nhấc anh lên. Khuôn mặt nhợt nhạt và nhớn nhác của người đàn ông khiến y sợ. Y buông anh xuống, lùi ra xa, dừng lại ở cửa. Bấn loạn. “Cút đâu cả rồi, chúng mày?” y chửi lầm bầm sau vạt khăn khiến giọng y bị nghẹn lại. Y nhìn dọc hành lang tối đen và kêu lên: “Mày có đấy không?” Tiếng y vang lên trong khoảng không. Hơi thở của y cũng trở nên dài và sâu. Y quay lại chỗ của người đàn ông để nhìn anh lần nữa. Có điều gì đó kích thích trí tò mò của y, khiến y lo sợ. Chiếc đèn pin của y quét dọc tấm thân bất động và quay lại chiếu vào đôi mắt mở to. Y dùng mũi giày thúc nhẹ vào vai anh. Vẫn không có phản ứng nào hết… Y đưa khẩu súng ra trước mắt người đàn ông, rồi chĩa mũi súng vào trán anh ta, ấn xuống. Chẳng có gì cả, vẫn chẳng có gì cả. Y lấy lại hơi, và bước ra ngưỡng cửa. Y nghe hai tên kia đang cười ở một phòng nào đó. “Chúng nó làm cái quái gì thế?” Y càu nhàu, hoảng hốt. Hai tên kia, đùa bỡn, trở lại.
“Chúng mày tìm được cái gì thế?”
“Nhìn xem!” Một tên nói, giơ lên một cái nịt vú. “Có một con đàn bà!”
“Ừ, tao biết rồi.”
“Anh biết à?!”
“Thằng ngốc, chính mày đã gỡ lấy cái nhẫn của nó, đúng không?”
Tên thứ hai ném cái nịt vú xuống dưới đất, “Cô nàng hẳn có một đôi vú nhỏ!” y cười ngặt
nghẽo với tên đồng lõa. Nhưng tên cầm đèn pin thì không. Y có vẻ suy nghĩ: “Tao cảm giác có biết hắn ta”, y lẩm bẩm và bước về phía người đàn ông. Hai tên kia đi theo.
“Ai vậy?”
“Tao không biết tên hắn.”
“Hắn là người bên ta à?”
“Tao ngờ thế.”
Chúng vẫn đứng đấy, mặt vẫn giấu sau những tấm khăn đen.
“Hắn ta nói à?”
“Không, hắn chẳng nói gì hết. Hắn không hề cử động.”
Một tên đá vào người anh ta:
“Ê, thức dậy nào!”
“Đừng, mày không thấy hắn mở mắt đấy sao!?”
“Anh đã giết hắn à?”
Tên cầm đèn pin lắc đầu, và hỏi: “Vợ hắn đâu?”
“Chẳng có ai trong nhà sất.”
Lại im lặng. Một sự im lặng kéo dài trong đó có mọi thứ đều thuận theo duy nhất nhịp thở của người đàn ông. Chậm và nặng. Cuối cùng một tên không còn chịu được nữa. “Vậy ta làm gì bây giờ? Ta cút chăng?” Không ai trả lời.
Chúng không nhúc nhích.
Lại nghe tiếng hát của bà già hàng xóm, ngắt quãng bởi cơn ho sù sụ. “Mụ điên đã trở lại”, một tên nói. “Có thể là mẹ hắn,” một tên đoán. Tên thứ ba nhảy qua cửa sổ và chạy về phía bà già. “Mẹ ơi, mẹ ở đây à?” Bà già hát: “Ta ở đây…”, bà ho, “ta ở kia…”, bà ho, “ta ở đâu ta thích, ở nhà con gái ta, ở nhà đức vua, ở đâu ta thích… nhà con gái ta, nhà đức vua…” và ho. Tên đàn ông lại đuổi bà ta đi khỏi đám đổ nát của chính nhà bà, và trở lại. “Mụ ấy điên hẳn rồi!”
Các cơn ho xa dần và chìm mất ngoài xa. Tên cầm đèn pin nhìn thấy cuốn kinh Coran dưới đất, y xô tới, cầm lấy, cúi lạy, vừa ôm lấy cuốn sách vừa cầu khẩn sau chiếc khăn bịt mặt của y. “Đây là một người Hồi giáo tốt!” y kêu to.
Chúng lại im lặng suy nghĩ. Cho đến khi một tên, vẫn là tên lúc nãy, sốt ruột: “Nào, chúng ta làm đếch gì bây giờ đây? Lùng soát đi chứ, cứt thật, ta không nã pháo vào khu phố này để chẳng được gì, đúng không?!” Chúng đứng lên.
Tên cầm đèn pin đắp chăn lại cho người đàn ông đang nằm, nhét ống truyền vào miệng anh, và ra hiệu cho hai tên kia ra đi.
Chúng bỏ đi. Với cuốn kinh Coran.
Lại rạng sáng.
Lại tiếng bước chân người đàn bà.
Chị bước lên cầu thang tầng hầm, đi hành lang, vào phòng mà không ngạc nhiên thấy
cửa phòng đã mở, rèm đã kéo ra; không hề ngỡ người lạ đã vào phòng. Chị nhìn chồng. Anh thở. Chị bước ra rồi trở lại với hai cốc nước. Một để đổ vào túi truyền, một để thấm ướt đôi mắt người đàn ông. Ngay lúc đó chị không nhận ra gì khác. Hẳn vì bóng tối trong phòng. Trời chưa sáng hẳn, những tia nắng chưa xuyên vào trên nền trời thủng của các tấm rèm có họa tiết chin di cư. Chỉ sau đó, khi trở lại thay tấm đắp và áo cho anh chị mới nhận ra cổ tay và bàn tay anh đã trống không. “Đồng hồ của anh? Nhẫn của anh đâu?” Chị nhìn kĩ hai bàn tay anh, túi anh. Chị lục dưới chăn. Luống cuống, đi mấy bước trong phòng. Quay lại. “Có chuyện gì thế này?” Lo lắng, rồi sợ hãi, chị tự hỏi: “Có ai đã vào đây sao?”, và bước đến cửa sổ. “Đúng rồi, đã có người vào!” chị kêu lên, hoảng sợ, khi thấy cửa sổ đã bị phá. “Nhưng mà… Mình chẳng nghe thấy gì cả!” Chị lùi lại. “Mình đã ngủ! Lạy Allah, đến mức này ư?!” Hoảng hốt, chị chạy ra hành lang, để người đàn ông chưa đắp gì cả đấy. Ở ngưỡng cửa, nhặt chiếc nịt vú. “Chúng đã lục tung cả nhà?! Chúng không xuống tầng hầm?!” Chị gục xuống bên người đàn ông, nắm lấy tay anh và kêu lên: “Chính anh… Anh đã động cựa được! Anh làm mọi thứ để khiến em sợ! Anh làm em phát điên lên! Chính anh!” Chị lay anh thật mạnh. Rút ống dẫn ra. Và chờ. Vẫn không có dấu hiệu nào cả, không một âm thanh. Đầu chị rụt vào giữa hai vai. Một tiếng nức nở xé rách cổ họng chị, lay chuyển thân hình chị. Sau một tiếng thở dài tắc nghẹn, chị đứng lên, đưa ống tay áo lau mắt, và trước khi bỏ đi, cắm lại ống dẫn vào miệng anh.
Nghe tiếng chị đi kiểm tra các phòng khác. Chị dừng lại khi tiếng ho sù sụ của bà hàng xóm tiến đến gần nhà. Chị vội bước ra sân và gọi bà già: “Bibi… đêm qua có người đến phải không?”
“Đúng rồi, con gái của ta, có đức vua đến đấy…”, bà ho, “Người đến thăm ta… Người đã âu yếm ta…”, bà cười, rồi ho. “Con có bánh mì không, con gái của ta? Ta đã dâng hết phần mình cho đức vua rồi… Người đói… Người đẹp lắm, đức vua ấy! Đẹp đến chết đấy chứ! Người đã yêu cầu ta hát.” Bà cất tiếng hát: “Ôi, đức vua nhân từ. Con khóc than nỗi cô đơn của con. Ôi, đức vua…”
“Còn những người khác đâu? Chồng mẹ, con trai của mẹ?” người đàn bà hỏi. Bà già ngừng hát, và giọng buồn rầu, bà kể tiếp: “Người đã khóc, đức vua ấy, khi Người nghe ta hát! Người còn yêu cầu chồng ta và con trai ta nhảy múa theo điệu hát của ta. Họ đã nhảy, Đức vua yêu cầu họ nhảy vũ điệu tử thần… thậm chí họ không biết điệu ấy…” Bà cười, và tiếp: “Đức vua bèn dạy cho họ bằng cách chặt đầu họ… và thế là họ bắt đầu múa!” Bà lại than khóc: “Ôi, đức vua, hãy biết rằng trái tim ta không còn chịu nổi thiếu vắng Người. Đã đến lúc Người phải trở về…” Người đàn bà lại ngắt lời bà: “Nhưng mà… lạy Allah, nhà mẹ? Chồng mẹ, con trai mẹ… họ còn sống không?” Bà già nói lí nhí, như một đứa bé: “Ừ, họ ở đấy, chồng ta, con trai ta… ở trong nhà…,” bà ho, “họ giấu đầu dưới hai cánh tay,” bà ho, “vì giận ta!”, bà già khóc. “Họ không nói với ta nữa! Bởi vì ta đã cho đức vua tất cả bánh mì. Con có muốn gặp họ không?”
“Nhưng…”
“Đến đây nào! Nói chuyện với họ đi!”
Họ bước ra xa, băng qua đống đổ nát. Không còn nghe tiếng họ.
Đột nhiên, một tiếng thét, của người đàn bà. Kinh hoàng. Gây kinh hoàng. Bước chân chị băng qua các tấm đá lát, vấp trên các đống đổ nát, băng qua khu vườn và trở vào nhà. Chị vẫn hét lên. Chị nôn oẹ. Chị khóc. Chị chạy trong nhà, Như một người điên. “Tôi sẽ đi khỏi đây. Tôi đi tìm bà cô tôi. Bất cứ giá nào!” Tiếng chị hoảng sợ lan khắp hành lang, trong các phòng, dưới tầng hầm. Rồi chị đi lên cùng lũ con. Chị rời bỏ ngôi nhà mà không ghé qua nhìn người đàn ông. Nghe họ đi xa dần, đuổi theo là những tràng ho và những lời ngâm nga của bà già khiến bọn trẻ con cười rộ lên.
Mọi thứ chìm trong câm lặng và bất động của người đàn ông.
Và cứ thế kéo dài.
Rất lâu.
Thỉnh thoảng, tiếng ruồi bay
quét qua sự im lặng. Thoạt tiên chúng quay lại vẻ rất quả
quyết, nhưng sau một vòng bay
khắp phòng chúng lạc trên cơ thể người đàn ông. Rồi lại bay đi.
Đôi lúc, một làn gió nhẹ nổi
lên và lay các tấm rèm. Nó đùa với lũ chim di cư bị gắn chặt trên nền trời vàng
và xanh dương, thủng mấy chỗ. Ngay cả một con ong vò vẽ, với tiếng đập cánh đầy
đe dọa, cũng không xua được không khí đờ đẫn của căn phòng. Nó lảng vảng, lảng
vảng quanh người đàn ông, đậu xuống trên trán anh – đốt anh hay không, chẳng ai
biết được, rồi bay lên trần, trong các cây xà mục, để làm tổ ở đấy, hẳn thế. Mơ
ước về một cái tổ của nó kết thúc trong chiếc mạng nhện.
Nó quẫy cựa. Rồi chẳng còn gì
nữa.
Chẳng còn gì nữa. Rồi đêm lại
xuống.
Tiếng súng lại vang lên.
Bà hàng xóm trở lại với các
bài hát và những tràng ho như vọng lên từ chốn âm phủ của
bà. Và chẳng bao lâu lại biến
mất. Người đàn bà, chị ta, không trở lại.
Rạng đông.
Ông Mollah gọi cầu kinh.
Vũ khí ngủ yên. Nhưng khói và
hơi thuốc súng vẫn dai dẳng.
Và cùng lúc những tia nắng
đầu tiên xuyên vào qua các lỗ thủng trên nền trời vàng và xanh dương của các
tấm rèm, người đàn bà trở về. Một mình. Chị quay thẳng vào căn phòng, bên
chồng. Trước hết gỡ tấm mạng của chị ra. Đứng lặng im một lúc. Đưa mắt kiểm tra
mọi thứ. Chẳng có gì xê dịch. Chẳng có gì bị lấy đi. Chỉ có túi dịch truyền đã
trống trơn.
Yên tâm, chị bắt đầu hành
động. Bàn chân chị, chập choạng, bước tới chỗ tấm nệm nơi người đàn ông nằm
dài, nửa người để trần, như chị đã bỏ anh lại hôm trước. Chị nhìn anh chăm chăm
một lúc lâu, cứ như chị lại đếm các hơi thở của anh. Chị định ngồi xuống, nhưng
đột ngột, đứng sững lại, hét lên: “Cuốn kinh Coran?!” Nỗi lo lắng lại tràn
trong mắt chị. Chị săm soi khắp phòng. Không hề có dấu vết nào của lời Allah. “Chuỗi
hạt?” Chị tìm thấy dưới gối. “Có ai lại vào nữa đây?!” Lại nghi ngờ. Lại lo
lắng. “Hôm qua cuốn kinh Coran ở đó, không đúng sao?” Phân vân, chị ngồi bệt
xuống. Và đột nhiên: “Chiếc lông công!” chị kêu lên, và giận dữ lục khắp. “Lạy
Allah! Chiếc lông!”
Tiếng trẻ con, bọn trẻ trong
khu phố, vang lên nô đùa trên các đống đổ nát:
“Hadji mor’alé?”
“Balé?”
“Đứa nào chọn nước? Đứa nào
chọn lửa?”
Người đàn bà tiến đến bên cửa
sổ, vén các tấm rèm ra, gọi bọn trẻ: “Các cháu có thấy ai
vào nhà này không?” Cả bọn,
cùng một tiếng, kêu to: “Không!”, rồi lại chơi: “Tớ chọn lửa!” Chị rời căn
phòng, lục khắp nhà.
Chán, chị quay lại, ngồi
xuống chỗ của mình dựa vào tường ngăn giữa hai cửa sổ. “Nhưng ai đã đến thế? Họ
đã làm gì anh?” Nỗi lo sợ trộn lẫn bấn loạn hiện diện trong ánh mắt chị. “Không
thể ở đây được nữa!” Chị đột ngột im bặt như có ai đó ngăn lại. Sau một lát do
dự: “Nhưng biết làm gì với anh? Em có thể mang anh đi đâu trong tình trạng này?
Em nghĩ…” Chị nhìn dán lên túi dịch đã cạn. “Em phải đi lấy nước”, chị nói để
tự trì hoãn. Chị đứng lên, đi tìm và mang vào hai cốc nước. Làm những nhiệm vụ
thường ngày. Rồi ngồi xuống. Trông chừng. Ngẫm nghĩ. Điều cho phép chị, sau vài
hơi thở, báo tin cho anh giọng gần như là đắc thắng: “Em tìm được bà cô rồi. Bà
ấy đi ra phía Bắc thành phố, ở một nơi chắc chắn hơn, chỗ người anh em họ của
bà.” Ngừng một lát. Vẫn như thường lệ, ngừng để chờ một phản ứng không đến. Chị
bèn tiếp: “Em đã gửi bọn trẻ lại chỗ bà ấy.” Lại ngừng. Rồi, trĩu nặng, chị thì
thầm: “Ở đây em sợ,” như thể thanh minh về quyết định cùa mình. Chẳng nhận được
một dấu hiệu, một lời nào đồng tình, chị cúi đầu và giọng cũng trầm xuống: “Em
sợ anh!” Cái nhìn của chị tìm một vật gì đó dưới đất. Các từ. Nhưng hơn thế
nữa, sự dạn dĩ. Chị tìm thấy chúng, nắm lấy, ném chúng ra: “Em chẳng thể làm gì
được cho anh. Em nghĩ mọi sự đã kết thúc!” Chị lại lặng thinh, rồi nói tiếp rất
vội, quả quyết: “Trông như khu vực này tới đây sẽ là chiến tuyến giữa các phe.”
Giận dữ, chị nói thêm: “Anh biết rõ điều đó, đúng không?” Lại ngừng, vừa đúng
một hơi thở để lấy lại sức mạnh mà khẳng định: “Những người anh em của anh nữa,
họ biết cả! Chính vì thế mà họ đã bỏ đi hết. Bỏ rơi chúng ta! Bọn hèn! Họ không
mang em theo bởi vì anh còn sống! Nếu…” Chị nuốt nước bọt, và cả nỗi phẫn uất
của chị. Chị lại nói, đã bớt hăng đi: “Nếu… anh chết, thì sự thể có lẽ đã khác…”
Chị ngưng ý nghĩ của mình lại. Chị ngập ngừng. Sau một hơi thở dài, chị quyết
định: “Một người trong bọn họ sẽ phải cưới em!” Một cái cười nhạo bên trong
khiến giọng chị lạc đi. “Có thể họ đã mong anh chết đi.” Chị run lên. “Lúc ấy
họ có thể… ăn nằm với em! Mà lương tâm yên ổn.” Nói xong, chị đột ngột đứng
lên, và rời khỏi phòng. Trong hành lang, những bước chân chị bồn chồn cứ đi tới
đi lui. Chị tìm một cái gì đó. Tĩnh lặng. Bình tâm. Nhưng chị quay lại, càng
kích động hơn. Chị nhảy bổ vào người đàn ông và nói tiếp những lời trước: “Những
người anh em của anh, lúc nào họ cũng thèm ăn nằm với em! Họ…” Chị bước ra xa,
lại gần. “Họ sờ mó em… suốt, suốt ba năm anh vắng mặt… họ thò tay qua cửa sổ
phòng tắm hơi mà sờ mó em khi em tắm, và họ… tự thủ dâm. Họ cũng sờ mó chúng
em, ban đêm…” Đôi môi chị run lên. Hai bàn tay chị vung vẩy trên không, trong
tóc, trong các nếp áo của chị. Bước chân chị lảo đảo trên các đường sọc đã mờ
của tấm thảm len. “Họ tự thủ…” Nói chưa hết câu, chị lại giận dữ chạy ra khỏi
phòng mà thở và trút đi nỗi căm hận của chị. “Bọn khốn! Bọn bẩn thỉu!...” chị
hét lên, uất hận. Rồi, rất nhanh, nghe tiếng chị khóc và van: “Tôi đã nói những
gì thế này?! Sao tôi lại nói ra những điều đó?! Lạy Allah, xin cứu lấy con! Con
không còn tự chủ được nữa rồi. Con nói bừa phứa mất rồi…”
Chị nhốt mình trong câm lặng.
Không còn nghe tiếng bọn trẻ
nô đùa trên các đống đổ nát. Rốt cuộc, chúng đã bỏ đi nơi khác.
Người đàn bà lại xuất hiện.
Tóc xõa rối bù. Cái nhìn nhớn nhác. Sau khi vòng qua giường, chị đến ngã gục
vào đầu người đàn ông. “Em không biết được điều gì đã đến với em. Mỗi ngày sức
lực em càng hao mòn. Như đức tin của em vậy. Anh phải hiểu cho em.” Chị vuốt ve
anh. “Em mong anh lại suy nghĩ được, lại nghe được, lại thấy được… nhìn được
em, nghe được tiếng em…” Chị dựa vào tường, và để thời gian trôi qua một hồi
lâu – có thể đến mười vòng chuỗi hạt, cứ như chị vẫn lần chuỗi hạt theo nhịp
thở của người đàn ông, để suy nghĩ, để đi vào trong những ngóc ngách cuộc đời
chị, rồi lại trở về với các kỉ niệm: “Anh chẳng bao giờ lắng nghe em, anh chẳng
bao giờ nghe em! Chúng ta không bao giờ nói với nhau về những chuyện đó! Chúng
ta cưới nhau đã được mười năm, nhưng chỉ sống chung với nhau có ba năm. Chẳng
đúng thế sao?” Chị đếm. “Ừ, mười năm rưỡi cưới nhau, ba năm sống chung! Bây giờ
em mới tính. Chỉ hôm nay em mới nhận ra tất cả!” Một nụ cười. Một nụ cười gượng
và ngắn thay cho nghìn lẻ một nỗi hối tiếc và ân hận… Nhưng, rất nhanh, các kỉ
niệm lại cuốn chị đi: “Hồi ấy em thậm chí không hề thắc mắc về sự vắng mặt của
anh. Đối với em nó thật tự nhiên! Anh đang ngoài mặt trận. Anh chiến đấu nhân
danh tự do, nhân danh Thánh Allah! Và điều đó biện minh cho tất cả. Điều đó đem
lại cho em niềm hi vọng và tự hào. Theo một cách nào đó, anh vẫn có mặt. Trong
mỗi chúng em.” Đôi mắt chị xuyên thấu thời gian, và lại thấy… “Mẹ anh, bộ ngực
đồ sộ, đến nhà em để xin hỏi em gái em. Chưa đến lượt nó lấy chồng. Đây là lượt
em. Và mẹ anh đã trả lời đơn giản: Được thôi, chẳng có gì nghiêm trọng, vậy thì
là nó! Chỉ ngón tay mập ú của bà vào em lúc em pha trà. Hoảng sợ, em đã đánh đổ
ấm trà.” Chị giấu khuôn mặt vào hai lòng bàn tay. Vì xấu hổ, hay để xua đi hình
ảnh bà mẹ chồng hẳn lúc bấy giờ rất khinh thường chị. “Anh thì nào có biết. Bố
em, chỉ chờ có thế, đã nhận lời không một giây do dự. Ông chẳng hề đếm xỉa chút
nào đến chuyện anh vắng mặt! Đúng ra anh là ai? Chẳng ai biết cả. Với tất cả
chúng em, anh chỉ là một cái tên: Người anh hùng! Và, như tất cả những người
anh hùng, đều vắng mặt! Một cô gái mười bảy tuổi hứa hôn với một người anh
hùng, thật là đẹp. Em tự nhủ: Thượng Đế cũng vắng mặt, vậy mà em yêu Người, em
tin Người… Tóm lại, họ đã làm lễ hứa hôn của chúng ta mà không có chú rể! Mẹ
anh khẳng định: Tốt thôi, thắng lợi đã đến gần! Chẳng mấy chốc sẽ hết chiến
tranh, sẽ là giải phóng, và con trai ta sẽ về! Gần một năm sau, trở lại! Thắng
lợi vẫn còn xa. Bà bèn nói: Để một cô gái trẻ đã hứa hôn lâu đến thế ở nhà bố
mẹ mình là nguy hiểm! Vậy là em phải làm đám cưới dù không có anh. Trong lễ
cưới, anh có mặt bằng một bức ảnh, và chiếc dao găm chết tiệt ấy mà người ta
đặt vào cạnh em, thay anh. Và em còn phải chờ anh ba năm. Ba năm! Trong ba năm,
em không còn được quyền gặp các bạn gái, gia đình… Có lẽ một cô gái mới lấy
chồng còn trinh không được đi lại với những người con gái khác đã có chồng.
Thật vớ vẩn! Em phải ngủ với mẹ anh, bà trông chừng em, hay đúng ra là canh
chừng trinh tiết của em. Và toàn bộ chuyện này xem ra rất bình thường, rất
đương nhiên đối với mọi người. Ngay cả với chính em! Buổi tối, em ngủ với mẹ
anh, ban ngày em trò chuyện với bố anh. Thật may là có ông ở đấy, bà khó chịu.
Bà vội đuổi em vào bếp. Bố anh đọc cho em nghe các bài thơ, kể chuyện cho em
nghe. Ông ấy khuyên em đọc sách, viết, suy nghĩ. Ông ấy yêu em. Bởi vì ông ấy
yêu anh. Ông ấy lấy làm tự hào về anh vì anh chiến đấu cho tự do. Ông ấy nói
với em về điều đó. Chính là sau giải phóng ông ấy mới bắt đầu ghét anh, anh, và
cả các anh em của anh nữa, khi các anh chỉ còn đánh nhau vì quyền lực.”